Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước tại Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.55 KB, 92 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
au gần 20 năm thực hiện các chính sách đổi mới đất nước, có thể
thấy, bộ mặt nước ta đang thay đổi từng ngày, từng giờ. Điều này
chứng tỏ sự đúng đắn trong các đường lối, chính sách của nhà nước
ta. Trong đó, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách kinh tế.
Vấn đề cổ phần hoá cũng như đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá của các
doanh nghiệp Nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình hội nhập và thực hiện mục tiêu cải cách kinh tế.
S
Vấn đề cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước đặt ra trong giai
đoạn này là phù hợp với tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng để hội nhập
kinh tế quốc tế. Việc xác định mục tiêu cổ phần hoá, điều kiện cần và đủ để
giải quyết những vấn đề trong quá trình cổ phần hoá và đảm bảo một ngân
hàng sau khi cổ phần hoá đáp ứng được các chuẩn mực Hội nhập kinh tế
quốc tế, đủ năng lực cạnh tranh được với các ngân hàng trong nước và trên
thế giới là một vấn đề hết sức quan trọng.
Trong tiến trình cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại nhà nước,
một yếu tố có vai trò rất quan trọng chính là mảng pháp luật. Chính vì lí do
đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài " Pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng
thương mại Nhà nước tại Việt Nam hiện nay".
Kết cấu đề tài bao gồm:
Chương 1: Khái quát về Ngân hàng thương mại Nhà nước và cổ phần
hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Chương 2: Pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà
nước.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 3: Thực trạng pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương
mại Nhà nước và một số kiến nghị.


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
***
I. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại nhà nước
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại nhà nước
Theo điều 1 Điều lệ mẫu về tổ chức hoạt động của ngân hàng thương mại
nhà nước (ban hành theo quyết định số 122/2001/ QĐ-NHNN ngày 20 tháng 2 năm
2001 của Thống đố ngân hàng nhà nước): Ngân hàng thương mại nhà nước được
thành lập theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, được thực hiện
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi
nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
2. Đặc trưng :
Ngân hàng thương mại Nhà nước là một doanh nghiệp nhà nước, nhưng kinh
doanh trong lĩnh vực tiền tệ, chịu sự điều chỉnh của Luật các Tổ chức tín dụng, Luật
doanh nghiệp nhà nước và các luật có liên quan. Ngân hàng thương mại nhà nước là
một tổ chức tín dụng nên có các đặc trưng sau:
- Đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
- Hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính
nghề nghiệp là hoạt động ngân hang. cụ thể là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để
cấp tín dụng, cung cấp các hoạt động thanh toán. Đây là ngành nghề kinh doanh
tiềm ẩn, nguy cơ rủi ro cao do tính kéo dài của các hoạt động kinh doanh. Những
tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng
thưòng có tính dây chuyền ( VD: ngân hàng ACB). Đây là điểm khác biệt giữa các
DN là tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp nhà nước khác nên pháp luật điều
chỉnh các loại hình này cũng khác nhau.
- Là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lí nhà nước của Ngân hàng
Nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngoài những đặc trưng trên thì ngân hàng thương mại nhà nước còn có
những đặc trưng riêng sau:
- Là ngân hàng thương mại do nhà nước thành lập, thuộc sở hữu nhà
nước. theo điều 4 của điều lệ: Ngân hàng chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng
Nhà nước, của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân
dân các cấp theo chức năng và quy định của pháp luật.
- Nội dung và phạm vi hoạt động bao gồm:
+ Huy động vốn
+ Hoạt động tín dụng
+ Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
+ Các hoạt động khác.
Mục tiêu hoạt động là lợi nhuận, đồng thời các ngân hàng thương mại nhà
nước cũng đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng ( chiếm 80% tổng nguồn
vốn huy động trong nguồn vốn ngân hang, số liệu từ 2001- 2006 ) nên còn được nhà
nước giao cho nhiệm vụ góp phần thực hiện các chính sách kinh tế của nhà nước.
Sự lồng ghép mục tiêu lợi nhuận và thực hiện các chính sách kinh tế của nhà nước
đối với hoạt động của ngân hàng thương mại xuất phát từ quyền sở hữu của nhà
nước, dẫn tới sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của ngân
hang, làm giảm tính độc lập tự quyết ,nhiều trưòng hợp không đảm bảo được mục
tiêu lợi nhuận của ngân hàng thương mại nhà nước.
Việc tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại nhà nước vừa chịu sự
điều chỉnh của pháp luật ngân hàng vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật về doanh
nghiệp nhà nước.
II. Thực trạng các ngân hàng thương mại nhà nước
trước khi cổ phần hóa và tính tất yếu phải cổ phần hóa :
1. Thực trạng của các ngân hàng thương mại nhà nước :
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

a. Hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có qui mô nhỏ,
năng lực tài chính yếu; mức độ rủi ro cao, chất lượng tín dụng thấp; khả năng sinh
lời thấp; năng suất lao động thấp:
Lợi nhuận ròng của các ngân hàng thương mại nhà nước năm 1998 là 538,3
tỷ đồng, lợi nhuận năm 1999 là 645 tỷ đồng, lợi nhuận năm 2000 là 885,5 tỷ đồng.
Tuy nhiên, nếu tính đến những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì thực tế hoạt động
kinh doanh của một số ngân hàng thương mại nhà nước là đang ở tình trạng thua lỗ.
Vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước rất nhỏ bé cả về số tuyệt
đối (5600 tỷ đồng) và tỷ trọng trên tổng tài sản có, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có:
1998 là 3,07%, 1999 là 3,12%, năm 2000 là 2,8%. Như vậy mức vốn tự có của các
ngân hàng thương mại nhà nước là hết sức nhỏ bé so với chuẩn mực quốc tế tối
thiểu là 8%.
Nợ quá hạn trên cân đối của các ngân hàng thương mại nhà nước năm 2000
chiếm 10,78% tổng dư nợ, trong đó ngân hàng ngoại thương là 19,47%, ngân hàng
công thương là 24,31%, ngân hàng đầu tư là 2,53%, ngân hàng nông nghiệp là
4,15%. Tính đầy đủ các khoản nợ chờ xử lý, nợ phải trả thay, nợ thanh toán công nợ
giai đoạn II đã lên lưới thì tổng số nợ xấu (nợ tồn đọng không sinh lời) lên đến
22.299 tỷ đồng, mức độ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại nhà
nước là đáng báo động. Mặt khác, việc xếp loại nợ quá hạn khó đòi của ta hiện nay
chủ yếu là dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn mà chưa tính đến các tiêu chí khác
như nợ đang còn trong diện nợ trong hạn hoặc quá hạn thông thường nhưng thực tế
doanh nghiệp đã bị thua lỗ nặng, khả năng trả nợ rất thấp; như vậy nếu phân loại nợ
xấu theo tiêu chuẩn quốc tế thì thực trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương
mại nhà nước sẽ còn cao hơn số liệu nêu trên (chiếm 25% tổng dư nợ hiện hành).
Hiện nay, mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước
đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một
ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân
hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị
trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại
Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và
thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%),
lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Theo PGS.TS Lê Hoàng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ
những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương
mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm.
Tiềm lực tài chính ( Bảng 1 ):
Bảng 1. Một số chỉ tiêu thể hiện tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương
mại nhà nước
Chỉ tiêu
1
999
2
000
2
001
2
002
2
003
Tổng tài sản ( tỷ
VND)
1
79.629
2
39.584
2

99.352
3
78.961
4
70.315
Tốc độ tăng
trưởng(%)
2
5,55
3
3,38
2
4,95
2
6,59
2
4,11
Vốn tự có (VĐL và
quỹ BSVĐL)
7.
473
6.
673
7.
117
1
2.010
1
7.018
Tỷ lệ tăng vốn tự có 1

6%
-
11%
7
%
6
9%
4
2%
Hệ số CAR 5,
2%
3,
5%
3
%
4
%
4,
5%
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tổng số vốn tự có bị
thiếu (tỷ VND)
4.
023
8.
660
1
2.042
1

1.244
1
3.082
Nguồn: Báo cáo ngân hàng nhà nước
Một trong những vấn để nan giải nhất của các ngân hàng thương mại nhà
nước hiện nay là vấn đề thiếu vốn. Bảng 1 cho thấy vốn tự có của các ngân hàng
thương mại nhà nước tăng một cách nhanh chóng và liên tục qua 2 năm 2002, 2003,
chủ yếu là do việc Chính phủ thực hiện cấp bổ sung vốn điều lệ. Mặc dù số vốn
được cấp là tương đối lớn, nhưng nếu tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định
tại Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 thì các ngân hàng thương
mại nhà nước chỉ đạt được đạt tỷ lệ an toàn vốn bình quân là 5% (so với mức 2,8%
vào năm 2000), thấp xa so với tiêu chuẩn quốc tế (8%).
Bảng 2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
thương mại nhà nước
Chỉ tiêu
1
999
2
000
2
001
2
002
2
003
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
1
4,74
1
1,19

8
,74
7
,58
5
,01
Lợi nhuận ròng/ Vốn tự
có(ROE)
8
,63
1
2,81
1
5,58
9
,43
6
,54
Lợi nhuận ròng/Tổng tài
sản có (ROA)
0
,36
0
,36
0
,38
0
,3
0
,38

Nguồn: Báo cáo ngân hàng nhà nước
Hiệu quả hoạt động ( Bảng 2 ):
Theo thông lệ quốc tế, các chỉ số của một ngân hàng được coi là hoạt động
tốt là: ROA≥ 1 %; ROE≥ 15 %.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
So sánh các chỉ số này với ngân hàng thương mại nhà nước, ta thấy:
Hiệu quả hoạt động thấp ( mức ROA bình quân 0,38%, bằng 1/3 so với mức
trung bình ). ROE liên tục giảm qua các năm 2001- 2003, do nợ xấu lớn và do việc
mở rộng hoạt động, chi phí quản lý tăng, trong khi chênh lệch lãi suất bình quân
giữa huy động và cho vay có xu hướng giảm.
Chỉ tiêu nợ quá hạn mặc dù liên tục giảm qua các năm và hiện ở mức thấp,
nhưng đây là nợ theo tiêu chuẩn VAS- tiêu chuẩn kế toán Việt Nam chứ chưa theo
IAS- tiêu chuẩn kế toán quốc tế.
b. Hệ thống dịch vụ còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các
ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn
huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80%
tổng thu nhập. Hoạt động ngân hàng dựa chủ yếu vào "độc canh" tín dụng, còn quá
ít các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, mức độ áp dụng công nghệ vào lĩnh vực hoạt
động ngân hàng còn thấp xa so với khu vực.
Trong tham luận gửi về hội thảo, TS. Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính
tiền tệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, có viết: “Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch
vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công
cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác
dụng ở mức giới hạn nhất định”.
Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là dịch vụ thì ngân hàng
trong nước vẫn chủ yếu là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng vẫn
còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị
tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ.

