Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Khóa luận tốt nghiệp luật kinh doanh ap dụng các biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 75 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Hồ Trung Hiếu

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MAI THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2013-L

HÀ NỘI, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Hồ Trung Hiếu

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ THƯƠNG MAI THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chất lượng cao
Khóa học: QH-2013-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
Thầy Trần Trí Trung
Giảng viên bộ mơn Luật kinh doanh, Khoa Luật



HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là do tự bản thân thực hiện có sự hỗ
trợ từ giáo viên hướng dẫn và không sao chép các cơng trình nghiên cứu của người
khác. Các dữ liệu thơng tin thứ cấp sử dụng trong Khóa luận là có nguồn gốc và
được trích dẫn rõ ràng.
Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này!

iii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... iii
DANH MỤC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ..................................................... vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU .................................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG
MẠI .............................................................................................................................6
1.1.

Một số khái niệm cơ bản................................................................................6

1.1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc ( Most Favour Nation treatment) và Đối xử
Quốc gia (National Treatment) .............................................................................6
1.1.2.


Khái niệm về phịng vệ thương mại ........................................................8

1.2.

Cơ sở pháp lý của cơng cụ phòng vệ thương mại........................................9

1.3.

Một số biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến .....................................10

1.3.1.

Biện pháp chống bán phá giá ...............................................................10

1.3.2.

Biện pháp chống trợ cấp .......................................................................12

1.3.3.

Biện pháp tự vệ ......................................................................................15

1.4.

Tính chất, mục đích của cơng cụ phịng vệ thương mại ...........................16

1.5.

Pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ ........................................17


1.5.1.

Khái quát chung về phòng vệ thương mại trong pháp luật Hoa Kỳ ...17

1.5.2.

Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật Hoa Kỳ ...18

1.5.2.1.

Chống bán phá giá theo pháp luật của Hoa Kỳ ..............................18

1.5.2.2.

Biện pháp chống trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ............................24

1.5.2.3.

Biện pháp tự vệ ................................................................................28

Kết luận chương 1 ...................................................................................................30
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM ......................................................................................................31
2.1

Pháp luật hiện hành về các biện pháp phòng vệ thương mại ..................31

2.1.1


. Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá .........................................31

2.1.1.1

Thủ tục điều tra vụ việc chống bán phá giá ....................................32
iv


2.1.1.2

Thủ tục xử lý vụ việc chống bán phá giá .........................................40

2.1.1.3

Phương thức áp dụng thuế chống bán phá giá ...............................47

2.1.2

Pháp luật về biện pháp chống trợ cấp ..................................................49

2.1.2.1

Định nghĩa trợ cấp hàng hố nhập khẩu ........................................49

2.1.2.2

Các hình thức trợ cấp hàng hoá nhập khẩu ....................................50

2.1.2.3


Xác định trợ cấp ..............................................................................51

2.1.2.4

Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp .......51

2.1.2.5

Áp dụng biện pháp chống trợ cấp ...................................................52

2.1.3

Pháp luật về biện pháp tự vệ .................................................................53

2.1.3.1

Cơ sở áp dụng biện pháp tự vệ ........................................................54

2.1.3.1

Áp dụng biện pháp tự vệ ..................................................................54

2.2
Thực tiễn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ tại Việt Nam ........................................................................................................55
Chương 3: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG HỒN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP PHỊNG VỆ THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM ...........................................................................................................59
3.1
Những hạn chế về mặt pháp lý trong việc sử dụng cơng cụ phịng vệ

thương mại tại Việt Nam ........................................................................................59
3.2
Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện pháp phòng vệ
thương mại tại Việt Nam ........................................................................................61
KẾT LUẬN ..............................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................68

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời đại thương mại tồn cầu, khi cạnh tranh thương mại khơng chỉ nằm
gọn trong biên giới khu vực hay một quốc gia nhất định thì pháp luật điều tiết vấn
đề cạnh tranh cũng khơng cịn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì vậy, quy chế về
phịng vệ thương mại đã trở thành một trong những nội dung quan trọng trong
khuôn khổ pháp luật về thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới. Pháp
luật Việt Nam cũng kịp thời ghi nhận và có các quy định hướng dẫn cách áp dụng
các công cụ này để bảo hộ cho hàng hóa và nền sản xuất trong nước trước sự thâm
nhập và cạnh tranh ngày một mạnh mẽ của hàng hóa nước ngồi. Cụ thể, pháp lệnh
chống bán phá giá, pháp lệnh chống trợ cấp và pháp lệnh tự vệ cùng các văn bản
hướng dẫn thi hành đã được ban hành, để trang bị cho các doanh nghiệp Việt Nam
thêm một phương tiện hợp pháp trong quá trình tự do hóa thương mại quốc tế, tuy
nhiên trên thực tế các văn bản này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Trên thực tế, cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam phải
đối mặt với ngày càng nhiều các vụ kiện phòng vệ thương mại khi xuất khẩu ra thị
trường nước ngồi. Dưới hình thức thuế bổ sung, hạn ngạch... các biện pháp phòng

vệ thương mại này là những rào cản mang tính bảo hộ đang có nguy cơ gia tăng tại
các thị trường xuất khẩu, gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế và mở rộng thị phần xuất khẩu. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên
chính thức của WTO, những vụ kiện do các nước áp dụng các biện pháp phịng vệ
thương mại khơng những khơng giảm đi mà ngược lại có xu hướng tăng lên rõ rệt.
Những vụ kiện này rõ ràng đã gây ra những tác động lớn cho nền kinh tế Việt
Nam.Trong khi đó, việc sử dụng cơng cụ phịng vệ thương mại tại nước nhà lại
không thật sự hiệu quả. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Nhà nước, các địa phương, Hiệp
hội ngành hàng và nhất là bản thân các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động đối
phó, phải nâng cao hiểu biết pháp luật về phòng vệ thương mại để có thể nâng cao
năng lực tự bảo vệ trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế.
viii


