Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Khóa luận tốt nghiệp luật kinh doanh bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 61 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Phương Nhung

TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khố học: QH-2013-L

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Nguyễn Phương Nhung

TÊN ĐỀ TÀI: BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khố học: QH-2013-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS. Vũ Công Giao

Hà Nội, 2017
1




PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ số hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ
đặc biệt là quyền tác giả và quyền liên quan ngày càng nhận được nhiều sự quan
tâm. Tại Việt Nam, sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009
đã đánh dấu sự phát triển, tiến bộ của hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là
trong vấn đề bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan.
Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác
giả và quyền liên quan ngày càng có giá trị cao, đặc biệt khi chủ sở hữu quyền có
nhận thức được về giá trị quyền. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế bảo hộ khả thi
và hiệu quả, đảm bảo quyền và các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu quyền tác giả,
quyền liên quan đã trở thành một vấn đề cấp thiết. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng
pháp luật sở hữu trí tuệ tại Việt Nam vẫn còn là một thách thức lớn dù Nhà nước
đã có nhiều nỗ lực cải cách chính sách và pháp luật. Hiện tượng vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ, đặc biệt là vi phạm quyền tác giả và quyền liên quan vẫn còn diễn ra
phổ biến, tràn lan.
Từ đó, việc nghiên cứu, phát hiện những tồn tại để đề ra giải pháp khắc phục các
bất cập của pháp luật trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan sẽ góp phần
cải thiện thực tiễn áp dụng và hoàn thiện pháp luật, đảm bảo cơ chế và nâng cao
năng lực giải quyết tranh chấp của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực bảo hộ
quyền tác giả, quyền liên quan. Xuất phát từ tình hình đó, tác giả xin lựa chọn đề
tài: “Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, phân tích các vấn đề pháp lý về quyền tác
giả và một số bài báo, luận văn nghiên cứu các khía cạnh của quyền liên quan.
Tuy nhiên đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp, các phân tích cụ thể về các vấn
5



đề cịn tồn tại hiện nay và giải pháp hồn thiện chính sách, quy định pháp luật vẫn
là một vấn đề cần thêm nhiều đóng góp để cải thiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Phân tích các quy định pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, để từ đó đánh giá
hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn. Các tranh chấp thực tế
cũng được phân tích nhằm làm nổi bật các vấn đề thực tế gặp phải trong q trình
thực thi pháp luật và từ đó đề ra các biện pháp cải thiện cụ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bởi giới hạn về thời gian và dung lượng của khoá luận tốt nghiệp, tác giả tập trung
nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam cùng các điều ước
quốc tế để từ đó tìm ra những mâu thuẫn và các hạn chế trong việc bảo hộ quyền
tác giả, quyền liên quan. Phạm vi nghiên cứu đề tài gồm những nội dung như sau:
- Nghiên cứu sâu các quy định pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ.
- So sánh quy định pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ
mà Việt Nam là thành viên.
- Phân tích những vụ việc cụ thể để làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng pháp luật, nhận
biết các tồn tại và đề ra phương hướng giải quyết.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau
như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, khái qt hố, … Luận văn sử dụng
thêm phương pháp nghiên cứu tình huống thực tế tiêu biểu liên quan tới tranh chấp
quyền tác giả, quyền liên quan với mong muốn có thể rút ra kinh nghiệm cho chủ
sở hữu quyền trong việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp đối với sản phẩm trí tuệ
của mình.
6


6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài

Luận văn bao gồm một số kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác
giả và quyền liên quan, với mong muốn góp phần hồn thiện chính sách và quy
định pháp luật Việt Nam, cũng như hỗ trợ chủ sở hữu quyền trong việc bảo vệ
quyền lợi của mình. Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu về pháp luật, giúp ích cho chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan
và đóng góp nhỏ trong việc hồn thiện pháp luật Việt Nam.
7. Cấu trúc của khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan
theo pháp luật Việt Nam
Chương 2: Bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan theo pháp luật Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả và quyền liên
quan ở Việt Nam hiện nay

