Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Tiểu luận về các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.57 KB, 37 trang )


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ TMQT


1.1 Khái niệm phòng vệ TMQT
Phòng vệ thương mại theo đó được hiểu là những biện pháp ngăn chặn, hạn chế
(áp thuế bổ sung, quy định hạn ngạch…) áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu từ nước
này sang nước kia, được nước nhập khẩu áp dụng sau một quá trình điều tra mà kết
quả hội đủ ba điều kiện:
(i) Có hiện tượng bán phá giá hoặc bán hàng có trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt;
(ii) ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu chứng minh được thiệt hại;
(iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá, bán hàng trợ cấp hay
nhập khẩu ồ ạt tới ngành hàng sản xuất trong nước của nước nhập khẩu.
Mặc dù có thể khác nhau về bản chất, các biện pháp này đều được áp dụng
nhằm mục tiêu bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên
thị trường nội địa của nước nhập khẩu. Ở thời điểm hiện tại, nói đến các biện pháp
phòng vệ có thể được xem là nhắc đến các biện pháp liên chống bán phá giá, chống
trợ cấp và tự vệ.
1.2 Một Số Biện Pháp Phòng Vệ Thương Mại Phổ Biến
Hệ thống các biện pháp bảo hộ trong thương mại quốc tế (trade remedies) bao
gồm ba trụ cột, đó là: các biện pháp chống bán phá giá (antidumping), chống trợ cấp
(countervailing) và tự vệ thương mại (safeguard) và được áp dụng để bảo vệ thị
trường nội địa trước sự thâm nhập của hàng hóa nước khác.
Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp được áp
dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không công bằng của
hàng hóa nhập khẩu. Nói cách khác, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng dưới
dạng thuế nhập khẩu bổ sung hoặc các biện pháp cam kết loại trừ tác động của việc
bán phá giá khi hàng hóa nước ngoài được bán phá giá vào thị trường nội địa của
nước nhập khẩu và việc bán phá giá đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu đó.
Trong khi biện pháp chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán


sản phẩm với giá thấp nhằm chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ
cạnh tranh thì biện pháp chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây
ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách trợ cấp của
chính phủ nước xuất khẩu. Khi chính phủ của nước xuất khẩu có các chính sách trợ


cấp đối với một loại hàng hóa xuất khẩu và chính sách trợ cấp đó đã tạo lợi thế cho
các nhà xuất khẩu của nước đó bán hàng hóa vào một nước khác với mức giá thấp
khiến ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước của nước khác đó không thể cạnh
tranh được, lúc đó cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu có thể tiến hành các
cuộc điều tra để áp dụng các biện pháp chống trợ cấp (thuế đối kháng) nhằm loại bỏ
tác động của các chính sách trợ cấp đó.
Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc
một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra
thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối
với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ
Tuy nhiên, biện pháp tự vệ là một công cụ "phải trả tiền". Điều này có
nghĩa là các nước được phép áp dụng nó bảo vệ ngành sản xuất của nước mình nhưng
phải "trả giá" cho những thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản xuất
nước ngoài (như một hình thức cân bằng cam kết hương mại với nước khác).Cụ
thể, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường thương mại cho các nước có hàng
hóa bị áp dụng biện pháp tự vệ theo các điều kiện nhất định. Nếu nước này không tuân
thủ, WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng biện pháp trả đũa.


CHƯƠNG 2. CÁC HIỆP ĐỊNH WTO VỀ BIỆN PHÁP PHÒNG VỆ
TMQT
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh
các vấn đề về thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của

Hiệp định về việc Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại
Marrakesh, Maroc vào ngày 15-4 -1994.
Bốn phụ lục đó bao gồm: Các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong
thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà soát chính sách thương
mại của các nước thành viên, các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một
số vấn đề không đạt được đồng thuận tại diễn đàn chung.
2.1 Hiệp định về các Biện pháp tự vệ
Tóm lược
Điều XIX của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại cho phép
một thành viên GATT áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa
khỏi sự gia tăng đột biến của bất kỳ sản phẩm nhập khẩu nào mà gây ra hoặc đe dọa
gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp đó.
Mục tiêu chủ yếu của các biện pháp tự vệ là bảo hộ có thời hạn ngành sản xuất
nội địa để ngành này khôi phục khả năng cạnh tranh.
Các nhóm nội dung chính của Hiệp định về Biện pháp tự vệ