Vì vậy, hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu đề tài :"Áp dụng các biện pháp
phòng vệ thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay" có tính cấp thiết cao.
Qua việc nghiên cứu về pháp luật phòng vệ thương mại của WTO, Hoa Kỳ và pháp
luật Việt Nam, tác giả đã cố gắng đưa ra những góp ý về mặt pháp lý nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về phịng vệ thương mại tại Việt Nam, qua đó tạo cơ sở
tiền đề cho các doanh nghiệp, Hiệp hội trong nước có thể sử dụng cơng cụ này một
cách hữu ích hơn.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ khi chuẩn bị cho quá trình đàm phán gia nhập WTO và thực hiện các chính
sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, tại Việt Nam, liên quan đến đề tài,
đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, các đề tài chuyên khảo của các luật gia và tổ
chức trong nước. Có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu đã được Phịng thương
mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) phát hành, như "Hỏi - đáp Pháp luật về

chống bán phá giá - Những điều cần biết". Đây là cuốn sách đầu tiên tại Việt Nam
giới thiệu tương đối đầy đủ những quy định hiện hành của WTO, Hoa Kỳ và Liên
minh Châu Âu về việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá dưới dạng các câu
hỏi và đáp ngắn gọn, cụ thể và thiết thực. Hay "Kiện chống bán phá giá", "Trợ cấp
và thuế chống trợ cấp", "Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế" và "Cẩm nang
kháng kiện chống bán phá giá - chống trợ cấp tại Hoa Kỳ" là những ấn phẩm bổ ích
trong việc đem lại những kiến thức cơ bản cho người đọc trong việc tiếp cận các
khái niệm chung, các đặc điểm của các biện pháp phòng vệ thương mại. Hội đồng
tư vấn về phòng vệ thương mại (Hội đồng TRC) thuộc VCCI cũng đã phát hành
nhiều cuốn sách về phòng vệ thương mại, như cuốn "Tranh chấp về chống bán phá
giá trong WTO", "Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá - chống trợ cấp tại Hoa
Kỳ", Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá -chống trợ cấp tại Hoa Kỳ"... cùng
với các ấn phẩm khác của Cục Quản lý Cạnh tranh, trực thuộc Bộ Công thương như
"Các văn bản pháp luật về Biện pháp bảo đảm thương mại công bằng trong thương
mại quốc tế của Việt Nam" và "Hỏi đáp về pháp luật chống bán phá giá của Việt
Nam"là những ấn phẩm đã được xuất bản rộng rãi, là tài liệu quen thuộc với các

2


doanh nghiệp, các đối tượng muốn tìm hiểu về pháp luật phịng vệ thương mại nói
chung.
Bên cạnh đó, khơng thể khơng nhắc tới các cơng trình nghiên cứu, luận văn
của các thạc sĩ, luận án của các tiến sĩ cũng về đề tài này. Có thể kể đến luận án tiến
sĩ của tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu
và cơ chế thực thi tại Việt Nam, bảo vệ năm 2011 tại trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Anh, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, các bài học
kinh nghiệm của một số nước và khuyến nghị đối với Việt Nam trong thời gian
tới,...cùng nhiều luận án, luận văn có liên quan hoặc đề cập tới đề tài này. Những

kiến thức trên là những kiến thức rất quý báu để tác giả có thể tham khảo, kế thừa
nhằm hồn thiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
3.

Mục đích nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài :"Áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại theo
pháp luật Việt Nam hiện nay" nhằm đạt được các mục đích sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp phòng vệ thương mại
đang được pháp luật thương mại thế giới thừa nhận và cho phép áp dụng, cụ thể
như: Khái niệm các biện pháp phòng vệ thương mại; các đặc điểm của các biện
pháp phòng vệ thương mại và các điều kiện áp dụng các biện pháp phòng vệ thương
mại; vai trò, tác dụng của các biện pháp phòng vệ thương mại đối với thương mại
hàng hóa và kinh tế quốc tế.
Thứ hai, phân tích, đánh giá khái quát các quy định pháp luật về phịng vệ
thương mại tại quốc gia có nền kinh tế phát triển cao và là thị trường xuất khẩu
trọng điểm của Việt Nam là Hoa Kỳ, và từ đó so sánh, đối chiếu các quy định của
pháp luật phòng vệ thương mại của Việt Nam với các quy định của WTO và Hoa
Kỳ.
Thứ ba, trên cơ sở so sánh, đối chiếu pháp luật của Việt Nam với các quy định
của Hoa Kỳ và WTO, từ đó nhìn nhận một số hạn chế trong pháp luật nước nhà và