7


Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền tác giả và quyền liên quan
theo pháp luật Việt Nam
1.1. Lý luận chung về quyền tác giả và quyền liên quan
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan
• Khái niệm quyền tác giả trên thế giới
Khái niệm quyền tác giả đã nhen nhóm được hình thành từ khi phát minh in ra đời,
khi con người nhận thấy sự bất cơng khi tác phẩm của mình sáng tạo bị sao chép,
in lại và chào bán với giá rẻ hơn. Nhằm bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo ra tác
phẩm, luật về quyền tác giả đã dần được hình thành. Văn bản pháp luật đầu tiên
trên thế giới về quyền tác giả là Đạo luật Anne, được ban hành tại Anh vào năm
1710. Đạo luật này lần đầu tiên giới thiệu quyền của tác giả cho tác phẩm của riêng

mình và đề ra những điều khoản để bảo vệ quyền đó. Cũng theo đạo luật này, lần
đầu tiên quyền của tác giả đối với tác phẩm được coi trọng và bảo vệ hơn quyền
của những nhà xuất bản, cho phép tác giả kiểm soát được việc tái sản xuất tác
phẩm của họ sau khi xuất bản. Quyền tác giả trong Liên minh châu Âu được thống
nhất trong Chỉ thị phần mềm ra đời vào năm 1991, theo đó thì các chương trình
máy tính được bảo vệ như là các tác phẩm văn học theo ý nghĩa về quyền tác giả.
Cịn theo cơng ước Berne, quyền tác giả là tự động, không cần phải đăng ký tác
quyền, không cần phải viết trong thông báo tác quyền.
Định nghĩa về quyền tác giả của WIPO – Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới có thể
được coi là định nghĩa chung và chuẩn xác nhất: “Quyền tác giả là phần cốt lõi
của pháp luật nhằm trao cho tác giả, nghệ sỹ và các nhà sáng tạo khác sự bảo hộ
cho những sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ - gọi chung là tác phẩm. Các tác
phẩm đủ điều kiện bảo hộ quyền tác giả là các sáng tạo trí tuệ gốc. Chúng được
bảo hộ bất kể chất lượng của chúng và bao gồm các hướng dẫn kỹ thuật hoặc các
hình vẽ kỹ thuật đơn thuần. Nhìn chung, pháp luật về quyền tác giả không liệt kê
8


danh mục đầy đủ các loại tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, nhưng trên thực
tiễn pháp luật của tất cả quốc gia đều quy định sự bảo hộ cho các đối tượng: Tác
phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc, Tác phẩm nghệ thuật, Bản đồ và các bản vẽ kỹ
thuật, Các tác phẩm nhiếp ảnh, Tác phẩm điện ảnh, Chương trình máy tính, Các
sản phẩm đa phương tiện”.
Hiệp định TRIPS khẳng định phạm vi bảo hộ quyền tác giả bao gồm sự thể hiện
và không bao gồm các ý tưởng, trình tự, phương pháp tính hoặc các khái niệm
tốn học [5, Điều 9.2]. Các chương trình máy tính, dù dưới dạng mã nguồn hay
mã máy, đều phải được bảo hộ quyền tác giả như những tác phẩm văn học [5, Điều
10.1]. Các cơ sở dữ liệu, bộ sư tập dữ liệu hoặc tư liệu khác đều phải được bảo hộ
quyền tác giả thậm chí cơ sở dữ liệu chứa đựng dữ liệu không được bảo hộ quyền
tác giả [5, Điều 10.2]. Ít nhất là đối với chương trình máy tính và tác phẩm điện

ảnh, các nước thành viên phải dành cho tác giả và người thừa kế hợp pháp của họ
quyền cho phép hoặc cấm việc cho công chúng thuê bản gốc hoặc bản sao các tác
phẩm của họ nhằm mục đích thương mại [5, Điều 11].
Điều 4 Chương II Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định như sau:
“Mọi loại chương trình máy tính đều được coi là các tác phẩm viết theo nghĩa quy
định tại Công ước Berne và bảo hộ các đối tượng này như tác phẩm viết. Mọi sưu
tập dữ liệu hoặc sưu tập tư liệu khác, bất kể dưới dạng có thể đọc được bằng máy
hoặc dưới dạng khác, mà việc lựa chọn và sắp xếp nội dung là sự sáng tạo trí tuệ,
đều được bảo hộ như tác phẩm”.
Từ các định nghĩa trên ta có thể rút ra “quyền tác giả” là quyền được pháp luật, xã
hội, quần chúng, … công nhận cho cá nhân, tập thể, tổ chức đối với một tác phẩm
văn học, khoa học, phần mềm, … do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Các tác phẩm
đó phải là sản phẩm trí óc của tác giả mà không đơn thuần là sự sao chép từ nguồn
đã biết.
• Định nghĩa quyền tác giả tại Việt Nam
9


Khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định: “Quyền
tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc
sở hữu.”
Như vậy, Việt Nam cũng thống nhất quan điểm với các nước trên thế giới về quyền
tác giả là quyền của cá nhân, tổ chức được xã hội, pháp luật công nhận cho các tác
phẩm do chính mình sáng tạo ra và sở hữu, dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần
có tính chất văn hố khơng bị vi phạm bản quyền, bảo vệ các quyền lợi cá nhân
và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm.
• Khái niệm quyền liên quan trên thế giới
Ngày nay, lĩnh vực mới về các quyền liên quan đến quyền tác giả đã phát triển rất
nhanh chóng. Những quyền được gọi là “Quyền liên quan” ngày càng gia tăng
xung quanh các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả và tạo ra các quyền tương tự.

