LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu
thế tất yếu mà không có một quốc gia nào muốn phát triển lại tự đặt mình ra
ngoài quy luật tất yếu ấy. Theo tinh thần nghị quyết số 07-NQ/TW ngày
27/11/2001 của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế: Việt Nam phải xây
dựng một hệ thống ngân hàng đa dạng về hình thức, hoạt động có hiệu quả, an
toàn, nâng cao năng lực cạnh tranh, có uy tín với khách hàng, huy động tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và mở rộng đầu tư, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, cuộc cạnh tranh không cân sức giữa
các nước ngày càng gay gắt và quyết liệt. Để không bị tụt hậu, việc nâng cao
khả năng của mỗi quốc gia nói chung và sức cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại nói riêng luôn là yếu tố có ý nghĩa quyết định.
Cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước (CPH NHTMNN) được
đặt ra trong giai đoạn này là phù hợp với tiến trình đổi mới hoạt động ngân
hàng để hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, CPH NHTMNN còn mang ý
nghĩa lớn hơn, không chỉ giúp hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn,
mà đi liền với đó là giúp hình thành cơ chế, tạo môi trường để các Doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động hiệu quả hơn, thúc đẩy tiến trình CPH
các DNNN vốn đang diễn ra chậm chạp.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Một số vấn đề về cổ
phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước ở Việt Nam”. Đề tài gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về cổ phần hoá Ngân hàng
Thương mại Nhà nước.
Chương 2: Tiến trình cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm thúc đẩy cổ phần hoá
1
Ngân hàng Thương mại Nhà nước ở Việt nam trong thời gian tới
Đây là lĩnh vực còn rất mới và phức tạ. Bên cạnh đó lượng kiến thức
tích luỹ, thời gian cũng như điều kiện nghiên cứu còn hạn chế. Chính vì vậy,
mặc dù được sự giúp đỡ tận tình của PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai nhưng những
vấn đề được trình bầy dưới đây còn rất nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được
sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn.
2
CH NG IƯƠ
NH NG V N LÝ LU N CHUNG V C PH N HO C C NG NỮ Ấ ĐỀ Ậ Ề Ổ Ầ Á Á Â
H NG TH NG M I NH N C (CPH NHTMNN)À ƯƠ Ạ À ƯỚ
1.1 – C ph n hoá Doanh nghi p nh n c.ổ ầ ệ à ướ
Cổ phần hoá đã có lịch sử hàng trăm năm nay. Sự ra đời của loại hình công
ty này gắn liền với trình độ phát triển xã hội hóa nền sản xuất và sự phát triển
cao của nền kinh tế thị trường. Qúa trình hình thành công ty cổ phần không
phụ thuộc ý muốn chủ quan mà hội tụ nhiều yếu tố kinh tế và thị trường.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) là con đẻ của nền kinh
tế thị trường và được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, đem lại nhiều
thành công lớn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. CPH DNNN là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là
trong điều kiện những nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay: Thiếu
vốn, nợ triền miên, quản lý yếu kém, công nghệ lạc hậu…
Cơ sở lý luận và thực tiễn làm xuất hiện hiện tượng này là: Do DNNN phát
triển tràn lan, lại không được tổ chức, quản lý tốt nên hoạt động kém hiệu quả.
Do hoạt động kém hiệu quả nên DNNN trở thành gánh nặng cho Ngân sách
nhà nước (NSNN). Do có sự thay đổi quan điểm về vai trò của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường. Do sức hấp dẫn bởi vai trò của Công ty cổ phần
(CTCP)
Việc thực hiện giải pháp CPH đối với DNNN không chỉ là giải pháp cần
thiết xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, giảm bớt
gành nặng của NSNN, mà còn đáp ứng yêu cầu mới của sự phát triển kinh tế
thị trường. Việc tiến hành chuyển đổi DNNN sang CTCP suy cho cùng là do
tính xã hội hoá của sản xuất trong nền kinh tế thị trường quyết định, chứ không
phải là bột phát do ý muốn bất kỳ của cá nhân hay tổ chức nào.
Để xác định thực chất của CPH DNNN, trước hết phải phân biệt 2 quá
3
trình: Cổ phần hoá (CPH) và tư nhân hoá (TNH). TNH là quá trình chuyển
DNNN sang doanh nghiệp tư nhân. Đây là quan niệm tư nhân theo nghĩa hẹp.
TNH còn được hiểu theo nghĩa rộng, đó là thị trường hoá, “nới lỏng hay xoá
bỏ những hạn chế pháp lý dưới nhiều hình thức khác nhau đối với sự cạnh
tranh chống lại các xí nghiệp công cộng. Nó bao gồm mọi chính sách để
khuyến khích khu vực tư nhận tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công cộng
và cơ sở hạ tầng và có khuynh hướng loại trừ hay biến đổi vị trí độc quyền của
DNNN”. Liên hợp quốc cũng đưa ra khai niệm “TNH là sự biến đổi tương
quan giữa Nhà nước và thị trường của một nước theo hướng ưu tiên thị
trường”. Thực chất quan niệm trên mong muốn giảm bớt vai trò của Nhà nước
và mở rộng khu vực tư nhân, đồng thời làm cho các DNNN phải chịu sức ép
lớn hơn của thị trường. Việc giảm bớt vai trò của nhà nước có thể được thực
hiện bằng nhiều cách khác nhau, trong đó bao gồm bán DNNN dưới hình thức
cổ phần cho công chúng hay còn gọi là CPH DNNN. Từ đó cho rằng CPH
DNNN là 1 nội dung của TNH.
Song theo cách tiếp cận của kinh tế chính trị Mác-Lenin, xuất phát từ
tính chất của các quan hệ kinh tế (quan hệ sở hữu về tái sản, tiền vốn ) thì
CPH không thể đồng nhất với TNH. Thực tế nhiều nước đã diễn ra quá trình
doanh nghiệp tư nhân thuần tuý hay doanh nghiệp của một nhóm chủ thông
qua phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn của các chủ sở hữu khác ngoài xã hội
để chuyển thành CTCP. Sau khi trở thành CTCP, chủ sở hữu CTCP không còn
là cá nhân riêng lẻ nữa mà trở thành tập thể các cổ đông. Quá trình này cũng
diễn ra trong DNNN. Nhà nước dựa trên giá trị thực tế của doanh nghiệp cần
được chuyển thành CTCP, xác định số lượng cổ phần, giá trị mỗi cổ phần, các
loại cổ phiếu, phương thức phát hành, sau đó bán cổ phiếu cho các tổ chức và
cá nhân. Chuyển doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữư là nhà nước thành
CTCP có nhiều chủ sở hữu là quá trình CPH DNNN. Nghĩa là CPH không chỉ
diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty liên doanh, mà
còn diễn ra tại các DNNN. CPH là quá trình thực hiện xã hội hoá sở hữu tại
4
doanh nghiệp. Đây là thực chất CPH nói chung .