3


đề ra một số giải pháp pháp lý, góp phần đẩy mạnh hiệu quả sử dụng cơng cụ phịng
vệ thương mại tại Việt Nam trong thời gian tới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là cơ sở pháp lý của các biện pháp phòng
vệ thương mại, thực trạng pháp luật và những vấn đề thực tiễn có ảnh hưởng đến
khả năng áp dụng pháp luật về phịng vệ thương mại nhằm góp phần hồn thiện về
mặt lý luận và các quy định của pháp luật về phịng vệ thương mại đối với các hàng
hố nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
Đề tài pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại là một đề tài sâu và
rộng, vì vậy, trong khn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, tác giả giới hạn phạm
vi nghiên cứu về các khái niệm pháp lý của các biện pháp phòng vệ thương mại,
pháp luật về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ - thị trường xuất khẩu rất lớn của
Việt Nam, đây cũng là nơi xảy ra hàng loạt vụ kiện phòng vệ thương mại đối với
hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, được khởi xướng bởi chính Hoa Kỳ; và cuối
cùng là nghiên cứu thực trạng pháp luật về phòng vệ thương mại tại Việt Nam qua
ba pháp lệnh chính là Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt
Nam 2004, Pháp lệnh về chống trợ cấp 2004 và Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ
2002.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Khóa luận được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về
Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của khóa luận được nêu và phân tích dựa trên cơ
sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
và các tài liệu pháp lý.
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp như: tổng
hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu lịch sử....
6.


Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận tốt nghiệp

4


Đây là khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống, khá tồn diện về pháp luật
phịng vệ thương mại ở Việt Nam hiện nay. Các kiến nghị, kết luận nêu ra trong
khóa luận đều là các kiến thức mà tác giả đúc kết trong quá trình nghiên cứu kiến
thức từ các luật gia đi trước, đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với cá
nhân tác giả.
Về mặt thực tiễn, những nghiên cứu, kết luận và đề xuất hồn thiện pháp luật
cịn có ý nghĩa trong việc đóng góp vào cơng cuộc hồn thiện pháp luật chống bán
phá giá, chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả và
khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan sử dụng cơng cụ phịng vệ thương mại như
là một phương pháp hữu ích, một chiếc van an toàn nhằm bảo vệ nền kinh tế nước
nhà.
7.

Kết cấu của khố luận

Kết cấu của khóa luận dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ và phạm
vi nghiên cứu. Khóa luận bao gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật phòng vệ thương mại
Chương II: Thực trạng pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại tại
Việt Nam
Chương III: Đề xuất và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện
pháp phòng về thương mại ở Việt Nam.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc ( Most Favour Nation treatment) và Đối xử Quốc
gia (National Treatment)
Dựa trên những nguyên tắc cốt lõi của WTO, các quốc gia đều không được
phân biệt bạn hàng thương mại của mình. Nếu dành ưu đãi đặc biệt cho một quốc
gia nào đó (ví dụ như tỷ suất thuế thấp đối với một loại sản phẩm) thì cũng phải
dành ưu đãi đó cho mọi thành viên khác trong WTO mà không cần bất cứ sự thoả
thuận thêm nào. Chính vì vậy, ngun tắc Đối xử tối huệ quốc và Đãi ngộ Quốc gia
khơng chỉ có ý nghĩa đối với việc đảm bảo một chính sách thương mại đa biên bình
đẳng, mà cịn giảm thiểu được các chi phí trong đàm phán thương mại.
Đãi ngộ Tối huệ quốc là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong
Điều I - Hiệp định GATT, điều II - Hiệp định GATS và điều IV - Hiệp định TRIPS.
Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan
và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau
(hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng,
khơng phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản
phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác
thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả
các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho
phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này.[23, tr 4]
Trong khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được phép áp
dụng đối xử phân biệt giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một
nước phải đối xử bình đẳng và cơng bằng giữa hàng hố nhập khẩu và hàng hố
tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm
6



nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí
khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương
tự sản xuất trong nước. [23,tr 5]
MFN và NT là 2 nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của hệ thống thương mại quốc
tế và đều có chung bản chất là sự khơng phân biệt đối xử, hay nói cách khác là đối
xử bình đẳng. Ngun tắc này được thể hiện rất rõ nét thông qua các Hiệp định của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ
hợp tác kinh tế-thương mại khu vực cũng như trong các hiệp định thương mại song
phương. Ở nước ta, với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối
ngoại, Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Chính vì vậy, các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế đang dần dần
được nghiên cứu và áp dụng.
Theo cách tiếp cận của Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 về đối xử tối
huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế, đối xử tối huệ quốc trong
thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành
cho hàng hố nhập khẩu có xuất xứ từ một nước so với hàng hoá tương tự nhập
khẩu có xuất xứ từ nước thứ ba hoặc hàng hoá xuất khẩu đến một nước so với hàng
hoá tương tự xuất khẩu đến nước thứ ba. Theo khái niệm này, nguyên tắc cơ bản
khi áp dụng MFN chính là khơng phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu có
xuất xứ từ nhiều nước khác nhau. Phạm vi áp dụng MFN không chỉ đơn thuần nằm
trong lĩnh vực thuế, các loại phí và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu hoặc liên quan đến hàng hố xuất khẩu, nhập khẩu mà cịn bao gồm cả
phương thức thanh toán, việc chuyển tiền thanh toán, các quy định và thủ tục liên
quan đến xuất nhập khẩu, thuế và các loại phí thu trực tiếp hoặc gián tiếp trong
nước đối với hàng hố nhập khẩu, chính sách hạn chế định lượng...
Song song với đối xử MFN, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc
gia trong thương mại quốc tế quy định các nguyên tắc áp dụng đối xử quốc gia, theo
đó đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn
đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá tương tự trong