Theo WIPO, quyền này dành cho Nghệ sỹ biểu diễn trong hoạt động ghi âm của
họ, Nhà sản xuất bản ghi âm trong hoạt động ghi âm của họ, Tổ chức phát sóng
trong các chương trình phát thanh và truyền hình của họ. “Quyền liên quan” khác
với “quyền tác giả” vì chúng thuộc sở hữu của những người được coi là trung gian
trong quá trình sản xuất, ghi âm và phổ biến tác phẩm. Sự liên quan đến quyền tác
giả được thể hiện ở ba loại quyền liên quan là sự tương hỗ trong quá trình sáng tạo
và phổ biến trí tuệ vì chúng hỗ trợ các tác giả sáng tạo trong quá trình quyền tải
tác phẩm đến với công chúng. Một nhạc công thể hiện một tác phảm âm nhạc do
một nhạc sỹ sáng tác; một diễn viên vào vai trong vở kịch được sáng tác bởi một
nhà viết kịch, một nhà sản xuất bản ghi âm – hay thường được gọi là “ngành công
nghiệp ghi âm” – ghi âm hoặc sản xuất bài hát và bản nhạc do nhà thơ và nhạc sỹ
sáng tác, được nhạc công hoặc ca sỹ thể hiện; tổ chức phát sóng phát sóng các tác
phẩm và bản ghi âm trên các đài phát thanh và/hoặc truyền hình của họ.
Theo hiệp định TRIPS, người biểu diễn có quyền ngăn cấm ghi thu, lưu định cuộc
biểu diễn bằng phương tiện ghi âm. Quyền ghi thu, lưu định của người biểu diễn
10


chỉ liên quan đến âm thanh chứ không liên quan đến cả âm thanh và hình ảnh.
Người biểu diễn cịn có quyền ngăn cấm tái tạo, nhân bản bản ghi âm. Người biểu
diễn cũng có quyền ngăn cấm phát qua phương tiện vô tuyến và truyền cho công
chúng buổi biểu diễn trực tiếp của họ [5, Điều 14.1]. Hiệp định TRIPS yêu cầu các
nước thành viên WTO cho phép nhà sản xuất bản ghi âm độc quyền sao chép các
bản ghi âm của họ [5, Điều 14.2]. Thêm vào đó, theo Điều 14.4, nhà sản xuất bản
ghi âm cịn có độc quyền cho thuê bản ghi âm. Các tổ chức phát thanh, truyền hình
phải có quyền ngăn cấm các hành vi sau đây nếu thực hiện mà không được họ cho
phép: ghi, sao chép bản ghi, phát lại qua phương tiện vơ tuyến chương trình, cũng
như truyền hình cho cơng chúng các chương trình [5, Điều 14.3].
• Định nghĩa quyền liên quan tại Việt Nam
Khái niệm quyền liên quan đến quyền tác giả được pháp luật Việt Nam đề cập đến

một cách gián tiếp bằng phương pháp liệt kê. Cụ thể, khái niệm này được đưa ra
tại Khoản 3 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) như sau:
“Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của
tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và
quyền liên quan cũng đã giải thích theo hướng liệt kê tương tự tại Khoản 2 Điều
3 về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, theo đó, quyền liên quan được hiểu là
“các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn; các quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình; các quyền của tổ chức phát sóng đối với chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được quy định tại Điều
745, 746, 747 và Điều 748 của Bộ luật Dân sự và Điều 29, 30 và 31 của Luật Sở
hữu trí tuệ ”.

11


Như vậy, so với những quyền liên quan được bảo hộ ở cấp độ toàn cầu theo các
điều ước quốc tế như Công ước Rome hay Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và
bản ghi âm năm 1996 (WPPT), khái niệm quyền liên quan được quy định trong
pháp luật Việt Nam có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả quyền của nhà sản xuất bản
ghi hình và quyền của tổ chức phát sóng đối với tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa. Điều này khơng trực tiếp phản ánh năng lực bảo hộ của pháp
luật sở hữu trí tuệ quốc gia trong mối tương quan với điều ước quốc tế mà là vấn
đề quan điểm lập pháp cũng như đặc điểm của hệ thống pháp luật mỗi nước.
1.1.2. Các điều kiện bảo hộ đối với quyền tác giả và quyền liên quan
• Điều kiện bảo hộ quyền tác giả
Điều 13, 14, 15 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định
về điều kiện bảo hộ quyền tác giả cụ thể như sau:

“Điều 13. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả
1. Tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả gồm người trực tiếp
sáng tạo ra tác phẩm và chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều
37 đến Điều 42 của Luật này.
2. Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả quy định tại khoản 1 Điều này gồm tổ chức,
cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngồi có tác phẩm được cơng bố lần
đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công
bố đồng thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó
được cơng bố lần đầu tiên ở nước khác; tổ chức, cá nhân nước ngoài có tác phẩm
được bảo hộ tại Việt Nam theo điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả
1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
12


a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được
thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau
đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, cơng trình
khoa học;

l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu
không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác
phẩm phái sinh.
3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác
giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà khơng sao chép từ tác
phẩm của người khác.
4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1
Điều này.
Điều 15. Các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
1. Tin tức thời sự thuần túy đưa tin.
2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực
tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
13


3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.”
Đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian
và khoa học. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác phẩm là sản phẩm sáng
tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương
tiện hay hình thức nào.
Như vậy, sản phẩm lao động trí tuệ của con người trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật và khoa học được công nhận là tác phẩm khi thỏa mãn 2 điều kiện: (a) mang
tính sáng tạo; (b) được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định. Khi ý tưởng
sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học có chứa đựng yếu tố sáng
tạo và được thể hiện dưới hình thức vật chất được công nhận là tác phẩm và được
bảo hộ tự động chứ không bắt buộc phải thông qua thủ tục đăng ký như các đối
tượng sở hữu công nghiệp. Do đó đây cũng chính là hai điều kiện để tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả.

• Điều kiện bảo hộ quyền liên quan
Điều 16, 17 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 quy định rõ điều kiện
bảo hộ quyền liên quan như sau:
“Điều 16. Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan
1. Diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm
văn học, nghệ thuật (sau đây gọi chung là người biểu diễn).
2. Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn quy định tại khoản 1 Điều 44
của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc
các âm thanh, hình ảnh khác (sau đây gọi là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình).
4. Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (sau đây gọi là tổ chức phát
sóng).
Điều 17. Các đối tượng quyền liên quan được bảo hộ
1. Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
14


a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài;
b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy
định tại Điều 30 của Luật này;
d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát sóng
được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;
đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt
Nam;
b) Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

3. Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được
bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của
tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam;
b) Chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa của
tổ chức phát sóng được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa chỉ được bảo hộ theo quy định tại các khoản 1,
2 và 3 Điều này với điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.”
Từ điều 16 cũng như các quy định cụ thể khác về quyền liên quan, có thể thấy
pháp luật Việt Nam phân biệt chủ thể quyền liên quan thành ba loại cơ bản:
- Người biểu diễn: So với những chủ thể quyền liên quan khác, có thể nói người
biểu diễn là nhóm chủ thể được ghi nhận và bảo vệ quyền liên quan sớm nhất, và
15


dường như cũng là nhóm chủ thể được quan tâm chú ý nhiều nhất. Trước đây,
pháp luật Việt Nam định nghĩa trực tiếp người biểu diễn. Cụ thể, Điều 773 Bộ luật
dân sự 1995 quy định: “Người biểu diễn bao gồm các cá nhân, tổ chức biểu diễn,
người dàn dựng, đạo diễn chương trình ca, múa nhạc, chương trình phát thanh truyền hình, đạo diễn, diễn viên sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật
khác”. Tuy nhiên, hiện nay, Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2009) khơng
có quy định nào nêu ra khái niệm người biểu diễn với tư cách chủ thể quyền liên
quan, cũng không chỉ rõ người đạo diễn, dàn dựng chương trình cũng được coi là
người biểu diễn. Dựa trên Khoản 1 Điều 16 nói trên, có thể hiểu người biểu diễn
theo pháp luật Việt Nam hiện hành là những người “trình bày tác phẩm văn học
nghệ thuật”, bao gồm diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công... Như vậy, người biểu
diễn được hiểu là những người sử dụng tác phẩm của người khác một cách sáng
tạo trong sự thể hiện các tác phẩm văn học nghệ thuật, truyền đạt tác phẩm tới
công chúng. Cách quy định này tỏ ra phù hợp với Công ước Rome và các điều ước

quốc tế khác về quyền liên quan.
- “Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình” được hiểu là “tổ chức, cá nhân định hình
lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác”.
Một điểm cần lưu ý là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình không đồng nhất với chủ
sở hữu đối với bản ghi âm, ghi hình đó. Theo Khoản 2 Điểu 44 Luật sở hữu trí tuệ,
“tổ chức, cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật
của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình là chủ sở hữu đối với bản ghi âm, ghi
hình đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với bên liên quan”. Như vậy, nếu tổ
chức, cá nhân là người “định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh cuộc biểu diễn hoặc
âm thanh, hình ảnh khác” nhưng cơng việc này của họ được tiến hành trên cơ sở
một hợp đồng với chủ thể khác, họ chỉ thực hiện việc định hình với các thao tác
mang tính chất kỹ thuật và được nhận thù lao từ việc định hình của mình theo hợp