CPH DNNN cũng mang thực chất của CPH nói chung nêu trên. Tuy
nhiên để làm rõ hơn tính chất CPH DNNN, cần phải theo dõi nội dung mà các
DNNN chuyển thành như thế nào?. Thực tế, DNNN chuyển thành CTCP
thông qua một trong 2 cách: (1)bán toàn bộ hay một phần tìa sản thuộc sở hữu
nhà nước tại doanh nghiệp cho các tổ chức và cá nhân bằng phương thức phát
hành cổ phiếu; (2) giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn hiện có của Nhà nước tại
doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu ra công chúng để thu hút vốn, mở rộng
doanh nghiệp. Đây chính là các hình thức khác nhau của CPH DNNN. Đồng
thời với việc chuyển sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp sang sở hữu của tập thể
cổ đông là việc chuyển quản lý doanh nghiệp từ trực tiếp của chủ sở hữu nhà
nước sang gián tiếp của các cổ đông thông qua Hội đồng quản trị. Về hình
thức, CPH DNNN là quá trình Nhà nước bán một phần hay toàn bộ tài sản của
mình tại doanh nghiệp cho các tổ chức và cá nhân bằng việc đấu giá công khai
thông qua TTCK để hình thành CTCP. Về thực chất, CPH DNNN chính là
phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một
chủ với sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp thành CTCP với nhiều chủ sở
hữu để tạo thành một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường
và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện tại. Vấn đề mấu chốt để phân biệt
CPH và TNH là sự phân biệt quyền sở hữu, quyền sử dụng và quản lý doanh
nghiệp sau khi doanh nghiệp chuyển thành CTCP hay Công ty tư nhân. CPH
DNNN không phải là tư nhân hoá. Đây là 2 quá trình khác nhau, cần có sự
phân biệt.
1.1.1 – L i ích t c t vi c CPH DNNN Vi t Nam:ợ đạ đượ ừ ệ ở ệ
Chủ trương CPH DNNN được đặt ra khi đất nước ta bước vào thời kỳ
đổi mới theo quyết định số 143/HĐBT ngày 15/10/1990 và thực hiện thí điểm
từ năm 1992 theo quyết định số 202/HĐBT ngày 8/6/1992 của Hội Đồng Bộ
Trưởng. Đây là quá trình khó khăn phức tạp với nhiều thử thách, tìm tòi và
5
ứng dụng từ những kinh nghiệm của các nước trên thế giới để lựa chọn
phương thức phù hợp với những đặc thù riêng của Việt Nam đang trong quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Việc CPH DNNN được thực hiện và mở rộng
mạnh mẽ ngay sau khi thực hiên Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX về sắp xếp,
đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả DNNN. Trong giai đoạn thí điẻm CPH
(năm 1992 đến 5/1996) số DN được CPH là 5 DN. Giai đoạn mở rộng thí điểm
(cuối năm 1996 đến 6/1998) CPH được 25 DN. Giai đoạn triển khai (từ 7/1998
đến 9/2004) tiến hành CPH được 1690 DN. Tổng số DN được CPH theo nghị
định số 44/1998/NĐ-CPH ngày 26/6/1998 của Chính Phủ là 1720 DN (theo
Nghiên cứu kinh tế số 320). Số doanh nghiệp còn lại khoảng 4300, trong đó
phải tiến hành đa dạng hoá hoặc CPH khoảng 2400 doanh nghiệp. Trong số
các DNNN được CPH, các DNNN có vốn dước 5 tỷ đồng là 1018 doanh
nghiệp, chiếm 59,2%; các DNNNcó vốn nhà nước từ 5-10 tỷ đồng chiếm
22,3%; còn lại các doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng là 318 doanh
nghiệp, chiếm 18,5%.
CPH đã tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, bao gồm nhà
nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp, trong
đó người lao động trong doanh nghiệp trở thành chủ thực sự phần vốn góp của
mình trong CTCP. Tính bình quân kết quả CPH thời gian qua cho thấy chủ sở
hữu Nhà nước nắm giữ 46,5% vốn điều lệ, tương ứng 10.792 tỷ đồng; người
lao động trong doanh nghiệp nắm giữ 38,1% vốn điều lệ, tương ứng 8.847 tỷ
đồng; cổ đông ngoài doanh nghiệp nắm giữ 15,4% vốn điều lệ, tương ứng
3.564 tỷ đồng.
CPH đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng nhất trong cơ cấu lại
DNNN để DNNN có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Hầu hết các DNNN sau khi CPH
đều trở nên năng động và làm ăn có hiệu quả hơn. Quy mô vốn của DNNN
nhờ đó mà tăng lên đáng kể. Năm 2001, vốn bình quân của một DNNN
6
khoảng 24 tỷ đòng, nay đã tăng lên 63,6 tỷ đồng. Tài chính doanh nghiệp được
lành mạnh hoá hơn một bước thông qua việc cơ cấu lại các khoản nợ, xử lý tài
sản ứ đọng, tồn kho lâu. CPH đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Trong quá trình CPH DNNN, một mặt vốn DNNN tại doanh
nghiệp được được đánh giá lại khách quan hơn, tiếp cận hơn với phương thức
thị trường, mặt khác đã huy động được 12.411 tỷ đồng của các cá nhân, tổ
chức ngoài xã hội vào doanh nghiệp để kinh doanh. CPH còn tạo cơ sở thúc
đẩy quá trình ra đời, hoàn thiện và phát triển của TTCK. Sự thành công và
phát triển của TTCK Việt Nam phụ thuộc vào tiến trình CPH DNNN. Tiến
trình này ngày càng tạo ra nhiều hàng hoá đủ tiêu chuẩn và chất lượng cho
hoạt động của TTCK.
CPH góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Do lợi ích được đảm bảo hài hoà, tuyết đối đại đa số sau khi CPH đều
hoạt động hiệu quả hơn. Theo báo cáo của bộ, ngành, địa phương về hiệu quả
sản xuất kinh doanh của 850 doanh nghiệp hoàn thành CPH đã hoạt động trên
một năm cho thấy: Vốn điều lệ bình quân tăng 44%; Doanh thu bình quân tăng
23,6%. trong đó 71,4% số doanh nghiệp có doanh thu tăng. Lợi nhuận thực
hiện bình quân tăng 139,76%, trên 90% số doanh nghiệp sau khi cổ phần đều
hoạt động kinh doanh làm ăn có lãi. Nộp ngân sách bình quân tăng 24,8%, mặc
dù các doanh nghiệp này được hưởng các ưu đãi về thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuê sử dụng đất, tiền thu sử dụng vốn nhà nước. Thu nhập của người
lao động bình quân tăng 12%…
Điều này vừa chứng tỏ chủ trương đúng đắn về CPH các DNNN của
Đảng và Nhà nước ta, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
1.1.2 Nh ng t n t i trong quá trình CPH DNNN:– ữ ồ ạ
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tiến trình CPH DNNN ở Việt
Nam trong những năm qua đã bộc lộ một số tồn tại sau:
Việc đa dạng hoá chủ sở hữu trong CPH còn hạn chế. Thể hiện rõ nét là
7
nhà nước còn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn điều lệ, nhiều doanh nghiệp thuộc
diện không cần giữ cổ phần chi phối nhưng nhà nước vẫn nắm giữ, phổ biến
nhất là trong các tổng công ty nhà nước thuộc ngành xây dựng, giao thông (bộ
giao thông vận tải có tới 82% doanh nghiệp đã CPH). Rất nhiều doanh nghiệp
thực hiện CPH khép kín, có tới 860 doanh nghiệp (38,4%) không có cổ phần
bán ra ngoài doanh nghiệp như tỉnh Hải Dương (28/28), Bộ Thương mại
(36/59). CPH khép kín ở một số nơi có hiện tượng định giá doanh nghiệp thấp
so với giá thị trường, gây thất thoát tài sản của nhà nước.