7


nước. Theo khái niệm này, Việt Nam không thể thực hiện các phân biệt đối xử giữa
hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp sản xuất trong
nước. Nói cách khác đối xử quốc gia là việc áp dụng các chính sách, quy định ưu
đãi thể hiện bằng luật pháp và cơ bản bằng thuế đối với doanh nghiệp, công dân của
quốc gia khác ngang bằng với các ưu đãi dành cho doanh nghiệp, công dân của
quốc gia mình.
Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia cũng khẳng định Nhà
nước Việt Nam áp dụng Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại
quốc tế trên cơ sở các ngun tắc bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi. Tuy nhiên,
Pháp lệnh cũng đưa ra các ngoại lệ để từ đó có thể xây dựng và áp dụng các biện
pháp phịng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước khi cần thiết. Tất
nhiên, việc áp dụng các ngoại lệ này phải đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực
trong thương mại quốc tế, tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo
tính cơng bằng, có đi có lại và bình đẳng giữa các bên.
1.1.2. Khái niệm về phòng vệ thương mại
Trong bối cảnh tồn cầu hóa và tự do hóa thương mại khi hàng rào thuế quan
trên thế giới đang chịu sức ép cắt giảm, các nước bắt đầu chú ý nhiều tới các biện
pháp phòng vệ đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Dù tồn tại nhiều quan niệm
khác nhau, tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại quốc tế, biện pháp phịng vệ có thể
được gói gọn lại là tất cả các biện pháp được Chính phủ của một quốc gia sử dụng
nhằm hạn chế các dòng mậu dịch giữa lãnh thổ nước này với lãnh thổ nước khác.
Mặc dù có thể khác nhau về bản chất, các biện pháp này đều được áp dụng nhằm
mục tiêu bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị
trường nội địa của nước nhập khẩu. Ở thời điểm hiện tại, nói đến các biện pháp
phịng vệ có thể nhắc đến các biện pháp liên chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ. Phòng vệ thương mại theo đó được hiểu là những biện pháp nhằm ngăn chặn,
hạn chế (áp thuế bổ sung, quy định hạn ngạch...) được áp dụng đối với hàng hóa

xuất khẩu từ nước này sang nước kia, được nước nhập khẩu áp dụng sau một quá
trình điều tra mà kết quả hội đủ ba điều kiện: (i) Có hiện tượng bán phá giá hoặc

8


bán hàng có trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt; (ii) ngành sản xuất nội địa của nước nhập
khẩu chứng minh được thiệt hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá
giá, bán hàng trợ cấp hay nhập khẩu ồ ạt tới ngành hàng sản xuất trong nước của
nước nhập khẩu. Hoạt động này được WTO cho phép các nước nhập khẩu sử dụng
để chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các nước xuất khẩu. Tuy nhiên,
cần phân biệt rõ, không phải là WTO áp dụng các biện pháp này mà là bản thân các
nước nhập khẩu có quyền áp dụng các biện pháp phịng vệ vì đây là mối quan hệ
giữa các nước xuất khẩu với nước nhập khẩu.[7, tr 9]
Được sử dụng để "đối phó" với hành vi thương mại hồn tồn bình thường
(khơng có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh khơng lành mạnh) nên về hình
thức, việc áp dụng biện pháp phòng vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hố
thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là những biện pháp được thừa nhận trong
khuôn khổ WTO (với các điều kiện chặt chẽ để tránh bị lạm dụng). Lý do là trong
hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết
WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại là một hình thức “van an tồn” mà hầu
hết các nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn. Với chiếc van này,
nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất
nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn. Với
việc được cơng nhận và hợp thức hóa trong các Hiệp định của WTO, các biện pháp
phòng vệ thương mại đang ngày càng được áp dụng một cách có hiệu quả cho các
quốc gia thành viên sử dụng để tạo ra một sân chơi thương mại bình đẳng, cạnh
tranh lành mạnh. Hơn nữa, các biện pháp phịng vệ thương mại cịn có tác dụng tích
cực trong việc khuyến khích tự do hóa thương mại phát triển và góp phần thúc đẩy
xây dựng một nền kinh tế quốc tế phát triển ổn định, lành mạnh hơn.

1.2. Cơ sở pháp lý của công cụ phòng vệ thương mại
Nghĩa vụ MFN và NT là hai nghĩa vụ cơ bản mà các nước thành viên của
WTO phải tuân thủ. Đồng thời nó cũng là nghĩa vụ bắt buộc trong các Hiệp định
thương mại song phương, các thoả thuận thương mại khu vực.Tuy nhiên, song song
với các quy định ràng buộc về nghĩa vụ MFN các hiệp định thương mại song