Sự đơn điệu trong hoạt động dịch vụ khiến hệ thống ngân hàng quốc doanh
không tận dụng được lợi thế về mạng lưới, về khách hàng, về kênh phân phối và
công nghệ. Cũng chính vì sự đơn điệu nên giá thành dịch vụ của các ngân hàng
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quốc doanh khá cao so với các nước khu vực. Nếu như ở các nước phát triển, ngân
hàng thương mại thường là những tổ hợp Ngân hàng - tài chính kinh doanh đa
ngành nghề (tín dụng, thanh toán, bảo hiểm, chứng khoán...) thì các ngân hàng
thương mại Việt Nam vẫn xoay quanh các sản phẩm truyền thống như: Tín dụng,
bảo lãnh thanh toán. Một số dịch vụ mới ra đời nhưng vẫn ở mức nhỏ bé, chiếm tỷ
trọng thấp trong tổng doanh thu.
Một chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cảnh báo: Nếu dịch vụ ngân hàng
không được cải tiến mạnh mẽ, hệ thống phân phối của ngân hàng trong nước sẽ mất
dần, nhất là khi sự phân biệt giữa tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài căn
bản được xóa vào năm 2010. Mặt khác với điều kiện hạ tầng kỹ thuật như hiện nay,
sẽ rất khó có các ngân hàng nội địa cạnh tranh được với ngân hàng nước ngoài về
mặt công nghệ. Một cuộc thăm dò ý kiến khách hàng gần đây cho biết: 45% số
khách hàng được hỏi, kể cả cá nhân và doanh nghiệp trả lời sẽ chuyển sang vay vốn
ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của ngân hàng Việt Nam. Nguyên nhân
ngoài lý do chênh lệch lãi suất thì cơ bản là do chất lượng dịch vụ và thủ tục hành
chính quá rườm rà phức tạp.
c. Cơ cấu hệ thống tài chính mất cân đối, tình hình nợ xấu:
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó
đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do:
- Việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường
bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức
tạp.
- Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước
tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng.

Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo
thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình
trạng mất vốn ngày càng lớn.
Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài
chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài
hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy
động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn
huy động ngắn hạn. Như một chuyên gia kinh tế đã nói, việc sử dụng vốn cho vay
trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là
yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
d. Sự bất cập của cơ chế là nguyên nhân chính để các ngân hàng quốc
doanh khó lớn mạnh.
Trong môi trường cạnh tranh, đòi hỏi phải có những phản ứng nhanh nhưng
cơ chế của doanh nghiệp nhà nước còn quá nhiều thứ bất cập. Cơ chế tuyển dụng
cán bộ, quản lý tài chính, đầu tư thiết bị... vẫn tồn tại từ hàng chục năm nay với quá
nhiều thủ tục và cửa ải, không thể cạnh tranh được với ngoài quốc doanh.
Ví dụ như : Quy trình bổ nhiệm, đề bạt, miễn nhiệm cán bộ hiện còn phải
qua quá nhiều vòng vẫn chưa có gì thay đổi. Theo đó, muốn bầu 1 Tổng giám đốc,
ứng viên đó phải thuộc diện quy hoạch, sau đó lấy ý kiến của các chi nhánh, đơn vị
trực thuộc, thông qua cấp ủy, hội đồng quản trị, ngân hàng nhà nước, Ban Nội
chính, Ban Tổ chức Chính phủ... với gần 10 vòng. Nhưng đâu là người chịu trách
nhiệm cuối cùng về chất lượng cán bộ thì không quy định rõ. Trong khi đó, với một
ngân hàng cổ phần, chỉ cần đăng thông báo tuyển dụng, sàng lọc hồ sơ và hội đồng
quản trị phỏng vấn trực tiếp là có thể tìm kiếm được 1 giám đốc.
Mức lương, chính sách đãi ngộ cán bộ cũng là một vấn đề. Ông Vũ Viết
Ngoạn, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết, trong những năm qua, Viecombank
liên tục có lãi, năm 2005, lãi ròng hơn 1.000 tỷ, tài chính lành mạnh nhưng việc đãi