V n nhà n c trong các DNNN CPH còn quá nh và vi c huy ng v nố ướ ỏ ệ độ ố
trong quá trình CPH DNNN ch a c nhi u. N u tính t ng s v n nhà n cư đượ ề ế ổ ố ố ướ
theo s sách c a toàn b các doanh nghi p ã CPH là 17.700 t ng thì m iổ ủ ộ ệ đ ỷ đồ ớ
ch b ng 8,2%. S v n huy ng ngoài xã h i m i có 53,4% v n i u l , t ngỉ ằ ố ố độ ộ ớ ố đ ề ệ ươ
ng 12.411 t ng. Th c t là trong h n 10 n m th c hi n CPH DNNN,đươ ỷ đồ ự ế ơ ă ự ệ
chúng ta ch t p trung ch o CPH các DNNN quy mô nh nên tuy s DNNN CPHỉ ậ ỉ đạ ỏ ố
nhi u nh ng s v n nhà n c l i ít, do ó m c dù vi c CPH DNNN r t hi u quề ư ố ố ướ ạ đ ặ ệ ấ ệ ả
nh ng do t tr ng v n nhà n c còn quá nh nên h n ch n vi c nâng caoư ỷ ọ ố ướ ỏ ạ ế đế ệ
hi u qu và s c c nh tranh c a doanh nghi p.ệ ả ứ ạ ủ ệ
Việc CPH các DNNN chưa thực sự gắn liền với sự phát triển của thị
trường vốn và TTCK. Trong số 1483 DNNN đã CPH mới chỉ có 25 DNNN
tham gia niêm yết cổ phiếu. Điều này cũng có nghĩa là chỉ chưa đến 20%
thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế được
coi là minh bạch trên thị trường. Ngoài 25 CTCP đã niêm yết chứng khoán
trên thị trường, nhìn chung các CTCP khác vẫn mang tính khép kín, chưa có
sự thay đổi về chất. Chừng nào mà tình hình đầu tư, sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp còn thiếu minh bạch, chưa dám công khai, thì chừng đó sự phát
triển của thị trường chứng khoán sẽ chưa thể có dấu hiệu khởi sắc.
1.2 C ph n hoá Ngân h ng th ng m i nh n c– ổ ầ à ươ ạ à ướ
Khác với DNNN nói chung, NHTMNN là một doanh nghiệp nhà nước đặc
biệt, và hoạt động của Ngân hàng mang tính đặc thù riêng, bởi đó là một doanh
nghiệp với chức năng kinh doanh tiền tệ, chịu nhiều yếu tố tác động của nền
8
kinh tế. Ngược lại những cơ chế chính sách hoạt động của NHTMNN cũng sẽ
rất nhạy cảm và có sự tác động trở lại rất lớn đối với nền kinh tế. Vì vậy, đặt
vấn đề CPH đối với các NHTMNN trong bối cảnh chuẩn bị tham gia hội nhập
quốc tế ngành ngân hàng là điều kiện hết sức cần thiết, quan trọng. Tuy nhiên
nhìn chung, CPH NHTMNN là quá trình sẽ khó khăn và phức tạp hơn so với
CPH một DNNN thông thường, do NHTMNN có những đặc điểm sau:
Đây là lần đầu tiên chính thức đặt ra vấn đề thực hiện CPH một số
NHTMNN ở nước ta. Do kinh nghiệm thực tế về việc thực hiện CPH một
NHTM là chưa có.
Tất cả các DNNN ngoài khu vực ngân hàng hiện chịu sự điều chỉnh trực
tiếp của Luật DNNN; Riêng các NHTMNN, ngoài một số nội dung hoạt động
được tuân thủ theo Luật DNNN, do có những đặc thù nên về cơ bản là chịu sự
điều chỉnh của Luật các TCTD. Sự khác biệt trong cơ sở pháp lý như vậy sẽ
làm cho việc thực hiện CPH NHTMNN gặp nhiều khó khăn hơn, vì hiện nay
văn bản pháp lý về CPH mới chỉ đề cấp trực tiếp đến CPH DNNN thông
thường.
Hoạt động ngân hàng có độ nhạy cảm cao, liên quan trực tiếp đến quyền
lợi và lợi ích của đông đảo người gửi tiền và các khách hàng nên mọi giải pháp
thực hiện CPH có liên quan đều phải cân nhắc kỹ lưỡng để lựa chọn đúng trên
cơ sở đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các khách hàng.
Trong cách tính giá trị NHTMNN trước khi CPH, việc xác định giá trị
thương hiệu sẽ khó khăn hơn vì sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng và khá
trìu tượng, không giống như các sản phẩm hàng hóa của các doanh nghiệp
thông thường.
1.2.1 L i ích t vi c CPH NHTMNN:– ợ ừ ệ
1.2.1.1 i v i ngân h ng:– Đố ớ à
Một khi đã bước chân vào sân chơi chung, các ngân hàng của Việt Nam
noi chung va NHTMNN nói riêng đều phải đáp ứng được những yêu cầu rất
9
gay gắt như : quy mô hoạt động và xu thế không ngừng phát triển ổn định bền
vững, hội nhập trong hoạt động ngân hàng, thông lệ quốc tế trong hoạt động
ngân hàng, phải trở thành ngân hàng hiện đại, phải đáp ứng về năng lực tài
chính, phải tăng được sức mạnh cạnh tranh về khách hàng, thị trường thị phần
sản phẩm, dịch vụ tiện ích trong nước và quốc tế, phát triển và ứng dụng các
công nghệ tiên tiến hiện đại, có được trình độ quản lý của một ngân hàng hiện
đại, đội ngũ cán bộ quản lý mang tầm quốc tế, mở rộng các hoạt động kinh
doanh ra ngoài quốc tế.
Những yêu cầu, đòi hỏi trên là hoàn toàn chính đáng nhằm bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển bền vững trong tương lai. Trong khi nhà nước không thể
cấp thêm vốn điều lệ nữa và vì vậy đây cũng chính là lý do tại sao phải CPH
NHTMNN. Sau khi được CPH, các NHTMNN sẽ đạt được những lợi ích:
Thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư của xac hội từ bên ngoài để tăng năng
lực tài chính.
Nhanh chóng cấu trúc lại NHTMCP về hoạt động kinh doanh, mô hình tổ
chức, tài chính…
Có điều kiện tốt nhất để hoàn toàn chủ đọng và tự chịu trách nhiệm trong
kinh doanh, hoạt động hiệu qủa linh hoạt, phát triển bền vững tài chính, đủ sức
cạnh tranh trong kiều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ động đổi mới mô hình tổ chức phù hợp với các chuẩn mực quản lý
ngân hàng hiện đại. Toàn quyền bố trí cán bộ điều hành kinh doanh. Có đủ
điều kiện để tuyển dụng, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là sử dụng nhân tài, tinh
giảm biên chế, giảm dần và loại bỏ những người không đáp ứng được yêu cầu
công việc, từ đó nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả
kinh doanh.
Có điều kiện áp dụng những sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới, quản lý hiện
đại và hiệu quả. Mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, phi ngân
hàng và vị thế cạnh tranh của NHTMCP trong nước và trên trường quốc tế.