9


phương, đa phương hay các thỏa thuận khu vực cũng cho phép áp dụng các trường
hợp ngoại lệ.
Khi áp dụng MFN và NT cần đáp ứng yêu cầu cơ bản về bình đẳng, tự do
cạnh tranh với các bên tham gia và phải phù hợp với các chuẩn mực trong thương
mại quốc tế. Điều đáng lưu ý ở đây là cùng với việc áp dụng MFN và NT, sức ép
cạnh tranh do luồng hàng hóa nhập khẩu gây ra đối với ngành sản xuất trong nước
chắc chắn sẽ gia tăng. Thực tiễn trong thương mại quốc tế cho thấy, nguy cơ chịu
thiệt hại của ngành sản xuất trong nước sau khi thực hiện các cam kết MFN và NT
là rất cao. Chính vì vậy, song song với việc cam kết và thực hiện các cam kết MFN
và NT, cần cân nhắc sử dụng triệt để các trường hợp ngoại lệ của MFN để giảm
thiểu thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại mà luồng hàng hóa nhập khẩu có thể gây ra
cho ngành sản xuất trong nước.
1.3. Một số biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp phịng vệ thương mại chính đáng
được hiểu như các cơng cụ áp dụng nhằm mục đích bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa
tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu trong
một giai đoạn nhất định trước sự xâm nhập và cạnh tranh khơng cơng bằng của
hàng hóa nhập khẩu từ nước ngồi. Các biện pháp này nhìn chung bao gồm các biện
pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống trợ cấp.
1.3.1. Biện pháp chống bán phá giá
Bán phá giá được xem là hiện tượng xuất hiện khá sớm trong thực tiễn thương

mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước
đều coi đây là một trong những hành vi thương mại khơng lành mạnh.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bán phá giá, dưới góc độ học thuật, bán phá
giá hàng hóa nhập khẩu được hiểu ngắn gọn là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp
hơn giá bán tại thị trường nội địa. Ví dụ Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng bán
phá giá (dumping) được hiểu là việc bán một hàng hố ở nước ngồi với mức giá
thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước. [10, tr 282]; Theo Từ điển chính
sách thương mại: phá giá được hiểu là thực tiễn bán hàng của một công ty với giá
10


bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước (giá nội địa của nước
xuất khẩu) [11, tr 82]; cuốn Black’s Law dictionary định nghĩa phá giá là hành vi
bán hàng hố ra nước ngồi với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa [12, tr
518]. Theo cách hiểu này, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là sự phân biệt giá của
cùng loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu và tiêu thụ trên thị
trường nước nhập khẩu. Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính toán
được giá xuất khẩu và giá bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa (cịn gọi là giá
nội địa).
Điều 2.1 của Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại 1994 (Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO) quy định như sau:
" Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là
được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thơng
thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ
nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm
tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường...". [13, Điều 2.1]
Quy định trên đây đã thể hiện rõ ràng rằng việc bán phá giá trong thương mại
quốc tế có yếu tố cơ bản đó là sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị
trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, cho dù giá bán ở thị trường

tiêu thụ (nước nhập khẩu), có thể khơng khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường
hợp giá bán của sản phẩm nhập khẩu còn cao hơn giá của sản phẩm tương tự hiện
đang được bán tại thị trường nước nhập khẩu. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều
thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hóa xuất khẩu được bán sang
một nước khác (nước nhập khẩu) với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của
nước xuất khẩu).
Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh 20/2004 có quy định: "Biên độ phá giá là khoảng
cách chênh lệch có thể tính được giữa giá thơng thường của hàng hóa nhập khẩu
vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam", tại đây điều luật
không định nghĩa một cách trực tiếp khái niệm bán phá giá, nhưng việc xác định
11


biên độ phá giá thông qua sự so sánh giữa giá thông thường (giá bán sản phẩm
tương tự tại thị trường nước nhập khẩu là chủ yếu) với giá xuất khẩu sản phẩm đó
vào Việt Nam cho chúng ta thấy bán phá giá là hiện tượng khi giá xuất khẩu một
hàng hóa từ nước ngồi vào Việt Nam thấp hơn giá thơng thường của hàng hóa đó.
Một cách khái qt nhất thì bán phá giá trong thương mại quốc tế, là việc một
sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá
có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được bán tại nước xuất khẩu theo điều
kiện thương mại thông thường.
Các quy định của WTO không quy định cấm hành vi bán phá giá, nhưng áp
đặt nghĩa vụ cho các thành viên WTO và điều chỉnh hành vi bán phá giá của các
thành viên WTO. Do việc bán phá giá có thể gây thiệt hại cho ngành kinh tế nội địa
của nước nhập khẩu, nên hành vi đó "bị lên án"[14, Điều VI]. Do đó, Chính phủ
nhiều nước cho rằng họ cần phải có hành động chống lại hành vi đó nhằm bảo vệ
ngành công nghiệp trong nước mà thông thường là thông qua việc đánh thuế chống
bán phá giá để bù đắp những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do
hành vi bán phá giá gây ra.Để có thể áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa
nhập khẩu bán phá giá thì nước nhập khẩu phải chứng minh được một cách rõ ràng

các vấn đề: (i) có việc bán phá giá; (ii) có thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại; (iii)
có mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại. [15, tr.93] Để xác định
những vấn đề này, các quốc gia phải tiến hành các hoạt động theo quy định của
pháp luật của quốc gia mình trên những cơ sở không trái với các quy định của WTO
về chống bán phá giá. Như vậy, chống bán phá giá trong thương mại quốc tế là biện
pháp hợp pháp được các quốc gia thừa nhận.
1.3.2. Biện pháp chống trợ cấp
Trong đời sống thường ngày, trợ cấp được hiểu đơn giản là hành vi mà một
chủ thể có năng lực tài chính hỗ trợ cho chủ thể khác một khoản giá trị vật chất nhất
định nhằm giúp bên được trợ cấp khắc phục những khó khăn về tài chính.
Thực tế đời sống xã hội hiện nay đã tồn tại nhiều trường hợp trợ cấp với
những mục đích khác nhau, chẳng hạn như trợ cấp y tế, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp
12


giáo dục... Trong các trợ cấp nói trên, có thể thấy rằng người được trợ cấp thường là
bên cần có tiền để trang trải các chi phí y tế, giáo dục, ổn định đời sống... và bên trợ
cấp thường là Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân có năng lực tài chính.
Trong hệ thống pháp luật thương mại quốc tế, theo quy định của WTO, trợ cấp
được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung
ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp/ngành sản xuất:
Một là, hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ
phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
Hai là, miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế,
tín dụng);
Ba là, mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hóa (trừ cơ sở hạ tầng
chung);
Bốn là, thanh tốn tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân
tiến hành các hoạt động nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.