16


đồng đó, thì khơng được coi là chủ sở hữu bản ghi âm, ghi hình đó - chủ sở hữu ở
đây chính là đối tác đã thuê và trả thù lao cho việc định hình nói trên.
- Tổ chức phát sóng: Quyền liên quan chỉ dành sự bảo hộ cho những chủ thể là tổ
chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng, bao gồm các tổ chức phát thanh, tổ
chức truyền hình, phát tín hiệu vệ tinh. Sự giới hạn này là kết quả của việc cân
nhắc đến tính “ngun gốc” của chương trình phát sóng. Bởi chỉ có tổ chức khởi
xướng và thực hiện việc phát sóng mới là chủ thể có quyền lợi cần được bảo hộ
trong việc chống lại việc phát sóng lại, tái tạo, nhân bản, và truyền đạt tới cơng
chúng những chương trình phát sóng tốn kém của họ. Việc phát sóng lại hay việc
ghi thu các chương trình vơ tuyến tại những nơi cơng cộng có thể đem lại rất nhiều
lợi nhuận, đặc biệt là khi chủ đề của chương trình phát sóng gốc là một sự kiện
nổi bật. Tuy nhiên, tổ chức phát sóng khơng ln ln là chủ sở hữu chương trình
phát sóng. Khoản 3 Điều 44 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức phát sóng là
chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận

khác với bên liên quan”, và Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định tại Điều 36:
“Chủ sở hữu chương trình phát sóng quy định tại khoản 3 Điều 44 của Luật sở
hữu trí tuệ là tổ chức phát sóng đầu tư tài chính và cơ sở vật chất – kỹ thuật của
mình để phát sóng”. Như vậy vẫn có thể tồn tại khả năng tổ chức phát sóng và chủ
sở hữu đối với chương trình phát sóng là hai chủ thể riêng biệt, nhưng trên thực tế
trường hợp này khơng nhiều.
Từ đó, ta có thể hiểu các điều kiện bảo hộ quyền liên quan như sau:
- Điều kiện bảo hộ đầu tiên: Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng được định hình hoặc thực hiện lần đầu (điều kiện về định hình hoặc thực
hiện). Định hình bản ghi âm, ghi hình là sự biểu hiện bằng âm thanh, hình ảnh
hoặc sự tái hiện âm thanh, hình ảnh dưới dạng vật chất nhất định để từ đó có thể
nhận biết, sao chép hoặc truyền đạt. Chương trình phát sóng phát sinh quyền khi
được thực hiện phát sóng lần đầu bởi chính tổ chức phát sóng có quyền phát sóng
17


chương trình phát sóng đó. Điều này thể hiện tính nguyên gốc của tác phẩm, được
xem xét trên hai phương diện chủ yếu sau.
Thứ nhất, tính nguyên gốc xác định trên cơ sở lao động sáng tạo mang dấu ấn cá
nhân của chủ thể. Việc quyền liên quan phát sinh trên cơ sở hành vi sử dụng tác
phẩm đã có từ trước khơng ảnh hưởng tới tính ngun gốc của các đối tượng mà
nó bảo hộ. Khơng khó để nhận ra rằng, sự trình diễn của người nghệ sĩ là kết quả
của những cống hiến nghệ thuật mang tính chất sáng tạo của họ. Cùng là một tác
phẩm, nhưng mỗi người biểu diễn sẽ thể hiện theo cách của riêng mình, thậm chí
cũng chính người nghệ sĩ ấy nhưng mỗi lần biểu diễn lại đem đến những cảm nhận
riêng cho khán giả. Chính sự sử dụng tác phẩm một cách sáng tạo và mang đậm
dấu ấn cá nhân của chủ thể quyền liên quan đòi hỏi việc sử dụng ấy cũng phải
được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, tính nguyên gốc được thể hiện ở việc quyền liên quan chỉ được xác định
theo các đối tượng của quyền liên quan được tạo ra lần đầu tiên. Việc xác định