ngộ nhân viên lại phải do nhà nước quy định. Nếu như ở ngân hàng cổ phần, lương
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tổng giám đốc không dưới 5 ngàn USD thì ở ngân hàng quốc doanh, chỉ được xấp
xỉ 10 triệu đồng. Cũng chính vì sự thiếu năng động trong chính sách đãi ngộ, nên
ngân hàng quốc doanh luôn đối mặt với nguy cơ chảy máu chất xám. Một số ít tâm
huyết với nghề, nín thở chờ đợi thời điểm biến thành ngân hàng cổ phần. Một số
khác, không đủ kiên nhẫn đã chia tay. Mỗi năm Vietcombank đã mất vài ba chục
cán bộ giỏi, riêng năm ngoái mất hơn 50 người cũng chỉ vì lý do thu nhập.
TS Nguyễn Văn Nam, cựu thành viên Ban nghiên cứu Thủ tướng cho rằng,
thói quen làm việc dưới các chính sách ưu đãi của Nhà nước, vì sự bất tài, hay thói
quen dựa vào sự lỏng lẻo của cơ chế quản lý nhà nước để dễ kiếm chác, trục lợi lại
thích được tiếp tục duy trì là doanh nghiệp quốc doanh, vừa ổn định, không mất ghế
mà vẫn kiếm được. Còn khi chuyển sang cơ chế cổ phần, năng lực công tác là một
sự cạnh tranh thực sự, và cơ chế tài chính cũng được giám sát chặt chẽ hơn bởi các
cổ đông. Đó cũng chính là lý do để hệ thống ngân hàng quốc doanh chậm chuyển
đổi.
e. Năng lực quản lý điều hành còn hạn chế
Mặc dù trong thời gian qua, công tác nâng cao năng lực quản trị điều hành
của ngân hàng thương mại nhà nước đã được tăng cường, nhưng hiện vẫn còn nhiều
tồn tại, đặc biệt là trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, dẫn đến tỉ lệ nợ quá hạn có
chiều hướng gia tăng, chất lượng tín dụng chưa đồng đều. Các phần việc khác như:
Xây dựng định chế quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, kiểm toán nội bộ
hiện mới bắt đầu triển khai với sự trợ giúp của các công ty tư vấn trong nước và
quốc tế. Hệ thống cơ chế khuyến khích bao gồm cơ chế lương, thưởng và xử phạt
hiện chưa thích hợp và chưa tạo được động lực. Bên cạnh đó, tính minh bạch thấp là
một tồn tại khiến cho công chúng và các nhà đầu tư trong và ngoài nước thiếu lòng
tin vào ngân hàng thương mại nhà nước.
Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu, do đó, cạnh tranh của một doanh
nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp hay phạm vi quốc

gia mà nó đã mở rộng phạm vi toàn thế giới. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
IX của Đảng đã nêu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc
tế, nhấn mạnh phương châm chủ động hội nhập với các nguyên tắc phát huy nội
lực, nâng cao hiệu quả hợp tác, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ
nghĩa. Riêng đối với Ngành Ngân hàng, việc Việt Nam gia nhập Khu vực mậu dịch
tự do ASEAN (AFTA) và việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ sẽ mang
lại nhiều cơ hội cho các ngân hàng trong nước. Song, những thách thức từ những
quá trình này sẽ là rất lớn bởi các ngân hàng thương mại trong nước hiện tại đang
thể hiện khả năng cạnh tranh kém hơn so với các ngân hàng nước ngoài trên tất cả
các phương diện về năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, kinh nghiệm
kinh doanh.
Vì vậy, các ngân hàng thương mại trong nước nói chung và các ngân hàng
thương mại nhà nước nói riêng không còn cách nào khác là phải tăng cường năng
lực tài chính cũng như khả năng cạnh tranh để đối mặt với những thách thức từ hội
nhập.
Vì vậy, cổ phần hóa là giải pháp để các ngân hàng thương mại nhà nước
khắc phục tất cả những yếu kém trên, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong
tiến trình hội nhập.
2. Sự cần thiết phải cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước:
Hoạt động ngân hàng, trong đó ngân hàng thương mại nhà nước với vai trò
chủ đạo đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất
nước, đã triển khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực, cơ bản ổn định
được giá trị và sức mua của đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho
quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng
kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế, chưa phát huy hết chức năng huy
động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò
chủ đạo.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việc cổ phần hóa ngân hàng là một khâu trong quá trình đổi mới hoạt động
ngân hàng, củng cố và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại theo hướng tiếp tục
phát huy thành tựu, khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao năng lực tài chính, trình
độ công nghệ, năng lực tổ chức kinh doanh đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
công cuộc đổi mới trong những năm tới.
Ngân hàng thương mại nhà nước đang đứng trước thực trạng nợ tồn đọng
lớn, vốn tự có quá thấp so với nhu cầu thực tiễn và so với các ngân hàng trên thế
giới, tình trạng này đang làm hạn chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ
thống ngân hàng.
Do yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cần phải có một khối
lượng vốn, vì vậy cần phải có ngân hàng thương mại đủ tiềm lực tài chính để thực
hiện phân phối và sử dụng vốn một cách hiệu quả. Chính vì vậy, đặt ra vấn đề cổ
phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước là rất cần thiết.
Quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và chuẩn bị hội nhập vào
thị trường tài chính quốc tế với việc tự do hóa tài chính đã làm cho môi trường cạnh
tranh gay gắt hơn, đầy rủi ro hơn. Bối cảnh này đã đặt ra cho ngành ngân hàng cần
thiết phải cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước.
Với những yêu cầu hết sức cần thiết và bức xúc như đã nêu trên, đòi hỏi
trong hoạt động của ngân hàng Việt Nam phải có một ngân hàng với quy mô lớn,
năng lực tài chính mạnh trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước cũng như
các ngân hàng thương mại cổ phần không thể đáp ứng được thì vấn đề cổ phần hóa
ngân hàng thương mại nhà nước là một yêu cầu cần thiết khách quan.
III. Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước
1. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Là quá trình chuyển đổi từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu ( công ty cổ phần ). Cổ phần hóa nói chung có thể diễn ra tại các
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và các
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368

doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là quá trình đa dạng hóa sở hữu tại doanh
nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ
đông, tức là nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh
nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không chỉ là quá trình chuyển sở hữu
nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn cả hình thức doanh nghiệp nhà nước
thu hút vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước liên quan chặt chẽ tới việc tôn trọng và
phát huy sở hữu cá nhân không chỉ trong chế độ tư bản chủ nghĩa mà cả trong chế
độ xã hội chủ nghĩa. Người lao động trong công ty cổ phần sẽ vừa là người làm thuê
vừa là cổ đông nên có quan hệ lợi ích chặt chẽ với doanh nghiệp, còn trong doanh
nghiệp nhà nước chủ sở hữu là nhà nước, chung chung, mơ hồ, không gắn quyền sở
hữu với quyền sử dụng.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một cuộc cách mạng triệt để thay đổi
cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ bản mối quan hệ
doanh nghiệp với nhà nước và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng với hoạt
động cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất xã hội hóa và nền kinh
tế thị trường phát triển. Việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ
phần là do tính xã hội hóa của sản xuất, do quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường quyết định và thúc đẩy, đó là quá trình khách quan, không phải do ý muốn
chủ quan của bất kì thể chế chính trị hay cá nhân nào.
2. Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước :
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói chung, ngân hàng thương mại nhà
nước nói riêng là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập. Nó không chỉ là quá trình đa sở hữu và hữu danh hoá quyền sở hữu, mà còn là
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương thức căn bản để tích tụ, tập trung tư bản và tạo ra thị trường tài chính hoàn

hảo. Thị trường tài chính phát triển vừa là qui luật của kinh tế thị trường vì nhờ nó
mà lưu thông hàng hoá, lưu thông vốn được mở rộng nhanh chóng, song tính dễ bị
tổn thương, tính nhạy cảm và nhất là tính lan toả và ảnh hưởng lẫn nhau của thị
trường tài chính cũng là thách thức lớn đối với mọi quốc gia có nền kinh tế thị
trường. Vấn đề là không thể lẩn tránh thách thức, do đó phải chủ động nhận dạng,
phân tích và ứng phó thích hợp trên cơ sở tôn trọng và khai thác tối đa những mặt
tích cực của các qui luật thị trường cũng như qui luật toàn cầu hoá ngày nay. Cổ
phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam chưa có tiền lệ, là việc rất
phức tạp và diễn ra trong môi trường thị trường tài chính còn sơ khai, nhưng không
thể dẫm chân tại chỗ, càng không thể chỉ đưa việc đại sự này vào "phòng thí
nghiệm" để phát tín hiệu dần dần... vì chúng ta có kinh nghiệm từ nước ngoài, có
chủ trương của Đảng và Nhà nước và trên hết là trong nền kinh tế thị trường không
thể tiếp tục duy trì quá lâu qui mô và phương thức hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại nhà nước như hiện nay ở môi trường kinh tế mới.
Cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước sẽ khắc phục được
những vấn đề gì?
Ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) khi chuyển sang ngân hàng
thương mại cổ phần sẽ loại bỏ được sự thiếu minh bạch trong các mục tiêu và chiến
lược mà ngân hàng theo đuổi, buộc lãnh đạo ngân hàng phải làm việc vì lợi ích của
cổ đông và vì vậy buộc họ phải nỗ lực hết sức mình nếu không muốn bị các cổ đông
phế truất địa vị lãnh đạo.
Bên cạnh đó, cổ phần hóa giúp các ngân hàng huy động nguồn vốn từ công
chúng để phát triển và đảm bảo an toàn kinh doanh, hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và tự
do hóa tài chính. Ngoài ra, cổ phần hóa còn giảm bớt áp lực đè nặng lên ngân sách
nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những lợi ích có được từ cổ phần hóa:
Dưới góc độ quản lí vĩ mô:

Cổ phần hoá thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và thị trường các dịch
vụ tài chính. Theo con số thống kê mới nhất, tổng giá trị chứng khoán hoá trên thị
trường chứng khoán Việt Nam chiếm khoảng 0,5% GDP (trên dưới 2.000 tỷ đồng)
với sự tham dự của 28 công ty niêm yết trên thị trường và khoảng 19.000 cổ đông.
Việc cổ phần hóa một hoặc một số ngân hàng thương mại nhà nước chắc chắn sẽ
thổi một luồng sinh khí mới vào hoạt động của thị truờng chứng khoán. Sự sôi động
của thị trường càng gia tăng khi có các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính cũng được niêm yết và giao dịch cổ phiếu. Niêm yết cổ phiếu của
các ngân hàng thương mại cổ phần và cổ phần hóa một bộ phận ngân hàng thương
mại nhà nước sẽ được coi là cuộc cách mạng lần thứ hai trong quá trình tiếp tục đổi
mới hoạt động ngân hàng ở Việt Nam, được thực hiện sau một thời gian chấn chỉnh
và củng cố sắp xếp lại mỗi khối ngân hàng này. Nền kinh tế phát triển nhanh theo
cơ chế thị trường thì yêu cầu xây dựng hệ thống trung gian tài chính vững mạnh là
tất yếu khách quan.
Dưới góc độ quản lý vi mô của ngân hàng:
- Cổ phần hóa sẽ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động:
Hiệu quả ở đây thể hiện qua các góc độ:
Thứ nhất, đó là nâng cao hệ số an toàn vốn: Cổ phần hóa các ngân hàng
thương mại nhà nước phải nằm trong kế hoạch tổng thể cơ cấu lại và phát triển hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những trọng tâm của nó là việc nâng vốn của
các ngân hàng thương mại nhà nước lên càng sớm càng tốt, để khi tiến hành cổ
phần hóa xong thì tỷ lệ an toàn vốn phải đạt chuẩn quốc tế; Phấn đấu trong thời gian
tới, các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có thể đạt mức trung bình tiên
tiến của khu vực. Cổ phần hóa thực chất là một giải pháp để có thể đạt được mục
tiêu này.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, tăng cường năng lực quản trị điều hành và hiện đại hoá ngân hàng
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sử dụng vốn.
Thứ ba, tăng cường năng lực kiểm soát nội bộ, hoạt động kinh doanh an

toàn, lành mạnh theo chuẩn mực quốc tế, làm giảm những khoản nợ xấu và tăng khả
năng cạnh tranh của ngân hàng trong bối cảnh phát triển và hội nhập kinh tế quốc
tế, buộc ngân hàng phải ứng xử theo quy luật thị trường và cơ cấu lại nhằm tối đa
hoá lợi nhuận.
- Cổ phần hóa sẽ thay đổi phương thức quản lý và nhận thức của người
lao động :
Ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa sẽ loại bỏ sự thiếu minh
bạch, buộc lãnh đạo ngân hàng phải làm việc vì lợi ích của cổ đông, và vì vậy buộc
họ phải nỗ lực hết mình nếu không muốn bị cổ đông phế truất địa vị lãnh đạo. Khi
cổ phần hóa, giám đốc phải chịu sự giám sát chặt chẽ trong điều hành hoạt động
ngân hàng. Điều này buộc người lãnh đạo phải trở nên năng động, cầu tiến, có trách
nhiệm thực sự đối với công việc.
Đối với người lao động, khi quyền lợi riêng đã được gắn kết với quyền lợi
chung, người lao động sẽ luôn quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Cổ phần hóa sẽ thu hút được các nhà đầu tư chiến lược:
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, việc cổ phần hoá các ngân
hàng thương mại nhà nước ngoài mục đích tăng cường tiềm lực về vốn, tạo sự chủ
động trong hoạt động, còn có một mục tiêu quan trọng là thu hút các nhà đầu tư
chiến lược mà ở đây chủ yếu là các tập đoàn nước ngoài. Hiện nay, Dragon Capital
của Anh đã đầu tư vào 3 ngân hàng thương mại cổ phần: ACB, VP Bank và
Sacombank; Deutsche Bank của Đức sẽ mua cổ phần của Eximbank dự kiến khoảng
từ 20- 30% vốn điều lệ. Việc thu hút các nhà đầu tư chiến lược có ý nghĩa quan
trọng như:
- Khai thác kinh nghiệm quản lý, điều hành ngân hàng hiện đại.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Khai thác các công nghệ ngân hàng tiên tiến.
- Tận dụng mạng lưới chi nhánh, đại lý của các nhà đầu tư này để mở
rộng hoạt động.
Những vấn đề đặt ra trong quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà

nước:
Thực hiện cổ phần hóa đối với ngân hàng thương mại là vấn đề mới của
ngành ngân hàng, do đó sẽ có những khó khăn nhất định. Việc thực hiện cổ phần
hóa ngân hàng thương mại nhà nước cần rút kinh nghiệm từ cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước, không thực hiện chủ quan, nhưng cũng không được chậm trễ, do
đó khi thực hiện phải đảm bảo :
Về quy mô vốn tự có:
Hiện nay về quy mô vốn hoạt động của một ngân hàng trung bình trên thế
giới khoảng từ một tỷ USD trở lên. Do đó, trong quá trình hội nhập và để đủ năng
lực trong cạnh tranh, các ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa đạt quy
mô vốn ít nhất phải tương ứng với một ngân hàng trung bình trên thế giới, tức là
mức vốn tự có của ngân hàng này phải đạt từ 16.000 tỷ đồng trở lên trong đó, vốn
sở hữu của nhà nước đạt tối thiểu 8.160 tỷ đồng, phần còn lại gọi vốn từ cổ đông
trong và ngoài nước.
Quy mô vốn của ngân hàng cổ phần hóa phải luôn luôn bảo đảm được yêu
cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trên tổng tài sản có, đây là một chuẩn mực quốc
tế không thể thiếu được.
Về mức vốn giữ vai trò chi phối của nhà nước trong ngân hàng được cổ
phần hóa.
Ngân hàng thương mại nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa tuy hình thức
chủ sở hữu có sự thay đổi nhưng vai trò chủ đạo trong việc triển khai thực hiện
chính sách tiền tệ vẫn không thay đổi mà vẫn tiếp tục phát huy dưới hình thức mới
được điều hành bởi một Hội đồng quản trị theo cơ chế quản lý phù hợp. Vì vậy,
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhất thiết ngân hàng thương mại nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa vốn nhà nước
tham gia phải nắm vai trò điều phối với tỷ lệ tối thiểu 51%.
Việc này có thể thực hiện thông qua hình thức :
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại ngân hàng thương mại nhà nước
(xem đó là 51%), phần 41% còn lại sẽ phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn từ các