Để xác định giới hạn mức độ trợ cấp cũng như tính pháp lý của các hành vi trợ
cấp trong thương mại quốc tế, Hiệp định SCM chia trợ cấp thành 3 dạng dựa trên
mức độ ảnh hưởng đến thương mại của chúng : Trợ cấp đèn đỏ, trợ cấp đèn xanh và
trợ cấp đèn vàng.[16, trang 7]
Thứ nhất là trợ cấp bị cấm (hay còn gọi là trợ cấp đèn đỏ) là những hình thức
trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng, bao gồm: (i) trợ cấp
xuất khẩu là trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu, trợ cấp
nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm
tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng
xuất khẩu... và (ii) trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng hóa nội địa so với hàng nhập
khẩu.
Thứ hai là trợ cấp không bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ cấp đèn xanh) là
hình thức các nước thành viên có thể áp dụng mà khơng bị các thành viên khác
13


khiếu kiện, bao gồm: (i) trợ cấp không cá biệt là các loại trợ cấp không hướng tới
một ngành, một nhóm doanh nghiệp, một khu vực địa lý cụ thể nào, hay nói cách
khác tiêu chí để được hưởng trợ cấp loại này là khách quan, không do cơ quan có
thẩm quyền một cách tùy tiện, khơng xem xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng
cho bất kỳ đối tượng nào; và (ii) các trợ cấp như: trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu
do các công ty tổ chức nghiên cứu tiến hành, trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với
các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp), trợ
cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường kinh
doanh mới.
Thứ ba là trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ
cấp đèn vàng) bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn
xanh nêu trên). Các nước thành viên có thể sử dụng các hình thức trợ cấp này nhưng
nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất các sản phẩm
tương tự của nước khác thì có thể bị kiện ra WTO.

Trợ cấp hàng hóa nhập khẩu, dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng ln có tác
động tiêu cực tới thị trường của nước nhập khẩu vì nó phá vỡ mơi trường cạnh tranh
bình đẳng giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội địa. Kết quả là, loại trợ cấp
này sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong
nước với sản phẩm tương tự được trợ cấp xuất khẩu.
Do vậy, WTO cho phép nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp để
chống lại việc trợ cấp hàng hóa nhập khẩu nhằm hạn chế và khắc phục thiệt hại do
trợ cấp hàng hóa nhập khẩu gây ra. Các biện pháp mà nước nhập khẩu dùng để
chống lại hành vi trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu được gọi là các biện pháp
chống trợ cấp (còn được gọi là các biện pháp đối kháng - countervailing measures).
Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu là các biện pháp mà WTO cho phép Chính
phủ nước nhập khẩu áp dụng nhằm chống lại các tác động tiêu cực do có sự trợ cấp
của Chính phủ nước ngồi đối với hàng hóa gây ra cho thị trường nhập khẩu với
mục đích đảm bảo cơng bằng trong thương mại, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng
của các doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.
14


Chống trợ cấp là một biện pháp bảo hộ hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất
trong nước trước các hiện tượng cạnh tranh khơng lành mạnh của hàng hóa nhập
khẩu có sự trợ cấp của chính phủ nước ngồi. Nó nhằm vào các nhà sản xuất xuất
khẩu nước ngồi được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước
nhập khẩu tiến hành) chứ không nhằm vào Chính phủ nước ngồi đã thực hiện việc
trợ cấp. Mục đích của biện pháp chống trợ cấp được áp dụng nhằm loại bỏ tác động
tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách
trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu.
1.3.3. Biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ nguyên nghĩa của nó là các cơng cụ điều tiết thương mại
mang tính khẩn cấp, tạm thời được đề cập và được biết đến lần đầu tiên một cách
chính thức từ GATT 1947. Trong đó, biện pháp tự vệ cịn được hiểu là " các quy

định mang tính phịng vệ khẩn cấp". Tự vệ trong thương mại quốc tế nói chung là
các biện pháp mang tính chất tạm thời như tăng thuế nhập khẩu hoặc hạn chế về số
lượng hoặc hạn ngạch thuế quan, được một quốc gia đặt ra một cách rõ ràng và cụ
thể nhằm chặn đứng hoặc làm chậm dịng hàng hố nhập khẩu vào thị trường nội
địa để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà cung cấp trong nước so với
các nhà cung cấp nước ngoài.
Các biện pháp tự vệ được phân biệt với các biện pháp chống bán phá giá và
chống trợ cấp ở đối tượng mà nó điều chỉnh. Trong khi, việc áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá và chống trợ cấp chủ yếu xuất phát từ yếu tố cạnh tranh thiếu
lành mạnh, thì việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể dựa trên bất cứ sự cạnh trạnh
nào xảy ra mà kết quả của nó gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại
nghiêm trọng đến một ngành sản xuất trong nước nhất định.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự
vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về
điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ).
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành
điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
15


- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hố đó
bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt
hại hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.
Các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn chặn
hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành sản xuất nội địa điều chỉnh; biện
pháp tự vệ khơng được kéo dài q 4 năm (tính cả thời gian áp dụng biện pháp tạm
thời) và phải giảm dần theo định kỳ sau năm đầu tiên áp dụng. Trường hợp biện
pháp được áp dụng trên 3 năm thì phải được xem xét lại vào giữa kỳ để cân nhắc

khả năng chấm dứt hoặc giảm mức áp dụng mạnh hơn nữa. Biện pháp tự vệ có thể
gia hạn biện pháp tự vệ nhưng tổng cộng thời gian áp dụng và gia hạn không được
quá 8 năm. Tuy nhiên, WTO có quy định đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam có thể kéo dài thời hạn áp dụng thêm 2 năm, tức là các nước đang phát triển
như Việt Nam có quyền áp dụng biện pháp tự vệ với thời hạn khơng q 10
năm.[17, tr.3]
1.4. Tính chất, mục đích của cơng cụ phịng vệ thương mại
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và
tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại.
Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng để đối phó với hành
vi cạnh tranh khơng lành mạnh. Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá
giá được sử dụng phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết
luận là phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó. Thực
tế, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thơng
thường) đánh vào sản phẩm nước ngồi nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp
dụng biện pháp chống bán phá giá.
Tương tự như biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp được áp
dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh. Trong khi biện pháp

16


chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp thì biện pháp
chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực xuất phát từ các chính sách
trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Thuế chống trợ cấp (hay còn gọi là thuế đối
kháng) là cũng là khoản thuế bổ sung, ngồi thuế nhập khẩu thơng thường đánh vào
sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào nước nhập khẩu. Đây có thể được xem là
biện pháp nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài bị trợ cấp, chứ khơng
nhằm vào chính phủ nước ngồi thực hiện việc trợ cấp.
Khác với hai biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, biện pháp tự vệ

thường được nói đến như một công cụ bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong trường
hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước
do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, biện pháp tự vệ
có thể được áp dụng kể cả khi các đối tác thương mại thực hiện hoạt động kinh
doanh chính đáng, khơng có tình trạng cạnh tranh khơng cơng bằng, nên về hình
thức, việc áp dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại tự do hóa thương mại. Tuy
vậy, biện pháp tự vệ vẫn là biện pháp được thừa nhận trong WTO, với các điều kiện
áp dụng chặt chẽ nhằm tránh việc các quốc gia thành viên lạm dụng cơng cụ này. Vì
vậy, đây được coi là một biện pháp mà chính phủ các quốc gia có thể sử dụng để
bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong ngắn hạn.
1.5. Pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ
1.5.1. Khái quát chung về phòng vệ thương mại trong pháp luật Hoa Kỳ
Về bản chất, các biện pháp phòng vệ thương mại là các công cụ được phép
của nước nhập khẩu áp dụng nhằm hạn chế sự cạnh tranh về hàng hóa từ các cơng
ty nước ngồi để bảo vệ lợi ích cho ngành cơng nghiệp nội địa. Do đó, pháp luật
Hoa Kỳ về phòng vệ thương mại được soạn thảo cũng với mục đích hỗ trợ ngành
sản xuất nội địa của Hoa Kỳ để đảm bảo ngành sản xuất trong nước được hưởng lợi
từ các biện pháp đó. Đây được xem như là một công cụ hiệu quả của Hoa Kỳ trong
sự cạnh tranh với hàng hố nước ngồi, xuất phát từ đặc điểm và tính chất bảo hộ
của các biện pháp này.

17


Nhìn chung, pháp luật Hoa Kỳ có nhiều điểm bất lợi cho doanh nghiệp xuất
khẩu nước ngoài. Pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và phịng vệ thương mại
nói chung của Hoa Kỳ có từ những năm đầu thế kỷ XX, cụ thể là năm 1916, sau đó
được định hình rõ ràng trong Luật thuế quan năm 1930 và từ đó đến nay tiếp tục
được bổ sung thêm trở thành một hệ thống hoàn chỉnh các quy định kỹ thuật phức
tạp, tinh vi theo hướng bảo vệ tối đa quyền lợi của các nhà sản xuất nội địa.[25] Có

thể dễ dàng nhận thấy các Hiệp định trong WTO vẫn thể hiện một phần quan trọng
quan điểm của Hoa Kỳ và do đó, hệ thống pháp luật phịng vệ thương mại "mang
tính bảo hộ" của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục được duy trì đến nay.
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống lại hiện
tượng hàng hóa nước ngồi được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bán
tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp chống trợ cấp áp
dụng nhằm chống lại hiện tượng bán hàng hóa nước ngồi được trợ cấp của Chính
phủ nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm
tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp phòng vệ được áp dụng trong trường hợp cần
bảo vệ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trước hiện tượng hàng hóa nhập khẩu tăng
đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành này.
Ngồi các biện pháp phịng vệ nêu trên, Hoa Kỳ còn quy định nhiều biện pháp
phòng vệ thương mại khác áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngồi vào
Hoa Kỳ (ví dụ Biện pháp về sở hữu trí tuệ quy định tại Chương 337 -Bộ Luật Tổng
hợp USC của Hoa Kỳ; Biện pháp về tiếp cận thị trường quy định tại Chương 301,
Biện pháp hạn chế thương mại vì lý do an ninh tại Chương 232...). Tuy nhiên, tần
suất sử dụng các biện pháp thuộc nhóm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ là
thường xuyên và rộng rãi nhất. [18, tr.16]
1.5.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật Hoa Kỳ
1.5.2.1.