tính nguyên gốc từ góc độ này thường được áp dụng đối với các bản ghi, chương
trình phát thanh truyền hình. Cụ thể, quyền liên quan đối với bản ghi âm, ghi hình
chỉ được xác định cho người tạo ra bản ghi âm, ghi hình lần đầu âm thanh, hình
ảnh của cuộc biểu diễn hoặc các âm thanh, hình ảnh khác; quyền liên quan đối với
tổ chức phát sóng chỉ được xác định cho tổ chức khởi xướng và thực hiện việc
phát sóng. Theo đó, trong trường hợp: một cơng ty ghi âm ký hợp đồng thu âm
phần biểu diễn của ca sĩ dưới dạng đĩa CD (compact disc), sau đó một cơng ty
khác sao chép lại đĩa CD đó và cũng đưa ra thị trường, thì ta sẽ có hai dạng bản
ghi âm cho cùng một phần trình diễn gốc, tuy nhiên, chỉ dạng bản ghi thứ nhất
được coi là có tính nguyên gốc (là sự định hình lần đầu) và là đối tượng bảo hộ
của quyền liên quan, dạng bản ghi thứ hai khơng đảm bảo tính ngun gốc và
khơng những khơng được bảo hộ mà cịn bị coi là hành vi xâm phạm quyền liên
quan và tuỳ theo tính chất, mức độ của sự xâm phạm mà sẽ bị xử lý theo quy định
18


pháp luật. Tương tự, một tổ chức phát sóng đã đầu tư tài chính và các điều kiện
cần thiết để làm một chương trình truyền hình, hoặc đã mua bản quyền phát sóng
trực tiếp một sự kiện văn hố nào đó... thì việc phát sóng các chương trình đó của
họ được xác định là thoả mãn điều kiện về tính nguyên gốc của đối tượng quyền
liên quan, và nếu tổ chức phát sóng nào khác tiến hành tiếp sóng, phát sóng đồng
thời, hoặc phát lại các chương trình này thì việc phát sóng của tổ chức thứ hai này
là khơng có tính ngun gốc và cũng như trường hợp trên, có thể bị xác định là
hành vi xâm phạm quyền liên quan theo pháp luật sở hữu trí tuệ.
Nếu như đặc trưng thứ nhất của quyền liên quan (tính chất sử dụng các tác phẩm
đã có) là điểm quan trọng phân biệt nó với các loại quyền sở hữu trí tuệ khác, thì
tính ngun gốc của quyền liên quan cho phép xác định đâu là quyền liên quan
được pháp luật bảo hộ, và khi nào xảy ra sự xâm phạm quyền liên quan. Khi tính
nguyên gốc được thoả mãn, ta có thể xác định được đối tượng được bảo hộ bởi
quyền liên quan, chủ thể của quyền liên quan, và ngược lại, việc khơng đảm bảo

tính ngun gốc đó là căn cứ để nhận định đã có hành vi xâm phạm đến quyền liên
quan.
- Điều kiện bảo hộ thứ hai: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được bảo hộ khi cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương
trình được mã hóa được thực hiện bởi cơng dân, tổ chức mang quốc tịch Việt Nam
[16, điểm a khoản 1,2,3 Điều 17].
- Điều kiện bảo hộ thứ ba: đối tượng của quyền liên quan được bảo hộ theo pháp
luật Việt Nam khi đối tượng đó được phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam (cuộc biểu
diễn). Cuộc biểu diễn được thực hiện tại Việt Nam sẽ được pháp luật Việt Nam
bảo hộ là đối tượng của quyền liên quan [16, điểm a, b khoản 1 Điều 17], cho dù
chủ thể thực hiện cuộc biểu diễn là công dân Việt Nam hay người nước ngoài.

19


- Điều kiện bảo hộ thứ tư: cuộc biểu diễn của chủ sở hữu, cuộc biểu diễn bản ghi
âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hố của tổ chức phát sóng cịn được bảo
hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
nếu cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hố đáp ứng được các qui định về điều kiện bảo hộ
của các điều ước quốc tế [16, điểm đ khoản 1; điểm b khoản 2,3 Điều 17]
1.1.3. Nội dung, giới hạn quyền đối với quyền tác giả và quyền liên quan
• Đối với quyền tác giả
Nội dung: Theo quy định tại Điều 19, 20 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, nội
dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
a. Quyền nhân thân
Quyền nhân thân là quyền của tác giả, mang lại giá trị tinh thần cho tác giả, được
bảo hộ vô thời hạn (trừ quyền công bố tác phẩm), không được chuyển giao hay để

lại thừa kế (trừ quyền công bố tác phẩm). Quyền nhân thân bao gồm:
– Quyền đặt tên cho tác phẩm: Tên tác phẩm có ý nghĩa cá biệt hóa tác phẩm, thể
hiện dấu ấn sáng tạo cá nhân của tác giả, nên quyền đặt tên cho tác phẩm chỉ thuộc
về tác giả của tác phẩm. Tác giả của tác phẩm dịch không có quyền đặt tên cho tác
phẩm dịch mà phải tơn trọng tên của tác phẩm gốc.
– Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm: tác giả đứng tên trên tác phẩm
bằng tên thật hoặc bút danh của tác giả.
– Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm: Công bố
tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để
đáp ứng nhu cầu hợp lý của cơng chúng. Cơng bố tác phẩm khơng bao gồm việc
trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một