cổ đông trong và ngoài nước.
- Mức vốn điều lệ tăng đến đâu thì vốn của nhà nước luôn giữ tỷ trọng
51%.
Về góp vốn của cổ đông nước ngoài:
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia góp vốn để thu hút
các nguồn lực ngoài nước, tỷ lệ tham gia của các cổ đông nước ngoài dần dần được
mở rộng nhưng tỷ lệ tối đa không quá 30% vốn điều lệ. Trong đó, nên tập trung ưu
đãi cho các cổ đông nước ngoài là các ngân hàng nước ngoài với tỷ lệ góp vốn tối
đa không quá 20% vốn tự có. Bởi vì chính các ngân hàng này sẽ là cơ sở, điều kiện
giúp cho ngân hàng được cổ phần hóa mở rộng phát triển mạng lưới hoạt động (chi
nhánh, văn phòng đại diện) đến các nước sở tại này.
Về vai trò chủ đạo trong thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng được cổ
phần hóa :
Ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa phải trở thành một
ngân hàng cùng với hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước là lực lượng nòng cốt
trong lĩnh vực ngân hàng, là ngân hàng triển khai thực hiện tốt chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là một ngân hàng có khả năng huy động tốt
mọi tiềm lực kinh tế xã hội trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng một cách
an toàn hiệu quả, an toàn góp phần thực hiện thành công công nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nước.
Việc cổ phần hóa ngân hàng đảm bảo ổn định được hoạt động tiền tệ-tín
dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về tình hình tài chính:
Mặc dù hiện nay, Chính phủ đã có những chủ trương xử lý nợ tồn đọng và
các ngân hàng thương mại nhà nước đã tích cực xử lý nhưng nhìn chung tỷ lệ nợ
tồn đọng vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao. Kinh nghiệm từ thực tiễn cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước về việc xử lý nợ tồn đọng luôn luôn là vấn đề hết sức khó
khăn, phụ thuộc vào các cơ chế chính sách xử lý nợ, sự phối hợp của các cơ quan

chức năng trong việc xử lý nợ. Ngoài ra, việc xác định thực tế giá trị ngân hàng để
cổ phần hóa cũng không phải là vấn đề đơn giản, hiện nay đã có nhiều phương pháp
để xác định giá trị tài sản hữu hình nhưng việc xác định giá trị tài sản vô hình đang
gặp vướng mắc trong xác định thương hiệu và vị thế hoạt động:
- Xử lý các khoản nợ tồn đọng, đặc biệt Nhà nước phải có cơ chế xử lý
dứt điểm các khoản nợ theo chủ trương như nợ cho vay thanh toán công nợ, nợ
khoanh… Đây là một thực trạng khó khăn của các ngân hàng thương mại nhà nước
hiện nay. Quá trình xử lý nợ đọng sẽ kéo dài thời gian ảnh hưởng đến tiến trình cổ
phần hóa.
- Xây dựng một ngân hàng cổ phần hóa đủ thực lực tài chính cạnh
tranh trên thị trường quốc tế. Muốn thực hiện được điều này, cần phải xác định
chính xác giá trị thực tế của ngân hàng được cổ phần hóa, đưa ra một mức giá phù
hợp mà người mua và cả người bán đều có thể chấp nhận được, trên cơ sở đó việc
gọi vốn góp cổ đông rất dễ dàng.
Xác định chiến lược kinh doanh ngân hàng:
Các nội dung khác của tiến trình cổ phần hóa mặc dù được chuẩn bị tốt đến
đâu nhưng không xác định được mục tiêu, chiến lược phát triển kinh doanh của
ngân hàng thì cũng không thể đánh giá được tầm quan trọng của ngân hàng được cổ
phần hóa cũng như không thể làm cơ sở xác định được hiện giá ròng trong tương lai
của ngân hàng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vì vậy, ngân hàng thương mại cổ phần hóa phải xây dựng được chiến lược
kinh doanh mới theo thông lệ quốc tế và là một ngân hàng đa năng với các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư tài
chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường mua bán nợ…
Đảm bảo được hoạt động kinh doanh của ngân hàng được cổ phần hóa theo
nguyên tắc thị trường, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế.
Việc cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước phải gắn liền với việc
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng và phát triển mạng lưới hoạt