Nhóm các quy định về điều kiện được phép áp dụng biện pháp tự vệ;


Nhóm các quy định về thủ tục điều tra và cách thức áp dụng biện pháp



Nhóm các quy định về biện pháp bồi thường;



Nhóm các quy định ưu tiên dành cho các nước đang phát triển.

tự vệ;


Các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ
các nước thành viên đang phát triển nếu thị phần sản phẩm liên quan không vượt quá
3%, và với điều kiện là tổng thị phần nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển có
thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3% không vượt quá 9% tổng kim ngạch nhập
khẩu sản phẩm liên quan. Một nước thành viên đang phát triển có quyền kéo dài thời
hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong thời hạn không quá 2 năm sau khi hết thời hạn tối
đa bình thường. Một nước thành viên đang phát triển cũng có thể áp dụng lại một biện


pháp tự vệ đối với một sản phẩm đã từng bị áp dụng biện pháp này trước đó sau thời
gian bằng một nửa thời gian mà biện pháp này được áp dụng trước đây, với điều kiện
là thời gian không áp dụng ít nhất là 2 năm.
Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến
hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:


Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;



Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với

hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và


Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến

và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.

Điều kiện chung: Việc tăng đột biến lượng nhập khẩu gây thiệt hại nói trên
phải là hiện tượng mà nước nhập khẩu không thể lường trước được khi đưa ra cam kết
trong khuôn khổ WTO.
Xác định yếu tố “thiệt hại nghiêm trọng”
Một trong các điều kiện để có thể áp dụng biện pháp tự vệ là phải điều tra
chứng minh được rằng ngành sản xuất nội địa phải chịu thiệt hại nghiêm trọng từ việc
hàng nhập khẩu tăng ồ ạt. Cụ thể:


Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 02 dạng: thiệt hại

thực tế, hoặc nguy cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);


Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức nghiêm trọng (tức là ở

mức cao hơn so với thiệt hại đáng kể trong trường hợp của các vụ kiện chống bán
phá giá, chống trợ cấp);


Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân

tích tất cả các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví
dụ tỷ lệ và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi
về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)
Ngành sản xuất nội địa liên quan trong vụ việc tự vệ
Ngành sản xuất nội địa liên quan trong vụ việc tự vệ là ngành sản xuất sản phẩm
tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nhập khẩu bị điều tra (rộng hơn khái



niệm ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa trong các vụ điều tra chống bán phá
giá hay chống trợ cấp).


Sản phẩm tương tự được hiểu là sản phẩm giống hệt hoặc nếu

không có sản phẩm giống hệt thì là sản phẩm tương đồng về tính chất, thành phần,
chất lượng và mục đích sử dụng cuối cùng;


Sản phẩm cạnh tranh trực tiếp là những sản phẩm có thể thay thế

sản phẩm nhập khẩu bị điều tra ở một mức độ nhất định trên và trong các điều
kiện của thị trường nước nhập khẩu.
Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
WTO có đưa ra một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải
tuân thủ, ví dụ:


Đảm bảo tính minh bạch



Đảm bảo quyền tố tụng của các bên



Đảm bảo bí mật thông tin

Các điều kiện về biện pháp tạm thời : Trong trường hợp khẩn cấp có thể áp

dụng biện pháp tự vệ tạm thời dựa trên phán quyết sơ bộ về tổn hại nghiêm trọng.
Thời gian áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời sẽ không được vượt quá 200 ngày.
Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường đi theo trình
tự sau đây:
1.

Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa

nước nhập khẩu;
2.

Khởi xướng điều tra;

3.

Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố:

- Tình hình nhập khẩu;
- Tình hình thiệt hại;
- Mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại;
4.

Ra Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ

Việc áp dụng biện pháp tự vệ phải tuân thủ điều kiện gì?

Về hình thức tự vệ, WTO không có quy định ràng buộc về loại
biện pháp tự vệ được áp dụng. Trên thực tế các nước nhập khẩu thường áp dụng
biện pháp hạn chế lượng nhập khẩu (hạn ngạch) hoặc tăng thuế nhập khẩu đối với
hàng hoá liên quan.