Đưa người lao động trở thành người chủ thực sự của NHCP. Khi quyền lợi
10
riêng đã được gắn kết với quyền lợi chung, người lao động sẽ luôn quan tâm
đến kết quả kinh doanh, không ngừng tiết kiệm chi phí, từ đó thiết thực nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Tạo động lực mới trong quản lý doanh nghiệp. Khi còn là NHTMNN, giám
đốc là viên chức nhà nước. Nhưng thực tế nhà nước cũng không làm chủ, mà
để cho giám đốc trở thành ông chủ, tuy danh nghĩa, song quyền hành rất lớn.
Khi CPH, người giám đốc có thể chỉ là người được thuê, phải chịu sự giám sát
chặt chẽ trong việc điều hành hoạt động NHCP. Điều này buộc người giám
đốc phải trở nên năng động, cầu tiến, có trách nhiệm thực sự đối với công việc.
1.2.1.2 L i ích i v i qu c gia:– ợ đố ớ ố
Nền kinh tế Việt Nam trước đây là nền kinh tế hàng hóa theo kế hoạch,
thị trường kém phát triển, chủ yếu tự cung tự cấp, giao lưu kinh tế yếu kém và
chủ yếu có quan hệ buôn bán với các nước xã hội chủ nghĩa…ngày nay quan
hệ kinh tế đã mở rộng ra hầu hết khu vực và hội nhập quốc tế đáng kể, tuy
nhiên vẫn mới chỉ là quan hệ đơn phương song phương mà chưa phải là thành
viên chính thức của các thị trường thế giới và khu vực (WTO), các doanh
nghiệp được thành lập hầu hết là DNNN hoạt động với cơ chế kế hoạch hóa
tập trung theo kiểu chỉ huy thông qua mệnh lệnh hành chính trực tiếp.
Hoạt động ngân hàng cũng nằm trong bối cảnh đó và các ngân hàng
thương mại trong bối cảnh chung cũng đã có những cải cách tiến bộ đáng kể,
chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
Sự vận động của kinh tế thế giới là kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường,
cơ chế thị trường là cạnh tranh không chỉ trong nước mà cả quốc tế, đây là
cuộc cạnh tranh mang tính chất toàn cầu. Cùng chấp nhận vào thị trường
chung tức là phải hội nhập quốc tế và kinh tế quốc tế để tiến tới xu thế toàn
cầu hóa.
Hầu hết các nước đều có kinh tế Nhà nước và nhìn chung kinh tế Nhà
nước đều giống nhau là hoạt động kém hiệu quả. Như vậy CPH là đòi hỏi tất
11
yếu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế và quản lý nhằm phát triển và
tồn tại trong xu thế hội nhập, trong đó bao gồm các NHTMNN là tất yếu khách
quan.
Quản lý vĩ mô (thông qua các chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, các
cơ chế chính sách kinh tế xã hội, hệ thống pháp luật ). Quản lý vi mô: các thể
chế, định chế của NHNN trên các lĩnh vực quản lý hoạt động nghiệp vụ ngân
hàng thông qua các sản phẩm dịch vụ tiện ích, các thể chế định chế về mô hình
nhân sự bộ máy tổ chức các tổ chức đoàn thể, điều lệ hoạt động quản lý, kiểm
tra, thanh tra, giám sát, hạch toán, kế toán, chế độ báo cáo kiểm toán…Các
công cụ thị trường: thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị
trường mở, thị trường chứng khoán, ngoại hối kiều hối, lãi suất liên quan tác
động chi phối đến hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Để phát huy vai trò Nhà nước, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
trong quản lý nền kinh tế và hoạt động kinh tế, đòi hỏi phải tách bạch rõ ràng
giữa chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế và các đơn vị kinh tế,
quản lý các đơn vị kinh tế. Vậy, để quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
được tốt và hiệu quả thì các doanh nghiệp phải được độc lập hoạt động theo
các nguyên tắc thị trường, có nghĩa là phải chuyển các DNNN thành các doanh
nghiệp độc lập-tự chủ, tự chịu trách nhiệm để hoạt động, và CPH chính là
phương thức hợp lý và tốt nhất để thực hiện điều này. CPH NHTMNN sẽ
mang lại cho Quốc gia những lợi ích cơ bản sau:
Đa dạng hóa và mở rộng các chủ sở hữu của nền kinh tế chung và của các
ngân hàng nói riêng.
Hạn chế sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế
và hoạt động ngân hàng. NHTMCP cũng không còn phải chịu sức ép vô hình
hoặc hữu hình của các cấp chính quyền trong hoạt động nghiệp vụ cũng như về
tổ chức cán bộ.
12
Thu hút đầu tư mới trong nước và ngoài nước vào công ty cổ phần nói
chung và NHTMCP nói riêng để nhà nước tập trung vốn của mình vào các tập
đoàn kinh tế mạnh ở một số lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm quốc phòng an ninh, an toàn xã hội; đồng thời tạo dựng
ra nhiều doanh nghiệp có vốn trong nước, thu hút và chuyển dịch lao động từ
nông thôn sang công nghiệp, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động,
nhanh chóng thúc đẩy quá trình CHN, HĐH đất nước.
Góp phần xây dựng và vận hành hệ thống tài chính-tiền tệ của nền kinh tế
lành mạnh, bảo đảm an ninh về tài chính-tiền tệ trong cạnh tranh và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Tạo điều kiện tốt nhất để các ngân hàng cạnh tranh lành mạnh. Tăng hiệu
quả hoạt động của các tổ chức tín dụng ở cả hai khu vực nhà nước và cổ phần
do tăng tính cạnh tranh từ phía các NHCP đến các NHTMNN, thúc đẩy cả hai
bên đều phải nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nâng cao chất lượng và sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đồng thời nâng cao
tính nhạy cảm của hoạt động tài chính-tiền tệ trước những biến đổi của thị
trường trong và ngoài nước.
Có điều kiện áp dụng hệ thống khuyến khích hợp lý để thu hút nhân tài,
giảm dần những người khong đáp ứng được yêu cầu công việc, góp phần đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí.
1.2.2 Kinh nghi m CPH NHTMNN m t s Qu c gia trên th– ệ ở ộ ố ố ế
gi i:ớ
1.2.2.1 Lý do Chính ph ti n h nh CPH NHTM thu c s h u Nh– ủ ế à ộ ở ữ à
n c:ướ
Trong khoảng 15 năm gần đây đã có hơn 250 ngân hàng sở hữu nhà
nước ở 59 quốc gia được tiến hành cổ phần hóa và xu hướng này được nhận
định là sẽ còn tiếp diễn ở một số nước khác như Trung Quốc và Ấn Độ trong
13
thời gian tới. Vậy yếu tố nào quyết định xu hướng đó?
Người ta thường nêu 4 lý do cơ bản để tiến hành CPH các NHTMNN.
Thứ nhất, ở các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường thì CPH được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, ngành
nghề trong nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Đây là một trong
nhiều việc cần làm để chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ chế thị
trường. Vì vậy, trong những trường hợp này, CPH thành công là một thách
thức to lớn bởi trước đó các khoản cho vay của các NHTMNN thường có chất
lượng tín dụng thấp.
Thứ hai, cổ phần hóa, tư nhân hóa các NHTMNN ở các nước đang tiến
hành hạn chế sở hữu nhà nước trên nhiều lĩnh vực.