động ra các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có cổ đông góp vốn (đây sẽ là
một ưu thế của ngân hàng cổ phần hóa ).
***
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
***
A- KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC QUA TỪNG GIAI ĐOẠN.
Pháp luật về cổ phần hóa nói chung đã tồn tại từ những năm đầu của
thập niên 90 và tiếp tục được sửa đổi bổ sung nhiều lần cho tới nay. Tuy
nhiên, đến tận năm 2005, Ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên là Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam mới thực hiện cổ phần hóa. Do vậy, pháp luật
về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ được áp dụng kể từ năm
2005. Về nguyên tắc, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam áp dụng theo các
văn bản cũ (trước nghị định 109), đó là
- Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc
chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24.12.2004 của Bộ tài
chính.
- Thông tư 40/2004/TT-BTC hướng dẫn kế toán khi
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
- Thông tư 95 /2006/TT-BTC sửa đổi, bổ sung TT số
126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của BTC hướng dẫn thực hiện
NĐ số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của CP về chuyển công ty
nhà nước thành công ty cổ phần.
Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hóa, Ngân hàng ngoại thương đã
gặp phải một số vướng mắc và đã phải chờ chỉ đạo trực tiếp từ Chính phủ và
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện nay, sau khi thí điểm cổ phần hóa

Ngân hàng ngoại thương, hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện hơn. Cụ thể
hiện nay, các Ngân hàng thương mại Nhà nước còn lại sẽ áp dụng các văn
bản sau khi cổ phần hóa:
- Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định 110/2007/NĐ-CP về Chính sách cho người lao động
dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
- Thông tư 146/2007/TT-BTC Ngày 06 Tháng 12 năm 2007
hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển danh
nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại nghị
định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
- Thông tư 20/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện chính
sách đối với người lao động theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tháng 06 năm 2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà
nước thành công ty cổ phần
Bài nghiên cứu sẽ đi sâu vào các quy định hiện hành về cổ phần
hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước trong giai đoạn thứ hai.
B- PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
I. Đối tượng và nguyên tắc cổ phần hóa.
1. Đối tượng cổ phần hóa
Đối tượng cổ phần hóa được quy định tại điều 2 nghị định
109/2007/NĐ-CP bao gồm
- Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
- Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn),
Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do

Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập.
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập
đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc
lập của Tổng công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ.
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, các Ngân hàng thương mại
Nhà nước chính là một trong các đối tượng điều chỉnh của pháp luật về cổ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần hóa. Bởi vậy, việc cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ
được điều chỉnh bởi các văn bản sau:
- Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
- Nghị định 110/2007/NĐ-CP về Chính sách cho người lao
động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
- Thông tư 146/2007/TT-BTC Ngày 06 Tháng 12 năm 2007
hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển
danh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định
tại nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
- Thông tư 20/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện
chính sách đối với người lao động theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP
ngày 26 tháng 06 năm 2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp
100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Ngoài việc là đối tượng được nêu ở điều 2, các Ngân hàng thương mại
Nhà nước còn phải đáp ứng các quy định tại điều 3 nghị định 109:
- Không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Các Ngân hàng thương mại Nhà nước đều đáp ứng đủ yêu cầu này
theo kế hoạch cổ phần hóa của Chính phủ. Theo đó, tất cả các Ngân hàng
thương mại Nhà nước đều thuộc diện cổ phần hóa. Chính phủ đã có nhiều

văn bản, chỉ thị đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa Ngân hàng thương mại
Nhà nước, cụ thể là Chỉ thị số 04/2005/CT-TT của Chính phủ.
- Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá
lại giá trị doanh nghiệp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây cũng là điều kiện mà các Ngân hàng thương mại Nhà nước đáp
ứng được. Hiện nay, các ngân hàng đều hoạt động tương đối tốt và có vị trí
khá vững trong ngành. Cụ thể, đó đều là những ngân hàng có khả năng cạnh
tranh và thị phần tương đối cao, lợi nhuận hàng năm đủ đảm bảo để các ngân
hàng còn vốn Nhà nước sau cổ phần hóa.
2. Nguyên tắc cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà
nước.
Nguyên tắc cổ phần hóa Ngân hàng Nhà nước thành công ty cổ phần
được quy định tại phần I thông tư 146/2007/TT-BTC hướng dẫn nghị định
109. Có hai nguyên tắc chung đối với quá trình cổ phần hóa được áp dụng
đối với Ngân hàng thương mại Nhà nước như sau:
a. Nguyên tắc Nhà nước không cấp thêm vốn cho cổ phần hóa khi
không còn vốn Nhà nước.
Ngân hàng cổ phần hoá phải kiểm kê, xử lý tài chính và đánh giá lại
giá trị doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước tại Ngân hàng. Trường hợp
giá trị phần vốn nhà nước tại Ngân hàng không còn thì áp dụng hình thức
sắp xếp khác phù hợp theo quy định của pháp luật.
b. Nguyên tắc quá trình cổ phần hóa phải đảm bảo chặt chẽ, công
khai, minh bạch, không làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước.
Nguyên tắc này còn được quy định tại điều 11.1 nghị định 109. Theo
đó, Ngân hàng cổ phần hóa phải thực hiện công khai, minh bạch các thông
tin về Ngân hàng, về phương án cổ phần hóa, tình hình quản lý và sử dụng
đất đai, lao động theo đúng quy định tại Luật Doanh nghiệp và các quy định
khác của pháp luật. Ngoài ra, tại mục I.4 thông tư 146 còn quy định, các tổ

chức, cá nhân không chấp hành chế độ nhà nước, gây ra tổn thất hoặc thất
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×