20


tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm
tạo hình; xây dựng cơng trình từ tác phẩm kiến trúc.
– Quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người khác sửa chữa, cắt
xén tác phẩm hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả.
b. Quyền tài sản
Quyền tài sản thuộc quyền tác giả là những quyền của chủ sở hữu quyền tác giả,
mang lại giá trị vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả, được bảo hộ có thời hạn; là
đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền tác giả hoặc hợp đồng sử dụng
quyền tác giả. Quyền tài sản bao gồm:
– Quyền làm tác phẩm phái sinh: tác giả có quyền tạo ra sản phẩm phái sinh trên
cơ sở tác phẩm gốc nhưng với hình thức, cách thức trình bày mới so với tác phẩm
khác; như: dịch tác phẩm sang ngôn ngữ khác.
– Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng: tác giả độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện biểu diễn tác phẩm một cách trực tiếp hoặc thông

qua ghi âm, ghi hình hoặc bất kì phương tiện kỹ thuật nào mà cơng chúng có thể
tiếp cận được.
– Quyền sao chép: tác giả thực hiện hoặc cho người khác thực hiện việc tạo ra bản
sao tác phẩm.
– Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm: tác giả độc quyền thực hiện
hoặc cho phép người khác dùng bất kì cách thức nào để bán, cho thuê, chuyển
nhượng bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
– Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác: tác giả
thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm
đến công chúng bằng bất kỳ cách thức nào.

21


– Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Khơng áp dụng quyền cho th đối với chương trình máy tính, … khi bản thân
chương trình đó khơng phải là đối tượng chủ yếu để cho th như chương trình
máy tính gắn với việc vận hành bình thường các loại phương tiện giao thơng.
Giới hạn quyền tác giả:
Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009 xác định giới hạn quyền tác
giả bằng việc quy định các trường hợp như sau:
– Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải
trả tiền nhuận bút, thù lao, bao gồm:
+ Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá
nhân.
+ Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh
họa cho tác phẩm của mình.
+ Trích dẫn tác phẩm mà khơng làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm
định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.

+ Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả,
không nhằm mục đích thương mại.
+ Sao chép một bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu.
+ Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi
sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
+ Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
+ Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng
dụng được trưng bày tại nơi cơng cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
+ Chuyển tác phẩm sang chứ nổi hoặc ngơn ngữ khác cho người khiếm thị.
+ Nhập khẩu một bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
– Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao. Cụ thể như sau:
22


+ Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã cơng bố để phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất kì hình thức nào khơng phải xin phép nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận
bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh tốn do các bên thỏa
thuận (khơng áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh).
+ Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm theo quy định trên khơng được làm ảnh
hướng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại các quyền
của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc,
xuất xứ của tác phẩm.
Giới hạn quyền tác giả giúp cho cơng chúng có khả năng khai thác, sử dụng các
tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học vào mục đích phi thương mại dễ dàng
hơn.
• Đối với quyền liên quan
Nội dung: Điều 29, 30, 31 Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung quy định rõ nội dung
quyền liên quan như sau:

- Quyền của người biểu diễn bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền
nhân thân gồm:
+ Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình,
phát sóng cuộc biểu diễn [16, điểm a khoản 2 Điều 29]. Đây là quyền nhân thân
gắn bó chặt chẽ với người biểu diễn, danh tiếng của một diễn viên, ca sỹ, nhạc
công, vũ công và các nghệ sĩ khác chỉ được công chúng biết đến khi tên của họ
được giới thiệu thông qua các cuộc biểu diễn.
+ Bảo vệ sự tồn vẹn hình tượng biểu diễn, khơng cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và
uy tín của người biểu diễn [16, điểm b khoản 2 Điều 29]. Hình tượng người biểu
diễn có thể được hiểu là hình ảnh được tạo nên bởi nhiều yếu tố khác nhau như
phong cách biểu diễn, chất lượng, thái độ, cử chỉ, ....
23


