Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.01 KB, 55 trang )

ch ơng i
hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế
thị trờng và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật
đối với hoạt động kinh doanh Bảo hiểm.
I. hoạt động kinh doanh Bảo hiểm trong nền kinh tế thị trờng.
1. Lịch sử hình thành và phát triển của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm trên thế giới và ở Việt nam.
1.1. Trên thế giới.
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xa trong lịch sử nền văn minh nhân loại mà
thậm chí cho đến bây giờ ngời ta vẫn cha xác định đợc bảo hiểm xuất hiện từ khi
nào. Chúng ta có thể dễ dàng tìm đợc phế tích của những ngôi nhà tác phẩm nghệ
thuật hoặc những dấu tích còn sót lại của những nền văn minh xa kia. Tuy nhiên
việc tái lập một cách chính xác cách thức mà các thị dân đầu tiên đã sử dụng để tổ
chức các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế lại là một điều khó khăn hơn nhiều.
Trong một số những dấu tích vật chất gây ấn tợng của văn minh thời Tiền sử, thời
Cổ đại, thời Trung cổ và thời Cận đại có các kho lúa nơi mọi ngời dự trữ lơng thực
để sử dụng trong trờng hợp khẩn cấp. Câu chuyện trong kinh thánh Joeph giải thích
giấc mơ của vua Ai Cập là một ví dụ minh hoạ nguyên tắc mà ngời ta đã áp dụng để
tổ chức dịch vụ nói trên. Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa
hoặc quân xâm lợc ngăn cản ngời dân của một thành phố thu hoạch ở vùng nông
thôn xung quanh. Mặc dù mỗi hộ gia đình có thể tự dự phòng cho những trờng hợp
xấu nói trên nhng các thị dân đã sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo từng
cộng đồng có hiệu quả hơn. Mỗi ngời có khả năng sẽ phải đóng góp vào một khoản
thuế nhỏ trong những năm đợc mùa, khi giá lơng thực xuống thấp. Ngời ta thực
hiện việc mua lơng thực có thể dự trữ đợc chủ yếu là lúa mỳ. Nông dân thấy hài
lòng do họ có thể bán đợc nhiều hơn( với giá cao hơn) so với khi cơ quan thuế
không thực hiện việc mua lơng thực trên thị trờng. Gặp khi mất mùa hoặc khi thành
phố bị vây hãm, cơ quan thuế sẽ xuất ra lơng thực dự trữ để nuôi sống c dân thành
phố. Vì vậy, ý tởng về việc lập một quỹ chung (trong trờng hợp này là quỹ lơng
thực) đã xuất hiện trong tiềm thức con ngời. ý tởng này tỏ ra rất phù hợp với yêu
cầu khách quan của đời sống của con ngời vốn thờng xuyên bị rủi ro đe doạ.


Vào cuối thế kỷ XV, khi Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá tới
Châu á và Châu Mĩ, mở đờng cho cái gọi là cuộc cách mạng thơng mại xảy ra tr-
ớc cuộc cách mạng công nghiệp nổi tiêng, ý tởng về rủi ro và thành lập một quỹ
chung đã xuất hiện cùng một lúc. Nếu một đội tàu nhỏ tìm cách đi từ Châu Âu tới
Inđônêxia để mua bán hàng hoá và trở về với nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại
có một số tàu không hoàn thành chuyến trở về. Một số tàu có thể bị chìm do bão tố,
1
cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội thuỷ thủ bị chết vì bệnh tật), lạc đờng, bị chìm
do quá tải. Những ngời tham gia vào chuyến đi mạo hiểm đó đã cảm thấy sự cần
thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro để tránh tình trạng một số nhà đàu t bị mất trắng
khoản đầu t của mình do hoàn cảnh ngẫu nhiên đã khiến cho con tàu của họ bị mất
tích. Vì thế họ đã tìm ra hai cách nhằm đáp ứng nhu cầu này:
Cách thứ nhất, là thành lập một liên doanh có góp vốn cổ phần theo đó một
nhóm đầu t cùng đầu t vào một đội thuyền chở hàng chung, cùng chia sẻ rủi ro khi
xảy ra tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên doanh thu đợc.
Cách thứ hai, là bảo hiểm một hệ thống mà theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có
thể là một cá nhân hay một công ty) đề nghị trả một số tiền mặt cho ngời khác nếu
những ngời này đồng ý sẽ bồi thờng cho các chủ hàng thuộc con tàu khi con tàu đã
nêu tên không hoàn thành một chuyến đi cụ thể nào đó.
Theo cách này, thay cho việc phát triển trong cạnh tranh, việc chung vốn và
bảo hiểm đã bổ xung cho nhau. Một số cá nhân hay công ty thu phí bảo hiểm bằng
tiền mặt để đổi lấy một cam kết sẽ bồi thờng cho chủ tàu trong trờng hợp tàu bị mất
tích. Những bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung mà họ cam kết sử dụng để
thanh toán cho ngời đợc bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Một số nhà kinh doanh bảo hiểm nhanh chóng nhận ra rằng rất nhiều thành
viên cộng đồng không muốn mình nhận bảo hiểm cho những rủi ro lớn nh vậy theo
nh kiểu khai thác bảo hiểm của Lioyds. Vì vậy, khái niệm góp vốn chung đã đợc
đè cập đến song trong một bối cảnh khác, ngời ta kêu gọi mọi ngời mua cổ phần
của các công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ thuê các chuyên gia để lựa chọn
các rủi ro có thể bảo hiểm và bồi thờng cho ngời đợc bảo hiểm bằng số tiền trích ra

từ quỹ chung mà công ty đã đem ra đầu t khi rủi ro xảy ra. Quỹ này đợc xây dựng
trên cơ sở tiền mà công ty thu đợc sau khi bán các cổ phần cho các cổ đông cộng
với thu nhập nhờ đầu t quỹ và phí bảo hiểm do ngời đợc bảo hiểm nộp. Chỉ cần
khai thác viên chuyên nghiệp tính toán một cách đầy đủ và chính xác trong việc lựa
chọn rủi ro và số phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi loại rủi ro, cụ thể thì quỹ này
luôn luôn có khả năng để bồi thờng tổn thất cho ngời đợc bảo hiểm nếu xảy ra rủi
ro và trả lãi cho các cổ đông ở mức đủ để họ hài lòng với việc đầu t của mình.
Vào thời gian đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty bảo hiểm là bảo
hiểm hoả hoạn. Tại những thành phố đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết nhà cửa
đều dựng bằng gỗ, ngời ta dùng lửa để sởi, đun nấu và dùng để chiếu sáng. Vì vậy
rủi ro nhà bắt lửa là rất cao. Trong cộng đồng làng xã trớc khi diễn ra quá trình đô
thị hoá, khi một nhà bị cháy rụi, tất cả những nhà hàng xóm sẽ hợp sức với nhau để
giúp xây dựng lại ngôi nhà. Ngợc lại ở thành phố, do hàng xóm của gia đình có nhà
bị cháy đều có những nghề nghiệp chuyên môn riêng( nh thợ dệt, thợ may, th ký )
họ không có khả năng cũng nh thời gian để giúp hàng xóm xây lại ngôi nhà trong
2
trờng hợp xảy ra hoả hoạn. Thay vào đó, họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty
bảo hiểm để nhận đợc hai cam kết: cung cấp dịch vụ cứu hoả (nh dập lửa, ngăn
không cho lan sang nhà khác, và hạn chế mức thấp nhất do vụ cháy gây ra) và bồi
thờng bằng tiền mặt cho ngời đợc bảo hiểm để tạo điều kiện cho họ thuê mớn
những thợ chuyên môn cần thiết (nh thợ xây, thợ mộc ), sửa chữa lại h hỏng (hoặc
xây lại ngôi nhà trong trờng hợp xảy ra hoả hoạn nghiêm trọng).
Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện. Một
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải là một hợp đồng bồi thờng. Mục đích của
nó là cung cấp một khoản tiền cụ thể khi xảy ra những trờng hợp đợc nêu trong hợp
đồng bảo hiểm. Không ai có thể biết chắc chắn tuổi thọ của một ngời sẽ là bao
nhiêu. Chỉ một phần c dân trên thế giớ qua đời mỗi năm. Vào giữa thế kỷ XVII, ng-
ời ta đã thành lập các công ty, tổ chức tơng hỗ để cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhân
thọ cho công chúng. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ không phải lúc nào cũng
dựa trên nguyên tắc bồi thờng, bởi vì xét về khía cạnh vật chất, cuộc sống con ngời