Về mức độ tự vệ, các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở

mức cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành
sản xuất nội địa điều chỉnh;


Về thời hạn tự vệ, biện pháp tự vệ không được kéo dài quá 4

năm (tính cả thời gian áp dụng biện pháp tạm thời) và phải giảm dần theo định
kỳ sau năm đầu tiên áp dụng. Trường hợp biện pháp được áp dụng trên 3 năm thì
phải được xem xét lại vào giữa kỳ để cân nhắc khả năng chấm dứt hoặc giảm mức
áp dụng mạnh hơn nữa;


Về gia hạn tự vệ, có thể gia hạn biện pháp tự vệ nhưng nước nhập

khẩu phải chứng minh được rằng việc gia hạn là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại và
rằng ngành sản xuất liên quan đang tiến hành tự điều chỉnh. Tổng cộng thời gian
áp dụng và gia hạn không được quá 8 năm.
Nước áp dụng biện pháp tự vệ bồi thường cho các nước xuất khẩu
WTO quy định nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường tổn
thất thương mại cho các nước xuất khẩu liên quan (thường là việc nước nhập khẩu tự
nguyện giảm thuế nhập khẩu cho một số nhóm hàng hoá khác đến từ các nước xuất
khẩu đó).
Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải tiến hành thương lượng với các
nước xuất khẩu về biện pháp đền bù thương mại thoả đáng. Trường hợp không đạt

được thoả thuận, nước xuất khẩu liên quan có thể áp dụng biện pháp trả đũa (thường
là việc rút lại những nghĩa vụ nhất định trong WTO, bao gồm cả việc rút lại các
nhượng bộ về thuế quan - tức là từ chối giảm thuế theo cam kết WTO - đối với nước
áp dụng biện pháp tự vệ).
Tuy nhiên, việc trả đũa không được thực hiện trong 3 năm đầu kể từ khi biện
pháp tự vệ được áp dụng (nếu biện pháp áp dụng tuân thủ đầy đủ các quy định của
WTO và thiệt hại nghiêm trọng là thiệt hại thực tế).

2.2 Hiệp định Chống bán phá giá (thực thi điều VI của GATT)
Tóm lược
Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại cho phép
các bên tham gia kí kết hiệp định áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. Chi tiết
các qui tắc về giám sát áp dụng biện pháp này được nêu trong Hiệp định chống bán
phá giá kí kết tại vòng đàm phán Tokyo cuối cùng. Vòng đàm phán Uruguay đã rà


soát lại Hiệp định này để giải quyết nhiều lĩnh vực mà Hiệp định hiện hành còn chưa
chính xác và chi tiết.
Khái niệm Bán phá giá
Bán phá giá trong thương mại quốc tế có thể hiểu là hiện tượng xảy ra khi một
loại hàng hoá được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá
bán của hàng hoá đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.
Thuế chống bán phá giá
Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng
phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là bán phá
giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó.
Về bản chất, đây là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông
thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp
dụng biện pháp chống bán phá giá.
Các nhóm nội dung chính của Hiệp định chống bán phá giá

- Nhóm các quy định về điều kiện áp thuế (cách thức xác định biên phá giá,
thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại, cách thức xác định
mức thuế và phương thức áp thuế…)
- Nhóm các quy định về thủ tục điều tra (điều kiện nộp đơn kiện, các bước
điều tra, thời hạn điều tra, quyền tố tụng của các bên tham gia vụ kiện, biện pháp tạm
thời…)
Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá là gì?
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài bán phá giá là nước nhập
khẩu có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá chỉ
có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành
điều tra chống bán phá giá , ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều
kiện sau:


Hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá (với biên độ phá giá không

thấp hơn 2%);


Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại

đáng kể hoặc bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của
ngành sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);




Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và


thiệt hại nói trên;
Biên độ phá giá được tính như thế nào?
Biên độ phá giá được tính toán theo công thức:
Biên độ phá giá = (Giá Thông thường – Giá Xuất khẩu)/Giá Xuất khẩu
Trong đó:
- Giá Thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước
xuất khẩu(hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu sang một nước thứ
ba; hoặc giá xây dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí quản lý, bán hàng
và khoản lợi nhuận hợp lý – WTO có quy định cụ thể các điều kiện để áp dụng từng
phương pháp này);
- Giá Xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với nhà
nhập khẩu (hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên).
Xác định yếu tố “thiệt hại”

Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 02 dạng: thiệt hại
thực tế, hoặc nguy cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);


Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức đáng kể;



Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ

sở phân tích tất cả các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội
địa (ví dụ tỷ lệ và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu,
thay đổi về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)
Theo quy định của WTO, nước nhập khẩu không được tiến hành điều tra (và
không được áp thuế đối kháng) nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển và có
lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan ít hơn 3% tổng nhập khẩu hàng hoá tương tự

vào nước nhập khẩu. Là một nước đang phát triển, Việt Nam được hưởng quy chế
này.
Tuy nhiên, quy định này sẽ không được áp dụng nếu tổng lượng nhập khẩu sản
phẩm liên quan từ tất cả các nước xuất khẩu có hoàn cảnh tương tự (cũng là nước
đang phát triển có lượng nhập khẩu thấp hơn 3%) chiếm trên 7% tổng lượng nhập
khẩu hàng hoá tương tự vào nước nhập khẩu.


Quyền kiện chống bán phá giá
Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu
bởi các chủ thể có quyền khởi kiện là:


Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (hoặc đại

diện của ngành); hoặc


Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ;

Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi xướng từ
đơn kiện của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:


Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự

chiếm ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ
ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện; và



Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm

tương tự chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành
sản xuất trong nước.
Trình tự một vụ kiện chống bán phá giá
Có thể tóm tắt các bước cơ bản của “vụ kiện chống bán phá giá” như sau:


Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện

(kèm theo chứng cứ ban đầu);


Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra

(hoặc từ chối đơn kiện, không điều tra);


Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá và về thiệt hại (qua

bảng câu hỏi gửi cho các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do
các bên tự cung cấp);


Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dụng biện

pháp tạm thời như buộc đặt cọc, ký quỹ...);



Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc bán phá giá và về thiệt hại (có thể

bao gồm điều tra thực địa tại nước xuất khẩu);


Bước 6 : Kết luận cuối cùng;



Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá (nếu kết

luận cuối cùng khẳng định có việc bán phá giá gây thiệt hại) ;




Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống bán phá giá (hàng năm cơ

quan điều tra có thể sẽ điều tra lại biên phá giá thực tế của từng nhà xuất khẩu và
điều chỉnh mức thuế)


Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp

thuế chống bán phá giá hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại
để xem xét chấm dứt việc áp thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
Từ bước 1 đến bước 7 của một vụ điều tra chống bán phá giá thường kéo dài
khoảng 18 tháng đến 2 năm. Tuy nhiên, bước 8 và 9 có thể kéo rất dài sau đó.
Mức thuế chống bán phá giá
Về cách thức áp dụng:



Về nguyên tắc, mức thuế chống bán phá giá được tính riêng cho

từng nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên phá giá của họ;


Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được

lựa chọn để tham gia cuộc điều tra nhưng hợp tác với cơ quan điều tra thì mức
thuế chống bán phá giá áp dụng cho họ không cao hơn biên phá giá trung
bình của tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra;


Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu không hợp tác, gian lận

trong quá trình điều tra thì sẽ phải chịu mức thuế cao mang tính trừng phạt.
Áp dụng Thuế chống bán phá giá
- Về thời hạn áp thuế: Theo quy định của WTO, việc áp thuế chống bán phá
giá không được kéo dài quá 5 năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày
tiến hành rà soát lại;
- Về hiệu lực của việc áp thuế:
+ Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với tất cả hàng hoá liên quan nhập
khẩu từ nước bị kiện sau thời điểm ban hành Quyết định
+ Quyết định áp thuế có hiệu lực với cả các nhà xuất khẩu mới, người chưa hề
xuất khẩu hàng hoá đó sang nước áp thuế trong thời gian trước đó; nhà xuất khẩu mới
có thể yêu cầu cơ quan điều tra tính mức thuế riêng cho mình, nhưng trong thời gian
chưa có quyết định về mức thuế riêng thì hàng hoá nhập khẩu của nhà xuất khẩu mới
vẫn thực hiện Quyết định áp thuế nói trên;



+ Việc áp dụng hồi tố (áp dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm
ban hành Quyết định) chỉ được thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội
địa là thiệt hại thực tế.
2.3 Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng
Tóm lược
Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng ra đời dựa trên Hiệp định về
Giải thích và Áp dụng Điều khoản VI, XVI và XXIII đã được thảo luận trước đó tại
Vòng đàm phán Tokyo.
Khái niệm Trợ cấp
Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước
hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức
sau mang lại lợi íchcho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
1.

Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp

cổ phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
2.

Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi

thuế, tín dụng);
3.

Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng

chung);
4.


Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư

nhân tiến hành các hoạt động (i), (ii), (iii) nêu trên theo cách thức mà Chính phủ
vẫn làm.
Các loại trợ cấp và cơ chế áp dụng
Có 03 loại trợ cấp, với quy chế áp dụng khác nhau:
Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ)
Bao gồm:
1.

Trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ

thưởng xuất khẩu, trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế
cao hơn mức mà sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm
xuất khẩu, ưu đãi tín dụng xuất khẩu…); hoặc
2.

Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu


Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm
áp dụng.
Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh)
Bao gồm:
1.

Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp không hướng tới

một (một nhóm) doanh nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ
cấp là khách quan; không cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tuỳ tiện xem

xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng đối với bất kỳ đối tượng nào; hoặc
2.

Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):

2.

Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên

cứu tiến hành (với một số điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);
3.

Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể

về mức thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp)
4.

Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp

với môi trường kinh doanh mới
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên
khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện).
Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn
vàng)
Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh).
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt
hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành
viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
“Vụ kiện” chống trợ cấp
Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận - Áp dụng biện

pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) mà nước nhập khẩu tiến hành
đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi có những nghi ngờ
rằng hàng hoá được trợ cấp (trừ trợ cấp đèn xanh) và gây thiệt hại đáng kể cho ngành
sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu.


Thuế đối kháng
Thuế đối kháng (theo ngôn ngữ thông thường là “thuế chống trợ cấp”) là
khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước
ngoài được trợ cấp vào nước nhập khẩu.
Đây là biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) nhằm vào các
nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ
cấp do nước nhập khẩu tiến hành và thuế trợ cấp, nếu có, áp dụng đối với nhà sản xuất
xuất khẩu nước ngoài) chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc
trợ cấp (WTO quy định các cơ chế xử lý khác mang tính đa phương cho trường hợp
này).
Điều kiện áp dụng thuế đối kháng là gì?
Không phải cứ có hiện tượng hàng hoá nước ngoài được trợ cấp là nước nhập
khẩu có thể áp dụng thuế đối kháng đối với hàng hoá đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp đối kháng (mà chủ
yếu là thuế đối kháng) chỉ có thể thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập
khẩu, sau khi đã tiến hành điều tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại
đồng thời của cả 03 điều kiện sau:


Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp - tức là trị

giá phần trợ cấp trên trị giá hàng hoá liên quan - không thấp hơn 1%);



Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại

đáng kể hoặc bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của
ngành sản xuất trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);


Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp

và thiệt hại nói trên.
Xác định Mức trợ cấp

Nếu Nhà nước cho doanh nghiệp vay một khoản với mức lãi suất
thấp hơn mức lãi suất thương mại bình thường cho khoản vay tương tự: Mức trợ
cấp được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức lãi suất này;


Nếu Nhà nước bảo lãnh vay với phí bảo lãnh thấp hơn chi phí mà

doanh nghiệp phải trả cho khoản vay thương mại tương tự nếu không có bảo lãnh
của Nhà nước: Mức trợ cấp sẽ được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức này;


Nếu Nhà nước mua hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ với giá mua

cao hơn mức hợp lý hoặc giá cung cấp thấp hơn mức hợp lý (xác định theo các


điều kiện thị trường của hàng hoá/dịch vụ liên quan): mức trợ cấp là mức chênh
lệnh giá.
Biên độ trợ cấp được tính theo phần trăm mức trợ cấp trên trị giá hàng hoá.

