Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Nhận xét các quy định của Luật SHTT hiện hành liên quan đến vấn đề về quyền liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.53 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LIÊN QUAN
Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 100/2006/NĐ0CP giải thích về quyền liên
quan là: “Quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”.
Bởi bên cạnh việc xác định và bảo vệ các quyền tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả đối với mọt tác phẩm, pháp luật nước ta còn quy định việc bảo vệ các
quyền của những chủ thể khác có liên quan đến tác phẩm. Bởi một tác phẩm đến
được với công chúng có thể chính tác giả chủ sở hữu quyền tác giả là người trực
tiếp thực hiện công việc chuyển tài tác phẩm của mình đến với công chúng. Tuy
nhiên, để đến được tới đông đảo công chúng thì vai trò của người biểu diễn, các
tổ chức sản xuất băng, đĩa ghi âm, ghi hình, các tổ chức thực hiện chương trình
phát sóng là thực sự cần thiết. Các tổ chức, cá nhân này là phương thức chuyển
tải tác phẩm đến công chúng, do đó quyền của họ được pháp luật bảo hộ.
Chủ thể của quyền liên quan gồm người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình, tổ chức phát sóng. Nội dung của quyền liên quan là tổng hợp các
quyền nhân thân và quyền tài sản mà pháp luật đã xác định mà chủ thể quyền
liên quan được hưởng đối với kết quả lao động sáng tạo của họ. Trong đó:
Người biểu diễn là người sử dụng tác phẩm của người khác một cách sáng
tạo trong sự thể hiện các tác phẩm văn học nghệ thuật, bao gồm diễn viên, ca sĩ,
nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Trong đó, nếu người biểu diễn tự mình đầu tư tài chính và cơ sở kỹ thuật để thực
hiện cuộc biểu diễn thì họ là người biểu diễn đồng thời là chủ sở hữu quyền liên
quan đối với cuộc biểu diễn đó. Nếu do người khác đầu tư tài chính, cơ sở vật
chất kỹ thuật để thực hiện cuộc biểu diễn thì chủ sở hữu quyền liên quan là tổ
chức, cá nhân đầu tư. Tùy thuộc vào tư cách chủ thể của người biểu diễn đối với
cuộc biểu diễn mà người biểu diễn được hưởng quyền nhân thân hay cả quyền
nhân thân và quyền tài sản. Nếu được xác định là chủ sở hữu quyền liên quan thì
2
người biểu diễn có cả quyền nhân thân và quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn
của mình. Nếu chỉ là người biểu diễn mà không đồng thời là chủ sở hữu quyền


liên quan thì người biểu diễn chỉ có các quyền nhân thân. Trong đó:
* Quyền nhân thân bao gồm:
- Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi
hình, phát sóng cuộc biểu diễn;
- Bảo vệ sự tòan vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh
dự và uy tín của người biểu diễn.
* Quyền tài sản bao gồm:
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi
hình;
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình trên bản
ghi âm, ghi hình;
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu
diễn của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ
trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng;
- Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của
mình thôgn qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện
kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là người định hình lần đầu âm thanh,
hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc của các tác phẩm khác vì vậy học được hưởng
các quyền đối với kết quả lao động do họ tạo ra. Các quyền mà họ được hưởng
được Luật SHTT quy định tại Điều 30.
II. TÌNH HUỐNG
Ca sĩ X ký hợp đồng thu thanh với Công ty Bến Thành Audio- Video, theo
đó, Công ty có quyền sản xuất băng đĩa chọn lọc giọng hát của cô và ca sĩ X
3
được nhận thù lao theo thỏa thuận. Công ty Bến Thành sau đó cho phép Công ty
F- là chủ sở hữu website nghe nhạc trực tuyến nhacso.net được sử dụng các bản
ghi âm của họ (trong đó có đĩa ca nhạc chọn lọc giọng hát của cô X); đồng thời
ký hợp đồng cho phép một số nhà mạng viễn thông được sử dụng bản ghi âm