là vô giá và rõ ràng không phải một tổ chức nào cũng có thể cung cấp cho một giá
trị tơng đơng với việc mất đi sinh mạng. Chính vì lý do này mà các hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ đều dựa trên một số tiền cụ thể. Một ngời sau khi đợc bảo hiểm nhân
thọ (hoặc ngời có lợi ích hợp pháp nh vợ, chồng) phải nộp một phần thu nhập của
mình cho một công ty bảo hiểm để sau này ngời thừa kế của họ sẽ nhận đợc một
khoản tiền khi ngời đợc bảo hiểm qua đời. Hoặc khi hợp đồng bảo hiểm đến hạn
sau một số năm đã định (với điều kiện ngời đợc bảo hiểm vẫn còn sống). Bảo hiểm
nhân thọ là một hình thức tiết kiệm có lợi cho ngời đợc bảo hiểm, ngời phụ thuộc
vào họ và các tổ chức kinh doanh của họ.
Từ những loại bảo hiểm ban đầu nh bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hảo hoạn và
bảo hiểm nhân thọ giờ đây trên thế giới đã có thêm rất nhiều loại bảo hiểm khác
nữa.
Những công ty bảo hiểm xuất hiện đầu tiên trên thế giới đó là:
Năm 1424, Công ty bảo hiểm đầu tiên của vận tải biển và đờng bộ đợc thành
lập ở GiênOa.
Năm 1667, Công ty bảo hiểm hoả hoạn ra đời ở Anh.
Năm 1762, Công ty bảo hiểm nhân thọ ra đời đầu tiên tại Luân Đôn.
1.2. ở Việt nam.
1.2.1.Dới thời phong kiến đến năm 1945.
Các triều đại phong kiến tập quyền Việt Nam đều giành cho mình những
quyền sở hữu tối cao về t liệu sản xuất. Chính vì vậy bảo hiểm hoàn toàn mang tính
chất xã hội và phục vụ cho mục đích thống trị của triều đình vua chúa phong kiến.
Nó tồn tại dới các hình thức phát chẩn, cứu tế mang tính bình quân. Bảo hiểm
không tồn tại khái niệm đóng góp và bồi thờng mà chỉ có khái niệm Cho và
3
Nhận. Phạm vi hoạt động bảo hiểm diễn ra ở phạm vi cục bộ, tức là chỉ ở địa ph-
ơng hay xảy ra thiên tai, địch hoạ. Tuy nhiên hầu hết các địa phơng đều tồn tại quĩ
dự phòng do các quan lại và các phú gia hảo tâm đóng góp. Thực chất của quỹ này
chỉ là Lấy của ngời giàu chia cho ngời nghèo. Bảo hiểm cha đủ khả năng duy trì
đời sống và hoạt động bình thờng.

Dới thời Pháp thuộc, do kinh tế cha phát triển nên bảo hiểm cũng cha thực sự
đáng kể. Hầu hết hoạt động bảo hiểm chỉ dừng lại ở chế độ bảo hiểm xã hội cho
công, viên chức bảo hiểm thơng mại có ít nhng hoàn toàn do ngời Pháp nắm giữ.
1.2.2. Từ năm 1945 đến năm 1994.
Khi giành đợc độc lập năm 1945, nhà nớc ta đã phát triển tài chính Xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm với t cách là một dịch vụ tài chính mới phát
triển đợc 30 năm nay. Ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt nam (gọi tắt là
(BAOVIET) ra đời theo Quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964 của Thủ tớng
Chính phủ. Sự ra đời của BAOVIET đánh dấu một bớc phát triển trong lịch sử của
ngành tài chính Việt Nam. Tuy nhiên bảo hiểm Việt Nam lúc này cũng hoàn toàn
mang tính bao cấp, không hề tồn tại khái niêm Hạch toán kinh doanh nh ở các n-
ớc T bản chủ nghĩa. Ban đầu chỉ có 5 nghiệp vụ: bảo hiểm hàng Xuất nhập khẩu,
bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu và tái bảo hiểm.
Sự có mặt của một công ty duy nhất với cơ chế độc quyền trong Kinh doanh
bảo hiểm đã duy trì trong một thời gian dài. Cho đến tháng 12 năm 1993, việc ban
hành Nghị định 100/CP về Kinh doanh Bảo hiểm của Chính phủ đã đánh dấu một
bớc ngoặt trong quá trình phát triển hoạt động kinh doanh Bảo hiểmở nớc ta.
Độc quyền về cơ bản đã chấm dứt với sự ra đời của hàng loạt các Doanh
nghiệp bảo hiểm, đó là:
- Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh ( Bảo Minh).
- Công ty bảo hiểm Nhà Rồng ( Bảo Long).
- Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex ( PJICO).
- Công ty bảo hiểm Dầu khí Việt nam ( PVIC).
- Công ty liên doanh môi giới bảo hiểm Inchcape ( INCHIBROK).
- Công ty liên doanh bảo hiểm - Việt nam Internationnal asurance
Company ( VIA).
- Công ty cổ phần bảo hiểm Bu điện ( FTI).
- Công ty liên doanh bảo hiểm United Inurace của Việt Nam (UIC).
Nhiều tổ chức bảo hiểm nớc ngoài đã thành lập văn phòng đại diện tại Việt
Nam. Mạng lới bảo hiểm, cộng tác viên đã hình thành rộng khắp cả nớc. Nhiều

nghiệp vụ mới của bảo hiểm đã đợc triển khai nh là bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm
trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm nhân thọ Hệ thống văn bản pháp lý về bảo hiểm
4
đang đợc chú ý và hoàn thiện. Mọi nỗ lực đã mang lại sự tăng trởng không ngừng
của thị trờng bảo hiểm.
Sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam là một xu thế
tất yếu trong điều kiện kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng đã tạo ra môi trờng thuận
lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, Sự phong phú về các nguồn hành hoá, dịch
vụ, tốc độ tăng trởng cao về kinh tế, mức thu nhập dồi dào của nhiều tầng lớp dân
c. Tính phức tạp, đa dạng của các loại hình rủi ro là yếu tố khách quan tác động đến
việc hình thành và tăng nhanh các nhu cầu về bảo hiểm trong xã hội.
Gắn liền với các loại thị trờng khác, đặc biệt là thị trờng tài chính (mà trớc hết
là thị trờng vốn), thị trờng bảo hiểm hình thành nh một mắt xích không thể thiếu
trong cơ chế thị trờng.
Thị trờng bảo hiểm là nơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại sản phẩm
bảo hiểm, nơi ngời bảo hiểm và khách hàng tác động qua lại để xác định giá cả
cũng nh số lợng sản phẩm bảo hiểm. Thị trờng bảo hiểm tất yếu chịu sự chi phối
của các qui luật kinh tế thị trờng. Môi trờng cạnh tranh đã tạo lên một thị trờng
linh hoạt có khả năng đáp ứng đợc sự đa dạng của nhu cầu bảo hiểm, thúc đẩy sự
tăng nhanh khối lợng chủng loại và chất lợng sẩn phẩm bảo hiểm.
Mặt khác, cơ chế cạnh tranh cũng làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề phức tạp.
Thị trờng nếu không đợc tổ chức, quản lý, giám sát đúng đắn có thể dẫn tới tình
trạng hỗn loạn, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế xã hội. Vậy nên các tổ chức
kinh doanh bảo hiểm cần có chiến lợc phát triển, phải tổ chức quản lý nh thế nào?
Nhà nớc cần thực hiện vai trò quản lý đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm ra
sao? Thị trờng bảo hiểm mở cửa một quốc gia cần những gì để đứng vững trong
cạnh tranh trên trờng Quốc tế? Những vấn đề này sẽ đợc giải trình ở phần tiếp theo.
2. Khái niệm, vai trò, đặc trng của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
2.1. Khái niệm.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro trên cơ sở ngời đợc bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh
nghiệp bảo hiểm bồi thờng hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện thuộc trách
nhiệm bồi thờng hay trả tiền bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm cả hoạt động kinh doanh tái bảo
hiểm và hoạt động trung gian bảo hiểm.
2.2. Vai trò của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm.
Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên Thế giới, bảo hiểm đã trở thành một
ngành kinh doanh thu hút sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp, các tổ chức
5
và dân c. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà
còn có ý nghĩa cả về mặt xã hội. Những lợi ích kinh tế và công dụng xã hội của
hoạt động kinh doanh bảo hiểm thể hiện trên các mặt chủ yêu sau:
2.2.1. Bảo hiểm góp phần bảo vệ tài sản, ổn định cuộc sống con ngời mang lại
sự an toàn trong xã hội.
Hoạt động bảo hiểm trớc hết là nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro. Hậu quả
của rủi ro có nhiều dạng và nói chung đều liện quan đến khía cạnh tài chính
phát sinh các khoản chi phí, chi tiêu bất thờng mà thông thờng ngời mua bảo hiểm
phải tự gánh chịu.
Sự có mặt của các tổ chức bảo hiểm là để cung cấp dịch vụ đặc biệt cho khách
hàng đáp ứng nhu cầu đảm bảo về mặt vật chất, tài chính trớc rủi ro đối với họ.
Thực tế việc bồi thờng, trả tiền bảo hiểm của bên bảo hiểm đã giúp các tổ chức bảo
toàn vốn liếng tài sản, các cá nhân, các gia đình khắc phục khói khăn không rơi vào
tình trạng kiệt quệ về vật chất và tinh thần.
Hơn nữa, nghề bảo hiểm còn đòi hỏi các tổ chức bảo hiểm có trách nhiệm
nghiên cứu rủi ro , thống kê những tai nạn, những tổn thất, xác định nguyên nhân
và đề ra các biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và giảm thiểu các rủi ro.
Thực tế khi xây dựng các quy tắc, điều khoản, biểu phí bảo hiểm cũng nh
trong quá trình triển khai nghiệp vụ( kể từ khi đánh giá rủi ro, kí kết hợp đồng,
quản lý hợp đồng cho đến lúc giám định tổn thất, giải quyết bồi thờng), các tổ chức