Yếu tố “thiệt hại” được xác định như thế nào?

Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 02 dạng: thiệt hại
thực tế, hoặc nguy cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);


Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức đáng kể;



Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân

tích tất cả các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví
dụ tỷ lệ và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi
về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)
Nguy cơ một mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu không nhiều có thể bị kiện chống trợ
cấp
Theo quy định của WTO, nước nhập khẩu không được tiến hành điều tra (và
không được áp thuế đối kháng) nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển và có
lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng hoá tương tự
vào nước nhập khẩu đó. Là một nước đang phát triển, Việt Nam được hưởng quy chế
này.
Tuy nhiên, quy định này sẽ không được áp dụng nếu tổng lượng nhập khẩu từ
tất cả các nước xuất khẩu có hoàn cảnh tương tự chiếm trên 9% tổng lượng nhập khẩu
hàng hoá tương tự vào nước nhập khẩu.
Thực kiện kiện chống trợ cấp
Một vụ kiện chống trợ cấp chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt đầu bởi
các chủ thể có quyền khởi kiện là:



Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (hoặc đại

diện của ngành); hoặc


Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu;

Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
(i)

Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự
chiếm ít nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản
xuất đã bày tỏ ý kiến ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện; và


(ii) Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự
chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản
xuất trong nước.
Trình tự tiến hành một vụ kiện chống trợ cấp

Bước 1 : Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện
(kèm theo chứng cứ ban đầu);


Bước 2 : Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra

(hoặc từ chối đơn kiện, không điều tra);


Bước 3 : Điều tra sơ bộ về việc trợ cấp và về thiệt hại (qua bảng


câu hỏi gửi cho các bên liên quan, thu thập, xác minh thông tin, thông tin do các
bên tự cung cấp);


Bước 4 : Kết luận sơ bộ (có thể kèm theo quyết định áp dung biện

pháp tạm thời như buộc đặt cọc, ký quỹ...);


Bước 5 : Tiếp tục điều tra về việc trợ cấp và thiệt hại (có thể bao

gồm điều tra thực địa tại nước xuất khẩu);


Bước 6 : Kết luận cuối cùng;



Bước 7 : Quyết định áp dụng biện pháp chống trợ cấp (nếu kết luận

cuối cùng khẳng định có việc trợ cấp gây thiệt hại);


Bước 8 : Rà soát lại biện pháp chống trợ cấp (hàng năm cơ quan

điều tra có thể sẽ điều tra lại biên độ trợ cấp thực tế của từng nhà xuất khẩu và
điều chỉnh mức thuế);



Bước 9 : Rà soát hoàng hôn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp

thuế đối kháng hoặc rà soát lại, cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra lại để xem
xét chấm dứt việc áp thuế hay tiếp tục áp thuế thêm 5 năm nữa).
Xác định mức thuế đối kháng


Về nguyên tắc, mức thuế đối kháng được tính riêng cho từng nhà

sản xuất, xuất khẩu nước ngoài và không cao hơn biên độ trợ cấp xác định cho họ;


Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài không được

lựa chọn để tham gia cuộc điều tra nhưng vẫn hợp tác với cơ quan điều tra thì mức
thuế đối kháng áp dụng cho họ không cao hơn biên độ trợ cấp trung bình của tất cả
các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài được lựa chọn điều tra;


Trường hợp các nhà sản xuất, xuất khẩu không hợp tác, gian lận

trong quá trình điều tra thì sẽ phải chịu mức thuế cao mang tính trừng phạt.
Áp dụng thuế đối kháng


- Về việc rà soát lại mức thuế: Sau khi áp thuế một thời gian (thường là theo
từng năm) cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra lại để xem xét tăng, giảm mức thuế hoặc
chấm dứt việc áp thuế đối kháng nếu có yêu cầu;
- Về thời hạn áp thuế: Việc áp thuế đối kháng không được kéo dài quá 5 năm kể từ
ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại trừ khi cơ quan có

thẩm quyền thấy rằng việc chấm dứt áp thuế sẽ dẫn tới việc tái trợ cấp hoặc gây thiệt
hại;
- Về hiệu lực của việc áp thuế: Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với hàng hoá
liên quan nhập khẩu sau thời điểm ban hành Quyết định; việc áp dụng hồi tố (áp dụng
cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban hành Quyết định) chỉ được thực
hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế.