này để làm nhạc chuông, nhạc chờ điện thoại. Ca sĩ X yêu cầu Công ty F và các
công ty viễn thông phải trả thù lao cho cô do việc sử dụng bản ghi có giọng hát
của cô vào hoạt động kinh doanh, thương mại nhưng các công ty này cho rằng
họ đã trả tiền cho Công ty Bến Thành- là chủ sở hữu băng đĩa, vì vậy, không
phải trả tiền cho người biểu diễn nữa. Anh (chị) hãy phân tích vụ việc trên và
nêu quan điểm cá nhân về hướng giải quyết.
1. Phân tích vụ việc
Trong tình huống trên ta thấy, ca sĩ X là chỉ là người biểu diễn, còn chủ
đầu tư việc thu thanh, sản xuất băng đĩa chọn lọc giọng hát của ca sĩ X là Công
ty Bến Thành Audio vì thế Công ty Bến Thành Audio là chủ sở hữu bản ghi âm,
ghi hình này, đồng thời cũng chính là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình (sản
xuất những băng đĩa chọn lọc giọng hát của ca sĩ X). Theo khoản 1 Điều 29
Luật SHTT thì ca sĩ X có có các quyền nhân thân, tức là được giới thiệu tên khi
phát hành bản ghi; bảo vệ sự tòan vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người
khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của người biểu diễn. Còn Công ty Bến Thành Audio có
các quyền tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 29 Luật SHTT và các quyền
của nhà sản xuất ghi âm, ghi hình được quy định tại Điều 30 Luật SHTT, tức là
có quyền định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi; sao chép trực
tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm,
ghi hình; phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn
của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường
hợp cuộc biểu diễn nhằm mục đích phát sóng; phân phối đến công chúng bản
4
gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê
hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp
cận được.
Về phía công ty F- chủ sở hữu website nghe nhạc trực tuyến nhacso.net và
các công ty viễn thông, đây là những tổ chức đã sử dụng quyền liên quan vào
mục đích kinh doanh, thương mại nên những chủ thể này không phải xin phép sử

dụng mà chỉ phải trả tiền thù lao. Vậy chủ thể nào có được nhận tiền thù lao???
Theo quy định tại Điều 33 Luật SHTT năm 2005 thì những tổ chức này khi sử
dụng quyền liên quan thì không phải xin phép nhưng phải trả tiền thù lao theo
thỏa thuận cho“tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng”. Với quy định của điều luật này thì công
ty F và các công ty viễn thông phải trả tiền thù lao cho Công ty Bến Thành
Audio- nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và ca sĩ X- người biểu diễn.
Tuy nhiên, nếu theo Điều 29 Luật SHTT, thì công ty F và các công ty viễn
thông không phải trả tiền thù lao cho ca sĩ X. Vì theo quy định của Điều 29 Luật
SHTT thì trong trường hợp người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu tư thực
hiện cuộc biểu diễn đó thì họ chỉ có quyền nhân thân đối với cuộc biểu diễn, chủ
đầu tư sẽ có các quyền tài sản, trong đó có quyền định hình, sao chép, phát sóng
bản ghi cuộc biểu diễn. Do đó, ca sĩ X chỉ là người biểu diễn, cô ký hợp đồng với
công ty Bến Thành Audio để đến ghi âm, ghi hình và đã được phía công ty trả
tiền thù lao, vì vậy, bản ghi âm, ghi hình này thuộc sở hữu của nhà sản xuất-
Công ty Bến Thành Audio. Vì vậy, họ có quyền tài sản đối với những bản ghi
đó, ca sĩ X chỉ có quyền nhân thân, nên họ là chủ thể duy nhất được tự do kinh
doanh và thu tiền từ những các nhân, tổ chức sử dụng bản ghi của họ trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Cụ thể trong tình huống trên, phía công ty Bến Thành
Audio có quyền ký hợp đồng với công ty F và các công ty viễn thông cho phép
5

×