bảo hiểm luôn chú ý đến việc tăng cờng áp dụng các biện pháp phòng tránh cần
thiết để bảo vệ đối tợng bảo hiểm, góp phần đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức
khoẻ con ngời, của cải vật chất của xã hội và đặc biệt là để giảm chi phí do phải bồi
thờng bảo hiểm cho khách hàng.
2.2.2. Bảo hiểm thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tập chung vốn, góp phần đáp
ứng các nhu cầu về vốn trong xã hội.
Sự tồn tại của thị trờng bảo hiểm với nhiều loại hình bảo hiểm (đặc biệt là bảo
hiểm nhân thọ) đã tạo một hình thức tiết kiệm linh hoạt, tác động đến t duy của mỗi
cá nhân, chủ hộ gia đình, chủ doanh nghiệp. Họ phải suy nghĩ tính toán và dần dà
sẽ có một ý thức, thói quen về việc giành ra một khoản thu nhập để có một tơng lai
an toàn hơn cho chính mình.
Tiết kiệm của những ngời tham gia bảo hiểm liên quan chặt chẽ đến việc tập
chung vốn của các tổ chức bảo hiểm. Với những đặc điểm về phạm vi hoạt động, sự
phong phú trong các loại hình nghiệp vụ, khả năng tập chung vốn của các tổ chức
bảo hiểm rất dồi dào. Qua hoạt động bảo hiểm mà một lợng tiền lớn nằm phân tán,
dải dác trong dân c đã đợc tập chung về một tụ điểm tài chính, đặc biệt đó là hình
thành quỹ bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm.
6
Với đặc điểm trong kinh doanh bảo hiểm Phí nộp trớc, việc bồi thờng, trả
tiền bảo hiểm chỉ đợc thực hiện sau đó một thời gian, cho nên lợng vốn mà các tổ
chức bảo hiểm đã gom góp đợc phần lớn là có thời gian tạm thời nhàn rỗi. Vì thế,
mọi tổ chức bảo hiểm phải tính toán, đầu t linh hoạt số vốn đó để sinh lời đóng góp
phần giá trị thặng d cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Dù rằng những tổ chức
bảo hiểm đợc sinh ra không phải nhằm mục đích kinh doanh tiền tệ, nhng trong
nền kinh tế thị trờng tổ chức bảo hiểm chỉ có thể Kinh doanh rủi ro trên cơ sở
thực hiện song song công việc đầu t tài chính.
Thức tế ở nhiều quốc gia phát triển, các tổ chức bảo hiểm hoạt động rất mạnh
trên thị trờng bất động sản, thị trờng chứng khoán đặc biệt là thị trờng vốn. Nh một
loại hình trung gian tài chính, các tổ chức bảo hiểm thu hút vốn, cung ứng vốn, góp
phần đáp ứng các nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự tăng nhanh sự luân chuyển vốn, nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Bên cạnh những vấn đề đã nêu ở trên, vai trò của bảo hiểm còn thể hiện ở
nhiều mặt khác nh : Tác động đến sự phát triển các ngành kinh tế, khu vực kinh tế
đặc biệt( lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, khu vực kinh tế đối ngoại); góp phần vào
sự đảm bảo xã hội, tăng thu nhập ngân sách Nhà nớc, tăng tích luỹ tiền tệ cho nền
kinh tế quốc dân.
2.3. Đặc trng củA ngành hoạt động Kinh doanh bảo hiểm.
Đặc trng cơ bản của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là sự kết hợp giữa hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm với các rủi ro đợc bảo hiểm.
Rủi ro đợc bảo hiểm: Chỉ là sự cố dự tính, nếu xảy ra gây thiệt hại hoặc ảnh h-
ởng đến đối tợng bảo hiểm sẽ phát sinh trách nhiệm bồi thờng hoặc trả tiền bảo
hiểm.
Những rủi ro đợc bảo hiểm thờng đợc nêu trong phạm vi bảo hiểm của qui tắc
bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm: Là phạm vi giới hạn những rủi ro mà theo đó thoả thuận
nếu những rủi ro đó xảy ra ngời bảo hiểm sẽ chiụ trách nhiệm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp thực hiện với t cách là
ngời bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm lập quỹ bảo hiểm trên cơ sở đóng góp
phí bảo hiểm của ngời tham gia bảo hiểm.
Ngời tham gia bảo hiểm: Là ngời có thân thể, tài sản trách nhiệm dân sự cần
đợc bảo hiểm hoặc là ngời có nghĩa vụ tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp
luật. Ngời tham gia bảo hiểm có thể là pháp nhân hoặc là thế nhân, họ tham gia bảo
hiểm vì lợi ích của bản thân hoặc vì lợi ích của ngời khác. Để đợc hởng quyền lợi
bảo hiểm ngời tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm theo mức thoả
thuận cho bên bảo hiểm.
7
Phí bảo hiểm: Là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà
ngời tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ nộp cho doanh nghiệp bảo hiểm theo sự thoả
thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, ngời tham gia bảo

hiểm( nếu đồng thời là ngời đợc bảo hiểm) sẽ đợc đền bù khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm.
Sự kiện bảo hiểm: Là sự kiện khách quan, do các bên dự liệu trong hoạt động
bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra trên thực tế thì bên
bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho ngời có quyền hởng
quyền lợi bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có thể là các rủi ro và cũng có thể là sự kiện
khác do các bên thoả thuận
Quỹ bảo hiểm: Đợc doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng để bồi thờng, bù đắp cho
những trờng hợp thuộc diện đợc bảo hiểm. Chính nhờ phơng thức thu phí bảo hiểm
của số đông và chỉ chi trả khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra trên thực tế mà tạo ra thu
nhập (lợi tức) cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ.
Ngời bảo hiểm không bán một sản phẩm hữu hình mà sản phẩm của công ty
bảo hiểm đợc quan niệm là một sản phẩm vô hình
Ngời sở hữu đơn bảo hiểm đợc cấp một văn bản, đơn bảo hiểm làm bằng
chứng cho việc xác lập một hợp đồng giữa ngời tham gia bảo hiểm và công ty bảo
hiểm cam kết trong hợp đồng là cam kết thanh toán bằng tiền (hoặc hàng hoá trong
một số trờng hợp) theo giá trị tơng đơng với một tổn thất (trong bảo hiểm phi nhân
thọ) hoặc một số tiền cụ thể nào đó (trong bảo hiểm nhân thọ).
Trong quỹ dự trữ hoặc tài sản của công ty bảo hiểm khônng có một khoản dặc
biệt nào mà chỉ đợc dùng để thực hiện trách nhiệm bảo hiểm cho một ngời đợc bảo
hiểm theo đơn bảo hiểm đã cấp.
3. Các hình thức hoạt động Kinh doanh bảo hiểm.
3.1. Kinh doanh bảo hiểm gốc.
Đây là một loại hình kinh doanh truyền thống của các doanh nghiệp bảo hiểm
trên thị trờng, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp ký hợp đồng bảo hiểm với
khách hàng là các tổ chức, cá nhân( không phải là một doanh nghiệp bảo hiểm) và
cam kết trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho khách hàng khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
3.2. Kinh doanh tái bảo hiểm.
Kinh doanh Tái bảo hiểm là một loại hình kinh doanh bảo hiểm do các doanh