Chống bán phá giá theo pháp luật của Hoa Kỳ

Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống lại hiện
tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bán
18


tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt hại đáng kể cho

ngành sản xuất "sản phẩm tương tự" nội địa Hoa Kỳ. [25]. Pháp luật về chống bán
phá giá của Hoa Kỳ quy định về các vấn đề trình tự, thủ tục, nội dung của quá trình
điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tại Hoa Kỳ và các cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động này. Hiện nay, các vấn đề về chống bán phá giá được
quy định trong các văn bản sau đây: Luật chống bán phá giá 1916; Luật Thuế quan
1930; Các Phần 1671-1677n, Mục 19 Bộ luật Hoa Kỳ (US Federal Code); Các Phần
351.101-702 Mục 19 Bộ quy định Hoa Kỳ (US Federal Regulation) và các Phần
207.1-120 Mục 19 Bộ luật Quy định Hoa Kỳ. [19, tr 80]
Về thủ tục, một vụ điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ được tiến hành theo
các giai đoạn sau đây: (i) Đơn kiện được nộp; (ii) Khởi xướng điều tra; (iii) Điều tra
sơ bộ về thiệt hại; (iv) Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá; (v) Điều tra cuối cùng về
bán phá giá; (vi) Điều tra cuối cùng về thiệt hại; (vii) Quyết định áp dụng biện pháp
chống bán phá giá; (viii) Rà soát hành chính hàng năm; (ix) Rà sốt hồng hơn. [19,
tr 82-84] Không phải tất cả các vụ điều tra đều đi hết các giai đoạn nói trên. Theo
pháp luật cũng như trong thực tiễn thì ở mọi giai đoạn của vụ việc đều có những
khả năng để chấm dứt vụ điều tra. Pháp luật Hoa Kỳ quy định thời hạn tối đa cho
từng hoạt động cụ thể trong mỗi giai đoạn của vụ điều tra chống bán phá giá. Trong
thực tế, các thời hạn này có thể thay đổi tùy thuộc vào tính chất và hồn cảnh khách
quan của từng vụ việc cũng như khả năng chủ quan của cơ quan điều tra (trong giới
hạn mà pháp luật cho phép).
(i) Nộp đơn kiện
Một vụ kiện chống bán phá giá bắt đầu bằng việc nộp đơn khởi kiện nhân
danh “ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ”. Ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ
được định nghĩa bao gồm:
Một là, các nhà sản xuất hoặc kinh doanh một loại sản phẩm nội địa giống hệt
với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra;
Hai là, hiệp hội các nhà sản xuất hoặc kinh doanh loại sản phẩm đó;

19



Và ba là, cơng đồn hoặc nhóm cơng nhân làm việc trong ngành cơng nghiệp
nội địa đó.
Đơn khởi kiện phải được sự ủng hộ của các nhà sản xuất Hoa Kỳ có sản lượng
vừa đồng thời chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng trong nước, vừa chiếm trên 50%
tổng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp Hoa Kỳ lên tiếng nhân danh “ngành
công nghiệp nội địa Hoa Kỳ” (ủng hộ hoặc phản đối vụ kiện). Khi thụ lí vụ kiện,
trước hết các cơ quan giải quyết vụ kiện sẽ xem nội dung đơn khởi kiện có bao gồm
những thơng tin cần thiết và được ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ ủng hộ hay
không. [26, page. I-7]
Theo pháp luật Hoa Kỳ, một vụ điều tra chống bán phá giá có thể được tiến
hành trên cơ sở đơn kiện của một bên "liên quan" hoặc theo quyết định của Bộ
Thương mại (Department of Commerce - DOC) mà không cần đơn kiện của ngành
sản xuất nội địa. Đơn kiện được nộp đồng thời cho cả DOC và Ủy ban Thương mại
Quốc tế Hoa Kỳ (International Trade Commission - ITC). Bên bị kiện trong vụ kiện
chống bán phá giá bao gồm: tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu mặt hàng bị kiện
sang Hoa Kỳ; hiệp hội mà phần lớn các thành viên là các nhà sản xuất, xuất khẩu
mặt hàng bị kiện và Chính phủ nước xuất khẩu bị kiện. Trong vịng 20 ngày (có thể
được gia hạn), DOC sẽ tiến hành xem xét các vấn đề ban đầu của đơn kiện để quyết
định có chấp nhận đơn kiện và khởi xướng điều tra chống bán phá giá hay không.
Việc xem xét "tiền tố tụng" của DOC đối với đơn kiện trong giai đoạn này chủ yếu
tập trung vào hai vấn đề cơ bản: tính đầy đủ của đơn kiện (đây là yếu tố xem xét bắt
buộc) và tư cách khởi kiện của nguyên đơn (chỉ xem xét khi có đơn khiếu nại về
vấn đề này của bị đơn).
(ii) Khởi xướng điều tra
ITC và DOC sẽ bắt đầu điều tra trong vòng 20 ngày sau khi nguyên đơn nộp
đơn khởi kiện bằng việc xem xét đơn khởi kiện có hội đủ các điều kiện luật định
hay không.
Giai đoạn điều tra của ITC và DOC là khác nhau. Đối với ITC là 3 năm trước
thời điểm đơn kiện được nộp, và khi cần thiết ITC vẫn có thể yêu cầu các bên cung

20


×