Thứ ba, CPH NHTMNN ở các nước đang tiến hành tự do hóa tài chính,
với các nước này thì CPH NHTM là một biện pháp giảm bớt sự kiềm chế của
nhà nước đối với hệ thống tài chính.
Thứ tư, đối với một số chính phủ thì CPH là một biện pháp nhằm tăng
nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các nhà kinh tế học thì lý do cơ bản để tiến hành
CPH các NHTMNN là tính kém hiệu quả ở các doanh nghiệp sở hữu nhà nước
nói chung. Tính kém hiệu quả đó thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, những nhà quản lý ở các DNNN thường có trình độ thấp hơn
và thiếu động cơ để tối thiểu hoá chi phí và tối đa hoá doanh thu so với những
nhà quản lý ở doanh nghiệp cổ phần. Thứ hai là các DNNN thường có một cơ
chế kiểm tra giám sát lỏng lẻo bởi sự cồng kềnh về tổ chức và sự chồng chéo
trách nhiệm của nhiều đơn vị đối với một DNNN, thậm chí nếu phát hiện sai
phạm thì đợi đến khi có quyết định xử lý cũng là một thời gian dài. Thứ ba,
các DNNN thường đã kém hiệu quả ngay từ khi manh nha thành lập vì một
mục tiêu nào đó như vì lợi ích của một nhóm những người ủng hộ về chính trị
trong xã hội. Đã có một số nghiên cứu [Vickers và Yarrow (1988,1991),
Stiglitz (1993), Nellis (1994), Shleifer và Vishny (1994), Boyko, Shleifer và
14
Vishny (1996a,b), Shleifer (1998), Sappington và Sidak (1999), Shirley và
Walsh (2000)] chỉ ra rằng các DNNN là công cụ tốt nhất để tiến hành phân
phối lại thu nhập. Vì vậy, các DNNN đã hoạt động vì mục tiêu chính trị hơn là
vì thị trường theo mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Theo một nghiên cứu khác
của Boehmer (2003), ở các nước thuộc khối OECD, lý do chính để tiến hành
CPH là nhằm tăng thu cho ngân sách, còn với các nước đang phát triển khác
thì lý do CPH thường là để nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng trong
nền kinh tế.
1.2.2.2 K t qu t c sau khi c ph n hoá:– ế ả đạ đượ ổ ầ
Những nghiên cứu thực tế quá trình CPH NHTM ở các nước cho thấy,
không có một phương pháp chung nào cho tất cả các nước và kết quả của CPH
cũng khác nhau giữa các nước.
Nghiên cứu của Boehmer (2003) qua 270 NHTM được CPH giai đoạn
1982-2000 với tổng số tiền thu về cho ngân sách lên đến 119 tỉ USD cho thấy,
có 46,7% số NHTM được CPH bằng cách phát hành cổ phiếu ra công chúng
và 53,3% là bằng cách bán tài sản.
Megginson (2004), với khoảng thời gian nghiên cứu từ tháng 1/1987
đến tháng 8/2003 cho thấy, qua 283 vụ CPH NHTM đã thu về cho các chính
phủ 142,9 tỉ USD, trong đó 76,2 tỉ USD qua việc phát hành cổ phiếu ra công
chúng và 66,7 tỉ USD là qua việc bán tài sản.
1.2.2.3 Kinh nghi m Ba Lan v CPH NHTMNN:– ệ ề
Trong khối các nước Đông Âu thì Ba Lan là nước đi đầu trong quá trình
CPH các DNNN. Quá trình CPH này được sự giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính
của WB và nhóm các nước G7. Quá trình CPH NHTMNN của Ba Lan được
lên kế hoạch rõ ràng là đến hết năm 1996 sẽ CPH 7 trong số 9 NHTMNN.
Ban đầu, kế hoạch được đưa ra là nhà nước sẽ nắm 30% cổ phiếu, nhân
viên ngân hàng nắm 20%, số còn lại sẽ được bán đấu giá cho các nhà đầu tư
nhỏ và một số đối tác chiến lược. Tuy nhiên, tỷ lệ này đã được điều chỉnh qua
15
thời gian.
Kế hoạch CPH của Ba Lan được xây dựng với mục tiêu:
- Duy trì sở hữu của các nhà đầu tư trong nước, tránh sự thôn tính của các
nhà đầu tư nước ngoài.
- Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Củng cố, phát triển hệ thống ngân hàng nội địa, chuẩn bị cho sự cạnh tranh
với các ngân hàng nước ngoài.
Hai NHTMNN đầu tiên có chất lượng quản lý và tình hình tài chính
tương đối tốt hơn được tiến hành CPH vào năm 1991, và thực sự trở thành
doanh nghiệp cổ phần vào tháng 3/1993. Ngân hàng đầu tiên được CPH là
Wielkopolski Bank Kredytowy (WBK) với giá bán ra trung bình là 6,89
USD/cổ phiếu. Phương thức bán là thoả thuận giữa người mua và nhà nước để
đạt giá bán ra. Đến tháng 6/1993 (sau 3 tháng), cổ phiếu ngân hàng này được
niêm yết trên thị trường chứng khoán với giá 19,66 USD (cao hơn 3 lần so
với giá bán khi tiến hành CPH). Ngân hàng này được tiến hành CPH với sự
trợ giúp cả về kỹ thuật và đảm bảo tài chính từ phía WB để thu hút các đối tác
đầu tư chiến lược từ nước ngoài nhằm chuyển giao công nghệ ngân hàng vào
Ba Lan. Vì vậy, đến năm 1997 thì Allied Irish Bank đã nắm quyền kiểm soát
ngân hàng với 60% cổ phiếu.
NHTMNN thứ hai của Ba Lan được CPH là ngân hàng Slaski (BSK).
BSK được tiến hành cổ phần hoá vào tháng 12/1993, chậm hơn so với WBK 9
tháng. Nhằm tránh tình trạng định giá cổ phiếu thấp quá như đã diễn ra với
WBK nên cổ phiếu lần này được lên kế hoạch bán đấu giá công khai. Tuy
nhiên, quá trình bán đấu giá công khai đã không thành công do có sự thay đổi
về Chính phủ sau bầu cử. Vì vậy, giá bán cổ phiếu ngân hàng này được định
giá là 25 USD/cổ phiếu. Tỷ lệ công nhân viên được mua ưu đãi giá 12,5
USD/cổ phiếu là 10% cổ phần, nhà nước giữ 33%, bán cho nhà đầu tư chiến
lược ING Bank của Hà Lan 25,9%, số còn lại bán cho các nhà đầu tư trong
nước. Đến ngày 25/1/1994, cổ phiếu ngân hàng này được niêm yết và lần này
16
thì giá cổ phiếu được thị trường chấp nhận tại phiên giao dịch đầu tiên là
337,5 USD/cổ phiếu (cao hơn gấp 13,5 lần giá bán ban đầu khi tiến hành
CPH). Đến tháng 7/1996, ING mua thêm 28% cổ phần của nhà nước và nắm
tỷ lệ chi phối là 54%.