nghiệp tái bảo hiểm chuyên nghiệp thực hiện đối với khách hàng là các doanh
nghiệp bảo hiểm gốc trên cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm với
doanh nghiệp bảo hiểm gốc.
Có hai hình thức tái bảo hiểm chính:
8
- Tái bảo hiểm tạm thời.
- Tái bảo hiểm cố định.
Mọi hoạt động tái bảo hiểm là tạm thời. Điều này có nghĩa là mỗi rủi ro mà
công ty bảo hiểm gốc mời chào cho công ty tái bảo hiểm thì công ty tái bảo hiểm
đều có thể quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. Điều này liên quan rất
nhiều đến việc quản lý nh chúng ta có thể hình dung và do vậy rất tốn kém. Hình
thức tái bảo hiểm cố định ngày càng trở nên phổ biến. Một thoả thuận sẽ đợc lập
giữa công ty bảo hiểm gốc và công ty tái bảo hiểm cam kết rằng, tất cả những rủi ro
đáp ứng một số tiêu chuẩn đã thoả thuận sẽ đợc chào (tái) cho công ty tái bảo hiểm.
Có hai dạng tái bảo hiểm cố định.
3.2.1. Tái bảo hiểm cố định theo tỉ lệ.
Theo phơng pháp tái bảo hiểm này, công ty bảo hiểm gốc quyết định tỷ lệ rủi
ro giữ lại là bao nhiêu và thảo thuận chuyển nhợng phần còn lại cho các công ty tái
bảo hiểm theo một hợp đồng cố định.
Có hai loại hợp đồng tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
a. Tái bảo hiểm cố định số thành:
Theo hợp đồng tái bảo hiểm số thành, một tỷ lệ cố định của bất cứ tổn thất nào
đã xác định trong hợp đồng đợc tái bảo hiểm.
Ví dụ: Một công ty bảo hiểm gốc có thể đồng ý tái bảo hiểm 80%.
Do vậy, nếu số tiền bảo hiểm cho một rủi ro là 1.000.000 VND thì công ty bảo
hiểm gốc giữ lại 200.000 và tái bảo hiểm 800.000 VND.
b. Hợp đồng tái bảo hiểm mức dôi.
Một cách thức khác để tái bảo hiểm tỷ lệ cố định của mọi tổn thất là công ty
bảo hiểm gốc quyết định mỗi rủi ro công ty giữ lại là bao nhiêu. Số này đợc gọi là
mức giữ lại và đợc tính toán trên tổn thất tài chính dự kiến. Đa số các trờng hợp

công ty bảo hiểm phải tính toán khả năng tổn thất tối đa có thể xảy ra và điều này
sẽ đợc thực hiện bằng cách xem xét tất cả những nguy cơ có liên quan đến rủi ro.
Công ty bảo hiểm gốc sau đó có thể thu xếp việc tái bảo hiểm theo các lớp. Mỗi
một lớp tơng đơng với mức giữ lại của công ty bảo hiểm gốc.
3.2.2 Tái bảo hiểm cố định phi tỷ lệ.
Các phơng pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ liên quan dến các tỷ lệ của giá trị chịu
rủi ro. Các phơng pháp tái bảo hiểm phi tỷ lệ nhìn nhận theo cách khác và đợc dựa
trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm.
Công ty nhận tái bảo hiểm đồng ý thanh toán một số tiền vợt mức hay quá số
tiền mà công ty bảo hiểm gốc đồng ý thanh toán hoặc giữ lại.
Hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ có hai loại.
a. V ợt mức bồi th ờng.
9
Theo phơng pháp này, các bên thảo thuận là công ty nhợng tái bảo hiểm thanh
toán số tiền cố định đầu tiên của các tổn thất phát sinh từ một sự cố và công ty nhận
tái bảo hiểm thanh toán số tiền cố định vợt quá mức giữ lại.
b. V ợt tỷ lệ bồi th ờng.
Phơng pháp tái bảo hiểm này thực hiện việc bảo vệ cho toàn bộ cho các rủi ro
chứ không phải bảo vệ cho các tổn thất đơn lẻ. Khi tỷ lệ tổn thất cho một loại
nghiệp vụ bảo hiểm vợt quá con số cụ thể thì công ty tái bảo hiểm đồng ý thanh
toán. Tỷ lệ tổn thất là tỷ lệ khiếu nại theo phần trăm của phí bảo hiểm. Do vậy phí
bảo hiểm là 100.000VND một khiếu nại thanh toán là 50.000VND. tỷ lệ tổn thất là
50%.
Khi tỷ lệ này vợt quá một con số nhất định, công ty tái bảo hiểm sẽ không sẵn
sàng bồi thờng toàn bộ tổn thất vợt quá tỷ lệ đã đợc thoả thuận vì điều này sẽ không
khuyến khích công ty bảo hiểm gốc thận trọng trong việc đánh giá rủi ro giải quyết
khiếu nại của họ.
3.3. Kinh doanh môi giới bảo hiểm.
Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, t vấn cho bên mua
bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các

công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm
theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm.
Ngời môi giới bảo hiểm có thể là một cá nhân hoặc một công ty bảo hiểm mà
toàn bộ thời gian làm việc của họ là thu xếp để khách mua bảo hiểm ký kết hợp
đồng với các công ty bảo hiểm.
Ngời đợc bảo hiểm có thể nhận đợc sự t vấn độc lập từ một ngời môi giới về
một loạt vấn đề bảo hiểm mà không phải trả phí trực tiếp cho ngời môi giới.
Ví dụ: Một ngời môi giới bảo hiểm sẽ t vấn về các nhu cầu bảo hiểm, các hoạt
động bảo hiểm tốt nhất và những hạn chế chúng, về thị trờng bảo hiểm tốt nhất, các
thủ tục khiếu nại, nghĩa vụ của ngời đợc bảo hiểm theo các điều kiện của đơn bảo
hiểm và ngời môi giới sẽ cập nhật các thông tin theo thời gian bao gồm cả những
thay đổi của thị trờng.
Theo quan điểm của các công ty bảo hiểm, những cuộc đàm phán với ngời
môi giới thờng dễ dàng hơn và nhanh chóng hơn so với việc tiếp xúc trực tiếp với
ngời mua bảo hiểm.
ở Việt Nam hiên nay mới có một công ty liên doanh môi giới bảo hiểm, đó là
công ty Aon Inchinbrok thành lập năm 1993( vốn điều lệ 250.000 USD). Đây là
công ty liên doanh giữa một bên là Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BAOVIET)
và bên nớc ngoài là tập đoàn Môi giới bảo hiểm Aon của Mĩ.
II. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp đối với hoạt động Kinh
doanh bảo hiểm.
10
1.Những ảnh hởng của hoạt động kinh doanh Bảo hiểm đối
với nhà nớc, nền kinh tế xã hội.
Trong điều kiện kinh tế nớc ta hiện nay, bảo hiểm đợc coi là giải pháp bồi th-
ờng vật chất cho những thiệt hại rủi ro cho con ngời, đồng thời là phơng pháp tích
tụ vốn để phân phối lại cho các nhu cầu đầu t vào nền kinh tế đang cần vốn. ở các
nớc phát triển, ngành kinh doanh bảo hiểm đóng góp từ 5% đến 10% GDP của các
nớc đó, đồnh thời là một cônh cụ điều hoà và phân phối vốn khá hiệu quả của nền
kinh tế.

Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang cơ chế thị trờng thì hoạt động
kinh doanh bảo hiểm cũng có bớc phát triển vợt bậc. Mức tăng trởng của ngành
kinh doanh bảo hiểm đã đạt bình quân 40%/ năm trong những năm 1990 - 1995 và
từ 1996 - 1999 đạt mức độ tăng trởng 25%/ năm.
Bảo hiểm là một hoạt động kinh tế quan trọng trên cơ sở xây dựng quỹ bảo
hiểm để bồi thờng và trả tiền bảo hiểm cho những tổn thất vì tai nạn, rủi ro về tài
sản hoặc con ngời. Bảo hiểm có nhiều chức năng nh đề phòng, hạn chế tổn thất, bồi
thờng thiệt hại, hỗ trợ cho sản xuất xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tập chung
vốn để xây dựng kinh tế. Bảo hiểm là sản phẩm của sự phát triển kinh tế hàng hoá,
đồng thời cũng là biện phát thúc đẩy và đảm bảo cho nền kinh tế hàng hoá phát
triển. Tất cả những nớc và khu vực có nền kinh tế phát triển đều coi trọng hoạt
động kinh doanh bảo hiểm và coi hoạt động kinh doanh bảo hiểm nh một cỗ máy
ổn định xã hội tinh xảo. Trong giai đoạn này, đi đôi với việc phát triển kinh tế thị
trờng theo định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa, Nhà nớc cũng cần đẩy mạnh hoạt động
kinh doanh bảo hiểm để xây dựng quỹ dự trữ bồi thờng tổn thất bất ngờ nhằm đảm
bảo cho việc thực hiện kế hoạch xây dựng kinh tế đất nớc và ổn định cuộc sống
nhân dân.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh không thể thiếu
trong một nền kinh tế đang phát triển và đang rất cần rất nhiều vốn cũng nh cần có
sự an toàn cao, rủi ro ít nh nớc ta.
1.1. Bảo hiểm có tác dụng đảm bảo sự an toàn và ổn định cho đời sống kinh
tế xã hội ở nớc ta trong giai đoạn chuyển đổi.
ở nớc ta, hàng năm có một số vùng thờng xuyên bị thiên tai đe doạ nhng nhờ
có bảo hiểm mà các Doanh nghiệp , các tổ chức kinh tế xã hội và dân c đã đợc bồi
thờng kịp thời, tránh đợc tình trạng gián đoạn trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm
việc xây dựng kinh tế nớc nhà. Trong năm 1996 Tổng Công ty bảo hiểm Việt nam (
BAOVIET) đã giải quyết bồi thờng hơn 400.00 vụ tổn thất trong đó có một số vụ
tổn thất lớn đã đợc BAOVIET bồi thờng nh :