Quyền tài sản gồm các quyền mà người biểu diễn được độc quyền thực hiện hoặc
cho phép người khác thực hiện, cụ thể:
+ Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình [16,
điểm a khoản 3 Điều 29]: Nghĩa là người biểu diễn được phép ghi âm, ghi hình
cuộc biểu diễn của mình một cách trực tiếp
+ Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định
hình trên bản ghi âm, ghi hình [16, điểm b khoản 3 Điều 29]: nghĩa là người biểu
diễn được phép sao chép, tạo ra bản sao ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn của mình.
+ Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến cơng chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà cơng chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp
cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng [16, điểm c khoản 3 Điều 29].
+ Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình
thơng qua hình thức bán, cho th hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được [16, điểm d khoản 3 Điều 29].
- Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình

Theo Điều 30 Luật SHTT nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có các quyền như sau:
a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác sao chép trực tiếp hoặc gián
tiếp bản ghi âm, ghi hình. b) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác phân
phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình thơng qua hình thức
bán, cho th hoặc phân phối bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào mà cơng chúng
có thể tiếp cận được. Và nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hưởng quyền lợi
vật chất khi bản ghi âm, ghi hình được phân phối đến cơng chúng.
- Quyền của tổ chức phát sóng: Điều 31 Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền của tổ
chức phát sóng gồm: a) Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện
phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình; b) Độc quyền phân phối
hoặc cho phép người khác phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của
mình; 14 c) Độc quyền định hình hoặc cho phép người khác định hình chương
24


trình phát sóng của mình; d) Độc quyền sao chép hoặc cho phép người khác sao
chép bản định hình chương trình phát sóng của mình.
Giới hạn quyền liên quan:
Điều 32 Luật SHTT quy định các trường hợp sử dụng quyền liên quan
không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm: a) Tự sao
chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân. b) Tự sao chép
một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng đã được cơng bố để giảng dạy. c) Trích dẫn hợp lý
nhằm mục đích cung cấp thông tin. Theo qui định tại khoản 1 điều 24 Nghị định
100/2006/NĐ-CP ngày 21/09/2006, trích dẫn hợp lý là việc sử dụng các trích đoạn
nhằm mục đích thuần tuý đưa tin, phải phù hợp với các điều kiện sau: Phần trích
dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề trong việc
cung cấp thông tin; Số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng khơng gây phương hại đến quyền
của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ

chức phát sóng đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng được sử dụng để trích dẫn. d)
Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền
phát sóng. Bản sao tạm thời là bản định hình có thời hạn, do tổ chức phát sóng
thực hiện bằng các phương tiện, thiết bị của mình, nhằm phục vụ cho buổi phát
sóng ngay sau đó của chính tổ chức phát sóng. Trong trường hợp đặc biệt thì bản
sao đó được lưu trữ trong trung tâm lưu trữ chính thức.
Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong các trường hợp sau đây
không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình,
tổ chức phát sóng: a) Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi
25


âm, ghi hình đã cơng bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào khơng phải xin phép, nhưng phải trả
tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng;
trường hợp khơng thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc
khởi kiện tại Tồ án theo quy định của pháp luật. Tổ chức, cá nhân sử dụng trực
tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã cơng bố nhằm mục đích thương mại để
phát sóng khơng có tài trợ, quảng cáo hoặc khơng thu tiền dưới bất kỳ hình thức
nào khơng phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ [16, khoản 1 Điều 35],
b) Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã cơng bố trong hoạt động kinh
doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
theo thoả thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ khi sử dụng; trường hợp khơng

thoả thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Toà
án theo quy định của pháp luật [16, khoản 2 Điều 35].
1.1.4. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan
• Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả như sau:
“1. Quyền nhân thân quy định tại các khoản 1, 2 và 4 Điều 19 của Luật này được
bảo hộ vô thời hạn.
2. Quyền nhân thân quy định tại khoản 3 Điều 19 và quyền tài sản quy định tại
Điều 20 của Luật này có thời hạn bảo hộ như sau:
a) Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có
thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu
26


tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố
trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn
bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm
khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính
theo quy định tại điểm b khoản này;
b) Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo
hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường
hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi
sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
c) Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời
điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.”
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản – theo điều 18 – Luật sở
hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung. Tuy nhiên, đối với từng loại quyền khác nhau thì thời
hạn bảo hộ là khác nhau kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu. Các quyền sẽ
được bảo hộ vơ thời hạn đó là:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm;

- Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút
danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng
- Quyền bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người khác sửa chữa, cắt xén
hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự
và uy tín của tác giả.
Các quyền được bảo hộ có thời hạn là:
- Quyền nhân thân: quyền cơng bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố
tác phẩm đây sẽ là quyền được bảo hộ trong thời hạn 50 năm. Đây cũng là điểm
khác so với các quyền nhân thân còn lại của quyền tác giả.

27


×