Ngân hàng thứ ba được tiến hành CPH là ngân hàng Przemyslowo-
Handlowy (BPH) vào tháng 1/1995. Tuy nhiên, đây là ngân hàng có chất
lượng quản lý và tín dụng thấp hơn so với 2 ngân hàng trước nên mặc dù đã
đưa cổ phiếu ra đấu giá công khai nhưng giá bán (giá trúng thầu) bằng đúng
với giá thấp nhất của Chính phủ đưa ra ban đầu và nhà nước vẫn nắm 43% cổ
phần.
Trước tình hình đó, năm 1995 chính phủ Ba Lan đã lên kế hoạch củng
cố các ngân hàng trước khi tiến hành CPH rộng hơn nữa. Đây là kế hoạch vừa
để đảm bảo tận thu cho ngân sách nhà nước, vừa hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ
phần chi phối của nước ngoài.
Tháng 12/1995, ngân hàng thứ tư được tiến hành CPH là ngân hàng
Gdanski (BG). Kế hoạch được thông báo là 33% cổ phiếu được bán cho các
nhà đầu tư nước ngoài theo danh mục đầu tư (không bán cho 1 hoặc 2 đối tác
chiến lược như các ngân hàng CPH trước), 33% được bán cho các nhà đầu tư
trong nước, 4% được bán cho cán bộ công nhân viên ngân hàng, còn lại 30%
nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ. Như vậy, kế hoạch này đã thể hiện ý chí của
chính phủ lúc đó là không muốn một hoặc một nhóm nhỏ những đối tác nước
ngoài sẽ nắm được cổ phần chi phối.
Cuối năm 1995, với cố gắng nhằm tránh sự chi phối hệ thống ngân hàng
của các nhà đầu tư từ nước ngoài và sự cạnh tranh của các ngân hàng nước
ngoài, Chính phủ đã công bố kế hoạch củng cố các ngân hàng còn lại bằng
việc sáp nhập tất cả các NHTMNN còn lại cùng với ngân hàng BPH thành hai
ngân hàng lớn.
Đầu tiên là Handlowy (BH) – một ngân hàng tư nhân hoạt động từ năm
1870 và được quốc hữu hoá sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Đây là ngân
17
hàng hoạt động lâu nhất tại Ba Lan và là một ngân hàng mạnh, không phải cải
tổ nhiều.
Nhóm thứ hai là ngân hàng Pekao S.A đã đứng ra sáp nhập 3 NHTMNN khác
vào để thành lập nên ngân hàng Peokao. Hiện nay, đây là ngân hàng lớn nhất
Ba Lan, chiếm 20% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng.
Một số bài học kinh nghiệm về CPH các NHTMNN của Ba Lan:
Thứ nhất, có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho việc CPH NHTMNN
cộng với sự bất ổn về chính trị, đặc biệt là mục tiêu ưu tiên của Chính phủ
thay đổi sẽ làm cho tiến trình CPH chậm lại, từ đó ảnh hưởng chung đến sự
phát triển của hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, vấn đề định giá cổ phiếu hay là việc đánh giá giá trị tài sản doanh
nghiệp là vấn đề quan trọng. Nếu làm sai có thể gây thất thoát lớn cho ngân
sách nhà nước.
Không lường trước được nhu cầu của thị trường về cổ phiếu của một ngân
hàng có thể gây bất ổn cho cả quá trình CPH DNNN nói chung.
Phát triển thị trường giao dịch chứng khoán song hành với việc CPH doanh
nghiệp.
Có kế hoạch thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài cụ thể, tránh
tình trạng chữa cháy khi thấy không kiểm soát được hệ thống ngân hàng.
1.2.2.4 Kinh nghi m c a Trung Qu c:– ệ ủ ố
Hệ thống ngân hàng vẫn được coi là một trong những điểm yếu nhất của
nền kinh tế Trung Quốc, khiến cho việc tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
gặp rủi ro. Trong nhiều năm qua, Chính phủ Trung Quốc đã dành sự ưu tiên
đặc biệt đối với cuộc cải cách hệ thống ngân hàng, trước hết là các ngân hàng
thương mại quốc doanh (NHTMQD) nhằm bảo đảm cho Trung Quốc có thể
duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc đã tiến hành hàng loạt các
biện pháp nhằm lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng, chuẩn bị cho kế hoạch cổ
phần hoá các NHTMQD trước khi Trung Quốc mở cửa toàn bộ khu vực tài
18
chính ngân hàng vào năm 2007 theo cam kết với Tổ chức Thương mại thế giới.
• Tiếp thêm vốn cho các ngân hàng, xử lý nợ khó đòi
Công việc trước tiên mà Trung Quốc chú trọng là cải thiện tình hình tài
chính của các NHTMQD trước khi tiến hành cổ phần hoá thông qua các biện
pháp xử lý nợ khó đòi và các đợt tiếp thêm vốn cho các ngân hàng. Trong
vòng 5 năm kể từ khi được Chính phủ thành lập chỉ có một công ty quản lý tài
sản (AMC) tổ chức thành công hai lần bán đấu giá quốc tế các khoản nợ khó
đòi và số nợ được xử lý chỉ bằng 35% tổng số nợ được chuyển giao với tỉ lệ
thu hồi vốn vào khoảng 17,3% so với giá trị ban đầu của khoản nợ. Vì vậy vẫn
còn tới hàng trăm tỉ USD nợ khó đòi đang được treo trên sổ sách của các
NHTMQD. Mới đây, Công ty quản lý tài sản nhà nước Cinda của Trung Quốc
đã mua vào 33,7 tỉ USD (278,7 tỉ CNY) nợ xấu từ Ngân hàng Trung Quốc và
Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc khi 2 ngân hàng này chuẩn bị niêm yết cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán.
Vào năm 1998, Bộ Tài chính đã tiếp thêm 270 tỉ CNY cho các
NHTMQD nhưng cũng không giải quyết được vấn đề. Đồng thời quỹ an toàn
vốn đặc biệt đã được thành lập để nâng tỷ lệ an toàn vốn cho 4 NHTMQD,
nhưng trong vòng 5 năm qua, các ngân hàng này cũng chưa đáp ứng được yêu
cầu này. Đợt tiếp thêm vốn và xoá nợ gần đây nhất trị giá 1.670 tỉ CNY (200 tỉ
USD) cũng chưa đủ để giúp 4 NHTMQD Trung Quốc thoát khỏi gánh nặng nợ
khó đòi.
Như vậy, chi phí để cứu trợ các ngân hàng Trung Quốc đã là khá lớn
nếu so sánh với tổng chi phí ước tính từ 145 tỉ USD đến 175 tỉ USD mà Mỹ
đã phải bỏ ra trong chương trình cứu trợ các ngân hàng tiết kiệm khỏi bị sụp
đổ vào thập kỷ 80.