11

Vụ việc. Số tiền bồi thờng.
- Vụ tổn thất về khống chế giếng dầu 9.000.000 USD.
của hãng AEDC
- Vụ tổn thất toàn bộ một máy bay lên 1.600.000 USD.
.thẳng.
- Vụ tổn thất hàng Xuất khẩu bột mỳ do 1.500.000 USD.
chở trên tàu bị mất tích.
- Vụ tổn thất cháy nhà máy giầy An Đỉnh 1.000.000 USD.
Hải Phòng
- Bồi thờng về trách nhiệm dân sự chủ tàu 16,5 tỷ đồng VN.
Trờng Sa đối với hu hỏng đờng ống dẫn khí.
Nhằm mục đích chủ động và tích cực đề phòng và hạn chế tổn thất, BAOVIET
đã cùng ngành giao thông vận tải tài trợ cho việc xây dựng một nhánh đờng lánh
nạn. Cho đến nay, đã có gần 20 nhánh đờng lánh nạn đợc xây dựng với sự đóng góp
tài trợ của BAOVIET với số vốn đầu t tới hàng trăm triệu đồng. Nhờ những con đ-
ờng lánh nạn đó mà hàng chục xe chở khách đã đợc cứu thoát khỏi tai nạn, nhiều
sinh mạng đã đợc cứu thoát khởi lỡi hái của tử thần.
1.2. Hoạt động Kinh doanh bảo hiểm là giải pháp đảm bảo sự an toàn cho các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trờng.
Trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, các doanh nghiệp trở thành nhân tố
chủ yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự an toàn trong kinh doanh của các doanh
nghiệp phải do chính doanh nghiệp phải lo liệu và Nhà nớc không thể bao cấp cho
những tổn thất và rủi ro xảy ra cho doanh nghiệp. Vì vậy, chỉ có thể tham gia bảo
hiểm thì doanh nghiệp mới đảm bảo cho những hoạt động sản xuất và kinh doanh
của mình đợc thực hiện thuận lợi.
1.3. Bảo hiểm có lợi cho việc thực hiện bảo toàn vốn vay của Ngân hàng th-
ơng mại một cách thuận lợi, bảo toàn cho việc luân chuyển vốn vay.
Trong thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế ở nớc ta, một phần vốn cần dùng cho
doanh nghiệp đợc cung cấp từ khoản tiền vay của ngân hàng. Nhng khi doanh
nghiệp bị tai nạn rủi ro, việc đó chẳng những ảnh hởng tới khả năng hoàn trả khoản

tiền vay đã hết hạn mà còn yêu cầu ngân hàng tiếp tục cho vay, nhằm đáp ứng đầy
đủ số vốn cần dùng ngay để doanh nghiệp khôi phục sản xuất. Nếu doanh nghiệp bị
tai nạn rủi ro đã kịp thời nhận đợc tiền bồi thờng bảo hiểm, đã nhanh chóng khôi
phục sản xuất và kinh doanh và cũng có thể hoàn trả vốn vay ngân hàng.
2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt
động Kinh doanh bảo hiểm.
12
Hiện nay do hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong cuộc sống nên sự can thiệp của Nhà nớc bằng pháp luật đối với hoạt
động kinh doanh này là cần thiết.
Để đáp ứng yêu cầu khách quan của việc phát triển thị trờng bảo hiểm, Nhà n-
ớc đã ban hành Luật Kinh doanh Bảo hiểm (Luật này đợc Quốc hội thông qua ngày
09/12/2000 ).
ch ơng ii
mô hình pháp luật về Kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam
trong giai đoạn hiện nay.
I. những qui định pháp lý đối với chủ thể tham gia giao dịch trên
thị trờng bảo hiểm.
1. Qui chế pháp lý của Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.1.Khái niệm Doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân đợc thành lập theo những điều kiện và
trình tự do luật định, chuyên hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích tạo ra
thu nhập và lợi nhuận.
1.2. Các đặc điểm của Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm đợc thành lập theo những điều kiện và trình tự
do luật định.
Doanh nghiệp bảo hiểm gắn bó chặt chẽ với quốc kế dân sinh, đợc coi là một
tổ chức kinh doanh ngành nghề đặc biệt, giữ một vai trò quan trọng trong đời sống
kinh tế và phải đợc thành lập theo đúng pháp luật.
13

Điều 63 Luật Kinh doanh Bảo hiểm đã đợc Quốc hội nơc Cộng Hoà XHCN
Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/200 quy định Điều kiện để
đợc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm;
Các điều kiện để đợc cấp giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh bảo
hiểm bao gồm:
1, Có số vốn điều lệ đã góp không đợc thấp hơn mức vốn pháp định theo quy
định của Chính phủ.
Mức vốn pháp định của Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức môi giới bảo hiểm
đợc quy định nh sau: Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, Công ty liên doanh bảo
hiểm: 20 tỷ đồng Việt nam hoặc 2 triệu đô la Mĩ(Khoản 1 Điều 22 Nghị định
100/CP, ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm)
2, Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều
64 Luật Kinh doanh Bảo hiểm.
3, Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật kinh
doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật.
4, Ngời quản trị, ngời điều hành có năng lực quản lý chuyên môn nghiệp vụ về
bảo hiểm.
1.2.2. Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động nhằm mục đích kinh doanh có lãi.
Việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm thu đợc lợi ích
kinh tế. Mục đích của ngời bỏ tiền vốn ra hoặc những ngời góp vốn cổ phần để
thành lập doanh nghiệp bảo hiểm nhằm thông qua con đờng hoạt động kinh doanh
bảo hiểm của doanh nghiệp để thu lợi nhuận. Việc kinh doanh của doanh nghiệp
bảo hiểm cũng đợc tự chủ trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm những nghiệp vụ
cần bảo hiểm nhằm nâng cao hiệu quả và thực hiện tăng thêm giá trị tài sản, dới sự
kiểm soát vĩ mô của Nhà nớc, theo sự đòi hỏi của thị trờng. Đây cũng là sự khác
nhau cơ bản giữa hình thức doanh nghiệp bảo hiểm với các hình thức tổ chức khác
về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế của nhà nớc.
1.2.3. Nôi dung kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm là những nghiệp vụ
bảo hiểm.
Nghiệp vụ bảo hiểm là một loại hoạt động kinh doanh có tính chất giúp đỡ lẫn

nhau dới hình thức công ty sử dụng quỹ bảo hiểm đợc lập ra bằng cách thu phí bảo
hiểm, để bồi thờng hoặc trả tiền bảo hiểm cho ngời đợc bảo hiểm hoặc ngời đợc h-
ởng quyền lợi bảo hiểm khi xảy ra thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ.
1.2.4. Doanh nghiệp bảo hiểm là một pháp nhân có tính chất xã hội và có tính
chất liên hiệp.
Doanh nghiệp bảo hiểm tiếp nhận rủi ro trách nhiệm với khách hàng rất lớn vì
vậy trên thế giới không có loại doanh nghiệp bảo hiểm t nhân, cá nhân. Bởi vì nếu
cá nhân đó gặp tai nạn rủi ro, thì không có ngời giải quyết tiếp các trách hiệm đã
14
nhận, vì vậy ít nhất doanh nghiệp bảo hiểm phải là một pháp nhân liên hiệp một số
cá nhân để luôn luôn có ngời gánh vác trách nhiệm của doanh nghiệp với khách
hàng của họ.
1.2.5. Doanh nghiệp bảo hiểm là pháp nhân có tính cách riêng biệt.
Doanh nghiệp bảo hiểm là tổ chức kinh tế có tài sản, bộ máy tổ chức riêng và
tự chịu trách nhiệm về tài sản, có t cáh là chủ thể dân sự độc lập, đợc hởng quyền
lợi dân sự và có nghĩa vụ dân sự riêng biệt theo pháp luật.
Hình thức tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm quyết định điều kiện và trình tự
thành lập, phơng thức tập chung vốn và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp này. Nghị
định 100/CP Kinh doanh bảo hiểm quy định: Doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm
Doanh nghiệp Nhà nớc, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tơng hỗ, Công ty liên
doanh bảo hiểm, chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nớc ngoài, Doanh nghiệp bảo
hiểm 100% vốn nớc ngoài hoạt đọng trên lãnh thổ Việt Nam.
1.3. Thành lập và đăng ký kinh doanh đối với Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.3.1. Thành lập Doanh nghiệp bảo hiểm.
Việc thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải đợc thực hiện theo đúng điều kiện
và trình tự do luật định và phải có đủ một số vốn nhất định. ở nớc ta, Chính phủ
thống nhất quản lý Nhà nớc về hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính là cơ
quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nớc về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm.
Vì vậy khi thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, trớc hết phải xin phép Bộ Tài

chính xét duyệt về việc này. Các điều kiện cần thiết để Bộ Tài chính xét duyệt cấp
giấy Chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm( gọi
tắt là giấy chứng nhận) đã đợc quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm đợc Quốc
hội thông qua ngày 09/12/200 tại Điều 63. Còn Điều 64 quy định cụ thể về Hồ sơ
xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động và Điều 60 quy định Nội dung hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm.
Quản lý chặt chẽ doanh nghiệp bảo hiểm, không cho phép những doanh
nghiệp cha đợc phép đăng ký mà đã kinh doanh bảo hiểm là nguyên tắc chung
trong Luật Kinh doanh bảo hiểm ở nhiều nớc trên thế giới.
Khi thành lập doanh nghiệp bảo hiểm phải có đủ số vốn theo luật định. Điều
22 Nghị định 100/CP quy định mức vốn pháp định của Doanh nghiệp bảo hiểm và
tổ chức môi giới bảo hiểm nh sau:
1- Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam , công ty liên doanh bảo hiểm: 20tỷ
đồng Việt Nam hoặc 2 triệu đô la Mĩ.
15
2- Chi nhánh của tổ chức bảo hiểm nớc ngoài, công ty bảo hiểm 100%
vốn nớc ngoài: 5 triệu đô la Mĩ.
3- Tổ chức môi giới bảo hiểm Việt nam, công ty liên doanh môi giới bảo
hiểm: 1 tỷ đồng Việt nam hoặc 100 ngàn đô la Mĩ.
4- Chi nhánh của tổ chức môi giới bảo hiểm nớc ngoài, công ty môi giới
bảo hiểm 100% vốn nớc ngoài: 300 đô la Mĩ.
Vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là vốn mà doanh nghiệp
đã ghi vào điều lệ tổ chức hoạt động của doanh nghiệp đăng ký. Nguồn vốn này là
cơ sở vật chất để doanh nghiệp kinh doanh, đồng thời cũng là sự bảo lãnh bằng tài
sản của ngời chủ nợ và còn là hạn mức về trách nhiệm đóng góp của ngời góp cổ
phần vào doanh nghiệp.
Tính chất kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm đã quyết định số vốn của
doanh nghiệp bảo hiểm phải cao hơn doanh nghiệp cùng loại, mới có đủ năng lực
để thực hiện trách nhiệm tài chính đối với khách hàng. Hơn nữa, vốn của doanh
nghiệp bảo hiểm còn khác với các doanh nghiệp ngành nghề khác ở chỗ vốn này

phải là vốn thực nộp bằng tiền. Các cổ đông của các doanh nghiệp ngành nghề
khác có thể góp vốn bằng tiền cũng có thể góp vốn bằng hiện vật, quyền sở hữu
công nghiệp, quyền sở hữu đất đai Còn đối với những ngời góp vốn hoặc ngời
góp cổ phần vào doanh nghiệp bảo hiểm, phần vốn góp thực nộp bằng tiền mặt
trong đó phải đạt đủ mức vốn pháp định.
1.3.2. Đăng ký kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm.
Về nguyên tắc, sau khi đợc cấp giấy phép thành lập, Doanh nghiệp bảo hiểm
phải tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định.
1.3. Cơ cấu tổ chức, quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm.
1.4.1. Cơ cấu tổ chức.
Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên sự góp vốn của nhiều ngời cùng
làm việc với nhau, vì vậy để hoạt động đạt đợc mục tiêu chung, cần phải phân cho
mỗi ngời một vai trò nhất định. Tổ chức là sự liên kết những cá nhân, những quá
trình, những hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu đề ra trên các
nguyên tắc và quy tắc quản trị quy định.
Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp các bộ
phận đợc chuyên môn hoá với những trách nhiệm, quyền hạn nhất định, có mối liên
hệ mật thiết với nhau và đợc bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm
thực hiện các chức năng quản lý.
Cơ cấu tổ chức quản lý tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp có
hiệu quả và đối phó với mọi biến động của thị trờng.
16
Nguyên tắc hình thành cơ cấu tổ chức: cơ cấu tổ chức phải đi theo và đáp ứng
nhu cầu của chiến lợc kinh doanh, tính tối u, tính linh hoạt, tính tin cậy và tính kinh
tế.
Các nhân tố tác động đến cơ cấu tổ chức là chiến lợc của doanh nghiệp bảo
hiểm, nhiệm vụ của doanh nghiệp, công nghệ, môi trờng kinh doanh và mối quan
hệ phụ thuộc giữa số lợng ngời bị quản lý và khả năng kiểm tra của ngời lãnh đạo.
Để thiết kế cơ cấu tổ chức một cách hoàn chỉnh và có hiệu quả, thì phải xem
xét kĩ lỡng các điều kiện liên quan môi trờng, chiến lợc công nghệ của doanh

nghiệp. Vì vậy cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bảo hiểm không có tính cứng
nhắc, mà có thể thay đổi tuỳ thuộc vào các điều kiện ảnh hởng.
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đợc tổ chức theo:
Văn phòng chính: có trách nhiệm xác định chính sách tổng thể và điều hành
các hoạt động của doanh nghiệp.
Các văn phòng chi nhánh: có trách nhiệm kinh doanh dịch vụ đối với khách
hàng và thanh toán dàn xếp các khoản bồi thờng.
Do tính phân bố rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nên rất khó miêu
tả mẫu chuẩn cơ cấu tổ chức. Nhng nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt
động theo nguyên tắc:
a. Văn phòng chính.
Văn phòng chính thờng đặt tại Thủ đô hoặc một trong các thành phố chính
(còn gọi là tổng công ty).
Cao nhất là Ban giám đốc, những ngời không nhất thiết phải đợc đào tạo
chuyên môn bảo hiểm, nhng phải là những ngời giỏi trong công nghiệp hoặc thơng
mại. Họ sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để đa ra các quyết định chung
nhất có liên quan đến các vấn đề trong hoạt động của công ty và quyết định về đầu
t các quỹ theo quy định kinh doanh bảo hiểm.
17
TổNG GIáM ĐốC
Chi
nhánh
Tổ
chức
ban giám đốc
Đầu
t
Tai nạn
và cháy
Hàng

hải
Nhân
thọ
Kế
toán
Tổng
hợp
Trởng ban điều hành công ty bảo hiểm thờng gọi là Tổng giám đốc và có trách
nhiệm đối với hoạt động của công ty. Thờng có một vài Phó Tổng giám đốc giúp
việc cho Tổng giám đốc.
Trong một công ty bảo hiểm nói chung thờng có Giám đốc(hoặc trởng phòng)
phụ trách bảo hiểm hoả hoạn, Giám đốc( trởng phòng) phụ trách bảo hiểm tai nạn
và bộ phận khai thác hàng hải chịu trách nhiệm trong phạm vi khai thác thuộc công
việc của mỗi bộ phận khai thác và quản lý bồi thờng.
b. Văn phòng chi nhánh( còn gọi là công ty hay chi nhánh công ty)
Tổ chức tại văn phòng chi nhánh thờng khác với văn phòng chính: Đây là đơn
vị trực tiếp giao dịch với bên ngoài thông qua các nhân viên và các đại diện.