Uỷ ban giám sát ngân hàng Trung Quốc (CBRC) đã từng đặt kế hoạch
mỗi năm giảm từ 3-4% tỉ lệ nợ khó đòi tại 4 ngân hàng này. Cho đến cuối năm
2003, Uỷ ban này đã thông báo tổng số nợ khó đòi tại 4 ngân hàng này lên tới
trên 2000 tỉ CNY (240 tỉ USD), thấp hơn năm 2002 là 81,1 tỉ CNY và giảm
19
được khoảng 4%. Nhưng trên thực tế, lượng nợ khó đòi cũ giảm đi bằng lượng
các khoản mới tăng thêm, nên tổng số nợ xấu tại các ngân hàng này không
giảm mà đã được che dấu thông qua sự gia tăng khối lượng các khoản cho vay
mới. Thậm chí những dự báo của các nhà phân tích độc lập thì cho rằng con số
nợ khó đòi tại 4 NHTMQD Trung Quốc có thể lên tới gần 420 tỉ USD. Những
thống kê chính thức cho thấy nợ xấu chiếm khoảng 23% (2000 tỉ CNY) tổng
dư nợ, nhưng theo Standard & Poor’s và Moody’s thì tỉ lệ này lên tới 40%
(3500 tỉ CNY). Ngân hàng tốt nhất trong số 4 ngân hàng này chỉ đạt tỉ lệ an
toàn vốn là 4-5%, được coi là đã phá sản về mặt kỹ thuật (technical bankrupt).
Để đạt được tỉ lệ an toàn vốn 8% thì 4 ngân hàng này phải cần đến khoảng 500
tỉ CNY. Đó là lý do tại sao Trung Quốc đang tìm mọi biện pháp để tiếp thêm
vốn và niêm yết 4 ngân hàng này trên thị trường chứng khoán, khi WTO yêu
cầu Trung Quốc mở cửa các thị trường tài chính vào cuối năm 2006.
Cuối tháng 12/2003 Trung Quốc đã quyết định sử dụng dự trữ ngoại tệ
quốc gia để tiếp thêm vốn cho các NHTMQD. Trung Quốc đã tiếp thêm 45 tỉ
USD – khoảng một phần 10 số dự trữ ngoại tệ quốc gia – cho 2 ngân hàng tốt
nhất trong số 4 NHTMQD lớn nhất của nước này là Ngân hàng Kiến thiết
Trung Quốc và Ngân hàng Trung Quốc. Tiếp đến sẽ là Ngân hàng Công
thương Trung Quốc nhận khoảng 40 tỉ USD, sau đó kế hoạch tiếp vốn sẽ được
mở rộng sang cho hàng trăm NHTM nhỏ khác của Trung Quốc. Tổng chi phí
của lần tiếp vốn này có thể lên tới 120 tỉ USD. Mục tiêu của kế hoạch tiếp vốn
lần này là giúp các NHTM củng cố lòng tin đối với các nhà đầu tư trước khi
niêm yết trên thị trường chứng khoán và trở nên năng động hơn trong việc bán
thẳng các khoản nợ tồn đọng cho các nhà đầu tư mà không phải thông qua các
AMC nữa.
Trong khi các khoản cứu trợ các ngân hàng đang được xây dựng thì việc
sử dụng dự trữ ngoại tệ đã gây ra nhiều ngạc nhiên. Tính đến nay, hầu hết các
khoản tiếp thêm vốn cho các ngân hàng là từ trái phiếu chính phủ hoặc các quỹ
trong nước của NHTW Trung Quốc. Theo Jonathan Anderson – một nhà chiến
20
lược của UBS tại Hồng Kông thì kế hoạch tiếp thêm vốn cho các ngân hàng
của Trung Quốc cho đến nay được thực hiện nhanh là do nó không đòi hỏi
phải có những phê chuẩn ưu tiên từ cơ quan lập pháp và không làm gia tăng
các khoản nợ của Chính phủ. Việc Chính phủ Trung Quốc sử dụng dự trữ
ngoại tệ để tiếp vốn cho các ngân hàng một mặt không đòi hỏi Chính phủ
Trung Quốc phải vay tiền trên thị trường trong nước để hỗ trợ cho các ngân
hàng, mặt khác sẽ làm giảm lượng dự trữ ngoại hối đang tăng quá nhanh, theo
NHTW Trung Quốc, tính đến cuối năm 2003 là 403 tỉ USD. Nhưng chắc chắn
kế hoạch tiếp vốn bằng USD như thế này sẽ gây áp lực lên đồng CNY do các
khoản nợ tồn đọng của các ngân hàng chủ yếu bằng đồng CNY. Chính vì vậy,
trước mắt các ngân hàng sẽ không được dùng số vốn này để xoá các khoản nợ
tồn đọng. Bởi vì nếu chuyển đổi ngay một lượng vốn lớn như vậy sẽ tạo ra sức
ép tăng giá rất mạnh lên đồng CNY.
Bằng việc ưu tiên 2 ngân hàng tốt nhất trong số 4 ngân hàng lớn nhất,
các cơ quan chức năng của Trung Quốc đang bắt đầu một sự kết thúc có quản
lý (manageable end) những vấn đề của hệ thống ngân hàng Trung Quốc. Ngân
hàng Trung Quốc và Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc dự kiến cũng sẽ được
niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trong nước và thị trường chứng
khoán Hồng Kông vào cuối năm 2004 hoặc đầu năm 2005. Nếu hai ngân hàng
còn lại là Ngân hàng Công thương Trung Quốc và Ngân hàng Nông nghiệp
cũng đáp ứng được những yêu cầu cần thiết thì họ cũng được phép làm như
vậy.
Thay vì xoá các khoản nợ khó đòi, Ngân hàng Trung Quốc và Ngân
hàng Kiến thiết Trung Quốc sẽ sử dụng số tiền đó để tăng tỉ lệ an toàn vốn và
vì thế hỗ trợ hoạt động cho vay mới được cho là có khả năng mang lại nhiều
lợi nhuận hơn. Chính phủ Trung Quốc có ý định cho các ngân hàng này thời
gian để thanh toán khỏi vấn đề nợ khó đòi.
• Cho phép các ngân hàng phát hành trái phiếu thứ cấp và chứng chỉ
tiền gửi chuyển nhượng.
21
Bên cạnh các biện pháp trên, để giúp các NHTMQD tăng cơ sở vốn,
NHTW Trung Quốc cho biết trong năm nay cũng sẽ cho phép các NHTMQD
phát hành trái phiếu thứ cấp và chứng chỉ tiền gửi chuyển nhượng sau khi ban
hành các quy định mới về tài chính cho phép các ngân hàng bán các khoản nợ
thứ cấp trên thị trường liên ngân hàng trong nước hoặc thông qua các cơ sở tư
nhân. Ngày 7/7/2004 vừa qua, Ngân hàng Trung Quốc đã phát hành 14,07 tỉ
CNY (1,7 tỉ USD) trái phiếu thứ cấp trên thị trường liên ngân hàng có thời hạn
10 năm và với coupon hàng năm là 4,87% nhằm tăng cơ sở vốn và cải thiện
tình hình tài chính. Đây chỉ là đợt phát hành đầu tiên trong kế hoạch phát trái
phiếu thứ cấp trị giá tới 60 tỉ CNY (7,2 tỉ USD) của ngân hàng này trước khi
cổ phần hoá. Đây là một trong các phương thức cho phép các NHTM bổ sung
thêm vốn thông qua việc thu hút hàng triệu USD khi phát hành trái phiếu. Cả 4
NHTMQD của Trung Quốc dự định phát hành tổng cộng 36 tỉ USD trái phiếu
thứ cấp nhằm cố đạt được tỉ lệ an toàn vốn gần với mức 8% theo tiêu chuẩn
quốc tế.
Theo các nhà phân tích nước ngoài, danh mục những việc mà các ngân
hàng Trung Quốc cần phải tiến hành để cải cách bao gồm:
Cắt bỏ tất cả các khoản cho vay dành cho các doanh nghiệp nhà nước dưới
hình thức các khoản trợ cấp xã hội vì các lý do chính trị.
Thắt chặt các điều kiện cho vay và tăng cường quản lý rủi ro.
Các nhà quản lý ngân hàng phải làm việc như các nhà ngân hàng chuyên
nghiệp chứ không phải là thành viên của các tổ chức chính trị, xã hội.
Cải tiến công tác kiểm toán và chống tham nhũng triệt để.
• Để được niêm yết trên thị trường chứng khoán các ngân hàng phải có
ít nhất 5 chủ sở hữu
Theo luật pháp Trung Quốc đã được sửa đổi, để được niêm yết trên thị
trường chứng khoán, các ngân hàng phải có ít nhất 5 chủ sở hữu. Một chủ sở
hữu sẽ là Nhà nước, có thể thông qua Central Huijin Investment – một công ty
được thành lập tháng 12/2003 cho mục đích này. Khi các NHTMQD chuyển
22
sang hình thức công ty cổ phần, 45 tỉ USD trên dây sẽ được chuyển dổi sang
thành cổ phần trên sổ sách của công ty trên. Như vậy về thực chất sau khi được
niêm yết trên thị trường chứng khoán quốc tế, Chính phủ Trung Quốc vẫn nắm
giữ đa số cổ phần của các NHTMQD. Công ty này cũng sẽ được uỷ thác quản
lý một phần dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc. Bộ Tài chính cũng đã chuẩn bị để
mua cổ phần tại các ngân hàng lớn, nhằm dọn đường cho các công cụ mới. Về
vấn đề lãi suất, có lẽ Bộ Tài chính sẽ đưa ra mức lãi suất khá hấp dẫn chắc
chắn sẽ bằng hoặc thấp hơn mức lợi tức trái phiếu chính phủ Mỹ do phần lớn
dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc được đầu tư dưới hình thức này.
• Cổ phần hoá bắt đầu từ các ngân hàng hoạt động tốt nhất
Kế hoạch cổ phần hoá các ngân hàng thương mại của Trung Quốc được
bắt đầu từ các ngân hàng tốt nhất, đó là hai ngân hàng Ngân hàng Trung Quốc
và Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc. Việc phát hành cổ phiếu lần đầu tiên
trên thị trường chứng khoán của các ngân hàng hiện đang là vấn đề nóng được
các nhà đầu tư quan tâm. CBRC cho biết họ sẽ giám sát chặt chẽ quá trình cổ
phần hoá Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc. CBRC
đang hối thúc 2 ngân hàng này dự thảo kế hoạch tái cơ cấu, xây dựng các biện
pháp ngăn chặn rủi ro, bảo đảm quyền lợi của cán bộ ngân hàng và người gửi
tiền.
Ngân hàng Kiến thiết Trung Quốc dự kiến sẽ niêm yết trên thị trường
chứng khoán nước ngoài vào cuối năm nay, Ngân hàng Trung Quốc vào năm
2005. Mới đây, Ngân hàng Trung Quốc vừa công bố sẽ hoàn tất kế hoạch cổ
phần hoá vào tháng 10 năm nay. Tỷ lệ nợ khó đòi tại Ngân hàng Trung Quốc
vào cuối tháng 3/2004 là 14,8% tổng dư nợ, giảm 1,4% so với cuối năm 2003
và dự kiến sẽ giảm tới mức 1 chữ số vào cuối năm nay. Ngân hàng này cũng
đang lựa chọn các nhà đầu tư trong số 6 nhà đầu tư chiến lược để bảo đảm sự
thành công của kế hoạch cổ phần hoá.
Ngân hàng Công thương Trung Quốc dự kiến cũng được cổ phần hoá
vào năm 2007. Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc, ngân hàng được đánh
23
giá là yếu kém nhất trong số 4 NHTMQD Trung Quốc dự kiến sẽ là
NHTMQD cuối cùng tiến hành cổ phần hoá. Cuộc cải cách tại Ngân hàng
Nông nghiệp Trung Quốc cũng đang được tăng tốc. Theo Chủ tịch Ngân hàng
Nông nghiệp Trung Quốc, ông Yang Mingsheng thì ngân hàng này cần thêm
thời gian để chuẩn bị cho việc phát hành cổ phiếu lần đầu, dự kiến vào năm
2007. Tính đến cuối tháng 5/2004, tỉ lệ nợ xấu của ngân hàng này ở mức 27%
tổng dư nợ, giảm so với mức trên 29% vào đầu năm 2004. Mới đây, như một
phần trong nỗ lực chuẩn bị cho việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng
khoán trong vòng 2 năm tới, lần đầu tiên Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc
đã thực hiện bán trực tiếp một phần trong số các khoản nợ xấu của ngân hàng
này cho các nhà đầu tư nước ngoài. Mục tiêu của ngân hàng này là giảm tỉ lệ
nợ xấu xuống còn 25% vào cuối năm nay. Ông Yang Mingsheng cho biết bước
tiếp theo ngân hàng này sẽ xem xét bán một phần số nợ khó đòi cho các ngân
hàng nước ngoài lớn, chẳng hạn như Citigroup.
24
CH NG 2ƯƠ
TI N TRÌNH C PH N HO NG N H NG TH NG M I NHẾ Ổ Ầ Á Â À ƯƠ Ạ À
N C VI T NAMƯỚ Ở Ệ
2.1 Khái quát chung v ho t đ ng c a NHTMNN Vi t Nam:– ề ạ ộ ủ ệ
Đến nay trong hệ thống các NHTMNN ở nước ta có 5 ngân hàng thuộc
sở hữu của nhà nước, đó là: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
(Agribank), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB), Ngân hàng Công
thương Việt Nam (ICB), Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV),
Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB). Các ngân hàng
trên đều được tách ra từ Ngân hàng Nhà nước trước đây (trừ Ngân hàng Phát
triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long), và có những đặc điểm khác nhau trên
nhiều mặt: VCB và BIDV đã có trên 40 năm lịch sử hình thành và phát triển,
trong khi đó Agribank và ICB trên 15 năm, và mới nhất là MHB gần 6 năm.
Tuy là các NHTM, nhưng các ngân hàng nói trên cũng có những đặc thù trong
hoạt động và tổ chức, trong đó rõ nhất là VCB có tỉ lệ kinh doanh bằng ngoại
tệ thường chiếm trên 50%, và mạng lưới không trải rộng (chỉ có trên 20 chi
nhánh); Agribank chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn,
có chi nhánh phụ thuộc ở hầu hết các tỉnh, thành phố, quận huyện và nhiều
phòng giao dịch ở các cụm dân cư; MHB còn có chức năng cho vay phục vụ
phát triển khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (xây dựng khu dân cư vùng lũ
lụt, làm nhà trên cọc…); BIDV trong những năm trước đây lại chủ yếu cho vay
đầu tư phát triển, theo kế hoạch nhà nước, phần lớn là cho vay trung dài hạn
với món cho vay lớn (sau này bàn giao sang Quỹ Hỗ trợ phát triển)…
2.1.1 Th c tr ng ho t ng c a các NHTMNN tr c n m 2001:– ự ạ ạ độ ủ ướ ă
Do hậu quả của nền kinh tế tập trung bao cấp,hoạt động của các
NHTMNN gặp rất nhiều khó khăn và bộc lộ những yếu kém như: Quy mô hoạt
25