Giám đốc văn phòng chi nhánh có trách nhiệm đối với hoạt động của công ty
trong phạm vi địa lý mà chi nhánh kiểm soát. Giúp việc cho Giám đốc có thể là
một vài Phó giám đốc.
Công việc tại văn phòng chi nhánh đợc chia thành các phòng dới sự kiểm soát
của các giám sát( hoặc trởng phòng).
Mặt khác, do đặc trng của ngành bảo hiểm nên các nhà bảo hiểm mở rất nhiều
chi nhánh và các cấp bên dới các chi nhánh, có thể gọi là văn phòng khu vực( hoặc
văn phòng đại diện) dù cho việc phát triển các chi nhánh thỉnh thoảng bị chỉ trích là
lãng phí.
Nh vậy một công ty bảo hiểm có thể khái quát mô hình cơ cấu tổ chức nh sau:






Tuy nhiên, nh ta đã biết, cơ cấu tổ chức của một công ty bảo hiểm phụ thuộc
rất nhiều yếu tố và có thể thay đổi. Vì vậy, thông thờng các công ty bảo hiểm thờng
18
giám đốc chi nhánh
Nhân viên
đại lý và
quản lý
viên
Thanh
tra viên
Nhân viên
hành
chính
Nhân
viên đầu
t
Nhân sự
Văn phòng chính
Văn phòng chi
nhánh A
Văn phòng chi
nhánh B
Văn phòng chi
nhánh C
Văn phòng
khu vực A

Văn phòng
khu vực B
có các cơ cấu tổ chức đợc phân chia theo 3 nhóm theo chức năng, theo sản phẩm và
theo lãnh thổ. Công ty bảo hiểm có thể sử dụng một trong ba cách tổ chức này hoặc
kết hợp các cách cho phù hợp với công ty mình.
Cách thứ 1 : Tổ chức theo chức năng.
Nếu một công ty đợc tổ chức theo chức năng, thì các phòng, ban chính của
công ty sẽ đợc tổ chức theo công việc mà bộ phận đó tiến hành thực hiện. Tên
phòng, ban nhìn chung đợc sử dụng để miêu tả một loạt công việc rõ rệt, một bớc
thiết yếu của một quả trình hoặc một khía cạnh nào đó của công việc quản lý, điều
hành với một trình độ kỹ thuật đặc biệt mà nó đòi hỏi. Các chức năng chính của
công ty bảo hiểm nhân thọ là marketing, thẩm định và phân loại rủi ro, dịch vụ
khách hàng, giải quyết khiếu nại, đầu t, kế toán, hệ thống thông tin, luật và nhân
lực.
sơ đồ tổ chức theo chức năng.
Cách thứ 2 : Tổ chức theo sản phẩm.
Nếu một công ty đợc tổ chức theo sản phẩm, thì công việc của nó đợc tổ chức
theo loại hình bảo hiểm của công ty. Mỗi loại hình bảo hiểm đợc quản lý bởi một
phòng của công ty. Kết quả là phòng bảo hiểm nhân thọ chịu trách nhiệm
marketing, khai thác và các hoạt động dịch vụ của mình. Tuy nhiên, chức năng đầu
t và các chức năng khác do bộ phận quản lý trung tâm đảm nhiệm. Tổ chức theo
sản phẩm có xu hớng dẫn tới việc phân cấp mạnh mẽ hơn, và các nhân viên đợc
phép ra nhiều quyết định hơn, nhng nhân viên này chính là những ngời có quan hệ
trực tiếp và sâu sắc đối với một loại sản phẩm đặc biệt nào đó.

19
Giám đốc điều hành
Ban kế toán Hệ thống thông tin
Phòng cán bộ Phòng chuyên giá
bảo hiểm

Marketing
tiếp thị
Thẩm
định và
đánh giá
rủi ro
Định giá
bảo hiểm
Actuarial
Đầu t
Dịch
vụ
khách
hàng
Giải
quyết
khiếu
nại
sơ đồ tổ chức theo sản phẩm
Cách thứ 3: Tổ chức theo lãnh thổ.
Nếu một công ty đợc tổ chức theo lãnh thổ, thì các bộ phận chủ yếu của nó đ-
ợc xác định theo khu vực địa lý, mà tại đó nó hoạt động. Một công ty kinh doanh
tại Việt Nam, có thể có các bộ phận Bắc, bộ phân Nam, tức là hoạt động của nó là
trong phạm vi các tỉnh của đất nớc. Trong mỗi bộ phận hoạt động theo lãnh thổ, thì
hoạt động của nó có thể chia nhỏ theo loại sản phẩm hoặc chức năng.
Giám đốc điều hành của mỗi văn phòng khu vực sẽ báo cáo lên Tổng Giám
đốc của công ty. Hoạt động của văn phòng khu vực bao gồm khai thác phát hành
đơn bảo hiểm, thu phí bảo hiểm, giải quyết khiếu nại, dịch vụ cho khách hàng,
giám sát và hỗ trợ cho các hoạt động marketing của vùng.


sơ đồ tổ chức theo lãnh thổ.
20
Giám đốc điều hành
Ban kế toán Hệ thống thông tin
Phòng nhân lực Phòng chuyên môn
định giá bảo hiểm
Bảo hiểm
theo nhóm
Đầu t Bảo hiểm
cá nhân
Marketing
tiếp thị
Dịch vụ
khách
hàng
Thẩm
định và
đánh giá
rủi ro
Định giá
bảo hiểm
Giải
quyết
khiếu nại
Marketing Dịch vụ
khách
hàng
Khai
thác
Định giá

bảo hiểm
Giải
quyết
khiếu nại
Giám đốc điều hành
1.4.2. Quản trị và điều hành Doanh nghiệp bảo hiểm.
Công việc điều hành doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia thành hai mảng lớn
đối nội và đối ngoại:
Điều hành đối nội: là điều hành các hoạt động nội bộ doanh nghiệp bao gồm:
Tổ chức cơ cấu bộ máy, quản trị các bộ mặt hoạt động nhân sự, quản lý tài sản,
quản lý vốn và chi phí. Điều hành nội bộ tốt thì mới điều hành đối ngoại tốt, tề
gia rồi mới trị quốc đợc.
Điều hành đối ngoại: Là điều hành các hoạt động thu hút khách hàng, đền bù
tổn thất, tiến hành kinh doanh, phụ từ vốn nhàn rỗi, quan hệ với các đối tác và các
cấp chính quyền. Các hoạt động đối ngoại là nguồn của doanh thu và lợi nhuận, cần
đợc điều hành với chất lợng cao và cũng là kết quả của các hoạt động điều hành đối
nội.
1.5. Hoạt động chủ yếu của Doanh nghiệp bảo hiểm.
21
Các văn phòng khu
vực
Trụ sở chính của
Tập đoàn
Phòng kế
toán
Hệ thống
thông tin
Luật
Phòng
nhân lực

Đầu t
Định giá
bảo hiểm
Ban
kế toán
Hệ thống
thông tin
Định giá
bảo hiểm
Phòng
nhân lực
Bảo hiểm
cá nhân
Bảo hiểm
theo nhóm
Marketing Dịch vụ
khách
hàng
Định giá
bảo hiểm
Giải quyết
khiếu nại
Marketing
tiếp thị
Dịch vụ
khách
hàng
Định giá
bảo hiểm
Giải quyết

khiếu nại
Thẩm định
và định
giá rủi ro
Thẩm dịnh
và định giá
rủi ro
Hoạt động bảo hiểm đã có từ rất lâu. Đến nay cùng với sự phát triển kinh tế-
xã hội, các rủi ro đã có nhiều thay đổi về nguyên nhân, chủng loại, mức độ và vì
vậy hoạt động bảo hiểm, một hoạt động kinh doanh rủi ro cũng thay đổi cho phù
hợp. Cùng với mức độ tổn thất của rủi ro ngày càng lớn, xuất hiện những rủi ro mới
mà ngời tham gia bảo hiểm có những nhu cầu đợc bảo hiểm khác trớc. Vì vậy, hoạt
động bảo hiểm một hoạt động dịch vụ phải đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú của
khách hàng với các dịch vụ khác nhau. Cho nên hoạt động chủ yếu của doanh
nghiệp bảo hiểm là kinh doanh các loại hình bảo hiểm. Các loại hình bảo hiểm mà
doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh là:
1.5.1. Các hình thức hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm.
a. Bảo hiểm con ng ời.
Con ngời là thành phần cơ bản của đời sống xã hội. Chính vì vậy, con ngời là
đối tợng của nhiều loại bảo hiểm và bảo đảm xã hội.
Bảo hiểm con ngời là một loại bảo hiểm trong các chế độ kinh doanh bảo
hiểm, có đối tợng bảo hiểm là sinh mạng, sức khẻo, khả năng hoạt động của con
ngời, thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện.
Bảo hiểm con ngời đợc phân làm hai loại là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm
phi nhân thọ:
Bảo hiểm nhân thọ gồm có:
- Bảo hiểm trọn đời;
- Bảo hiểm sinh kỳ
- Bảo hiểm tử kỳ;
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ;

- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp.;
Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm có:
- Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con ngời;
- Bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm thiệt hại;
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đờng bộ, đờng biển, đờng sông, đờng sắt
và đờng không;
- Bảo hiểm hàng không;
- Bảo hiểm xe cơ giới;
- Bảo hiểm cháy nổ;
- Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu;
- Bảo hiểm trách nhiệm chung;
- Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;
- Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh;
- Bảo hiểm nông nghiệp;
- Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do Chính phủ quy định.
22
b. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Trong quá trình sinh sống, hoạt động của các cá nhân, các tổ chức ngoài sự
xâm hại của rủi ro thiên tai còn có thể bị sự xâm hại từ phía các tổ tổ chức và cá
nhân khác bởi hành vi trái pháp luật hay sự cố gây thiệt hại.
Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nớc ta đều ghi nhận vốn và tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức đợc nhà nớc bảo hộ. Do đó, các
tổ chức và cá nhân gây thiệt hại cho ngời khác có trách nhiệm phải bồi thờng thiệt
hại trách nhiệm dân sự.
Khi ngời gây thiệt hại cho ngời khác thực hiện trách nhiệm bồi thờng thì có
thể ảnh hởng đến đời sống hoặc hoạt động bình thờng hoặc việc bồi thờng vợt quá
khả năng tài chính của họ. Bởi vậy, xã hội cần có biện pháp xử lý rủi ro cho ngời có
trách nhiệm dân sự khi họ thực hiên hành vi bôì thờng cho ngời bị thiệt hại. Đây
chính là cơ sở của sự tồn tại chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Pháp luật Việt Nam quy định: Trách nhiệm dân sự là đối tợng của bảo hiểm

gồm hai loại: Trách nhiệm dân sự đối với ngời thứ ba và trách nhiệm dân sự trong
hợp đồng phát sinh do rủi ro khách quan.
Các chế độ bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự hàng không.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu thuyền.
- Bảo hiểm trách nhiệm quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có
kỳ hạn.
Phạm vi bảo hiểm:
- Khi quỹ tín dụng bị phá sản.
- Khi quỹ tín dụng bị giải thể.
- Khi quỹ tín dụng phải chấp hành lệnh thanh lý vì một lý do khác với việc
bị phá sản hay mất khả năng thanh toán.
- Khi quỹ tín dụng bị giải thể tự nguyện do quỹ đang đặt trong tình trạng có
nguy cơ dẫn đến phá sản.
- Khi quỹ tín dụng không thực hiện việc thanh toán cho những ngời gửi tiền
vì lệnh của toà án.
c. Bảo hiểm tài sản.
Bảo hiểm tài sản là loại bảo hiểm có đối tợng là tài sản. Tuy vậy, không phải
tất cả các loại tài sản đều có thể là đối tợng đợc bên bảo hiểm nhận bảo hiểm. Bởi
vì, trong đời sống xã hội, trong nền kinh tế có nhiều loại tài sản. Đó có thể là tài
sản hữu hình hoặc tài sản vô hình.
Tài sản hữu hình: Là tài sản có hình thái vật chất cụ thể, có thể xác định đợc
giá trị theo các hình thức thông thờng.
23
Tài sản vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể đợc biểu
hiện dới hình thức nh bản quyền, nhãn hiệu hàng hoá, các quyền lợi tài chính
Các hình thức bảo hiểm chủ yếu đối với tài sản:
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam .
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đờng biển.

- Bảo hiểm thân máy bay.
- Bảo hiểm tàu, thuyền.
- Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới.
- Bảo hiểm công trình xây dựng.
- Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt.
- Bảo hiểm trộm cớp.
- Bảo hiểm vật nuôi.
1.5.2. Các nguyên tắc kinh doanh của Doanh nghiệp bảo hiểm.
Loại doanh nghiệp thông thờng cần phải có nhiều vốn tự có để kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm ngoài phải có đủ số vốn theo luật định ra, chủ yếu
phải huy động vốn từ những ngời tham gia bảo hiểm( tức là thu phí bảo hiểm) để
hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Số vốn huy động đợc của những ngời tham gia bảo
hiểm phải đợc sử dụng để phục vụ cho ngời tham gia bảo hiểm. Đồng thời, xét về
mặt kỹ thuật kinh doanh thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng khác với các doanh
nghiệp thông thờng khác. Các doanh nghiệp thông thờng đều hạch toán giá thành
sản phẩm dựa theo các khoản chi phí thực tế, căn cứ vào đó để xác định giá cả của
sản phẩm. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, phí bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm
có thể ví nh giá cả của nghiệp vụ bảo hiểm và việc tính giá cả này phát sinh trớc
khi có giá thành. Điều đó nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải dự báo trớc giá
cả này trên cơ sở vận dụng quy luật số đông và dựa vào kinh nghiệm về những vụ
tổn thất xảy ra trớc đây. Tỉ lệ tổn thất trớc đây chắc chắn sẽ xảy ra sau này, thậm
chí có mức độ sai lệch rất lớn. Vì vậy, chỉ có thể xác định đợc khoản thu nhập của
doanh nghiệp bảo hiểm nhng lại có rất nhiều khả năng không xác định đợc trách
nhiệm bồi thờng sẽ xảy ra sau này vì sự thay đổi về các yếu tố rủi ro. Do đó trong
quá trình kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm phải căn cứ vào những đặc điểm đó
để xác định nguyên tắc kinh doanh, nhằm đảm bảo quyền lợi cho ngời tham gia
bảo hiểm. Có thể liệt kê những nguyên tắc chủ yếu sau:
a. Nguyên tắc tích cực triển khai nghiệp vụ, bảo đảm số l ợng rất nhiều ng ời
tham gia một nghiệp vụ bảo hiểm nhất định.
Chỉ có kí đợc nhiều hợp đồng bảo hiểm mới thực hiện đợc quy luật số đông,

sao cho tỷ lệ phát sinh rủi ro dự báo gần sát với tỷ lệ phát sinh rủi ro thực tế xảy ra,
nhằm đảm bảo cho sự ổn định kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, số lợng hợp đồng
bảo hiểm ký đợc càng nhiều thì những chi phí bất biến của doanh nghiệp bảo hiểm
24
cũng giảm đi một cách tơng xứng, tỷ lệ phí bảo hiểm có thể hạ xuống một cách t-
ơng xứng, từ đó có thể thu đợc số đơn vị và ngời tham gia bảo hiểm càng nhiều
hơn.
b. Nguyên tăc chú ý lựa chọn rủi ro.
Sự kiện đáng đợc doanh nghiệp bảo hiểm đảm nhận đóng góp đó là trách
nhiệm bồi thờng tổn thất của tai nạn rủi ro. Đối với những rủi ro muốn tham gia
bảo hiểm, đâu phải doanh nghiệp bảo hiểm từ chối rủi ro nào và sẽ chấp nhận bảo
hiểm tất cả những rủi ro đó, mà phải có sự lựa chọn thật nghiêm chỉnh.
Về nguyên tắc, tai nạn rủi ro đợc chấp nhận bảo hiểm phải là sự kiện ngẫu
nhiên. Nếu những rủi ro đã đợc chấp nhận bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản đều là
những rủi ro tất nhiện phải xảy ra, thì doanh nghiệp bảo hiểm chắc chắn bị phá sản.
Về phía ngời tham gia bảo hiểm, thông thờng đều mong muốn rằng chỉ bỏ ra khoản
phí bảo hiểm thấp nhất, để đánh đổi lấy khoản tiền bồi thờng bảo hiểm nhiều nhất,
nên cũng phải lựa chọn ngợc chiều với phía doanh nghiệp bảo hiểm.
c. Nguyên tắc phân tái rủi ro.
Muốn giảm nhẹ bớt trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cần phải
tìm cách chia sẻ các rủi ro mà mình đã nhận cho các nhà bảo hiểm khác, tránh tập
trung rủi ro quá mức. Nếu không sẽ làm cho khả năng đảm nhận của mình bị vợt
quá, dẫn đến tình trạng không thể nào thức hiện đợc trách nhiệm bồi thờng, gây
thiệt hại cho ngời tham gia bảo hiểm. Vì vậy, Nhà nớc đã hạn chế trách nhiệm tự
gánh vác (tức là mức giữ lại) của từng doanh nghiệp bảo hiểm. Điều 6 Nghị định
100/CP quy định Doanh nghiệp bảo hiểm có thể tái bảo hiểm cho các Doanh
nghiệp khác .
d. Nguyên tắc tính phí bảo hiểm một cách hợp lý.
Việc tính và thu phí bảo hiểm có hợp lý hay không, có khoa học hay không đó
là một vấn đề rất quan trọng trong kinh doanh bảo hiểm . Để cho phí bảo hiểm thu

đợc từ ngời tham gia bảo hiểm đảm bảo cho sự chi trả tơng xứng với quyền lợi kinh
tế của họ, cần phải thống kê và tính toán một cách khoa học tỷ lệ tổn thất vì thiệt
hại đã xảy ra trớc đây, đồng thời xây dựng tỷ lệ phí bảo hiểm trên cơ sở đó Cơ quan
quản lý bảo hiểm nhà nớc phải xét duyệt các điều khoản bảo hiểm cơ bản và tỷ lệ
phí bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm, nhằm bảo vệ quyền lợi của ngời
tham gia bảo hiểm, đảm bảo sự đóng góp hợp lý về phí bảo hiểm.
1.5.3. Quản lý vốn.
a.Doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo khả năng thanh toán, khả năng bồi th -
ờng cần thiết.
Điều 10 Nghị định 100/CP quy định Trong quá trình hoạt động doanh
nghiệp bảo hiểm phải luôn đảm bảo;
25

×