CHƯƠNG 3. PHÁP LỆNH, QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN
PHÁP PHÒNG VỆ
3.1 . Pháp lệnh chống bán phá giá
Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ quốc hội số 20/2004/PL-UBTVQH11 ngày
29 tháng 4 năm 2004 về việc Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Pháp lệnh này quy định về chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào
Việt Nam. Pháp lệnh bao gồm 6 chương và 29 điều và có hiệu lực từ 01/10/2004.
Nội dung chính của pháp lệnh
Phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này quy định về các biện pháp chống bán phá giá. Thủ tục, nội dung
điều tra để áp dụng các biện pháp đó đối với hàng hóa bị bán phá giá nhập khẩu vào
Việt Nam.
-

Xác định hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam

+ Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi
nhập khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam) nếu
hàng hoá đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường theo quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều này.


+ Giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so

sánh được của hàng hoá tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc
vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.
+ Trong trường hợp khác xác định như sau:
a)

Giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự của nước hoặc vùng lãnh thổ

xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong các điều kiện thương mại
thông thường;
b)

Giá thành hợp lý của hàng hoá cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận

ở mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của nước
hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.
1.

Nguyên tắc áp dụng biện pháp chống bán phá giá

Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết, hợp

lý nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
2.

Việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện khi đã

tiến hành điều tra và phải dựa trên các kết luận điều tra quy định tại Chương II của
Pháp lệnh này.
3.


Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng trực tiếp đối với hàng

hoá bán phá giá vào Việt Nam theo quy định của Pháp lệnh này.
4.

Việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không được gây thiệt hại

đến lợi ích kinh tế - xã hội trong nước.
-

Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá

Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hóa bán phá giá
vào Việt Nam khi có hai điều kiện sau đây:
1.

Hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ bán phá giá phải

được xác định cụ thể;
2.

Việc bán phá giá hàng hoá là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra

thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
-

Căn cứ tiến hành điều tra

1. Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá được thực hiện khi có
hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá của tổ chức, cá nhân đại diện cho

ngành sản xuất trong nước.
khi có hai điều kiện sau đây:
a)

Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá do họ sản xuất hoặc đại

diện chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá tương tự của


ngành sản xuất trong nước;
b)

Khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hoá của các nhà sản xuất

trong nước ủng hộ việc nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá phải
lớn hơn khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá tương tự của các nhà sản xuất
trong nước phản đối yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
2. Bộ trưởng Bộ Thương mại có thể yêu cầu điều tra khi có bằng chứng rõ
ràng về việc bán phá giá hàng hoá gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước.
- Nội dung điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá
1.

Xác định hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam và biên

độ bán phá giá.
2.

Xác định thiệt hại đáng kể hoặc đe dọa gây ra thiệt hại


đáng kể cho ngành sản xuất trong nước trên cơ sở xem xét các nội
dung sau:
a)

Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam

so với hàng hoá nội địa đã, đang hoặc sẽ tăng lên đáng kể một cách tuyệt đối hoặc
tương đối;
b)

Tác động đến việc phải hạ giá hoặc kìm hãm khả năng tăng giá hợp lý

của hàng hoá tương tự trong nước;
c)

Tác động xấu đến ngành sản xuất trong nước hoặc đến sự hình thành

ngành sản xuất trong nước.
3. Quan hệ giữa việc bán phá giá hàng hoá vào Việt Nam với thiệt hại đáng kể
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
1.

Thời hạn điều tra

Thời hạn điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá là không

quá mười hai tháng, kể từ ngày có quyết định điều tra.
2.

Trong trường hợp đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Thương mại có thể quyết


định gia hạn điều tra nhưng không quá sáu tháng.
- Áp dụng biện pháp cam kết
Sau khi có kết luận sơ bộ và trước khi kết thúc giai đoạn điều tra, tổ chức, cá
nhân sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hoá thuộc đối tượng điều tra có thể đưa ra cam kết
với Bộ Thương mại, với các nhà sản xuất trong nước về một hoặc các nội dung sau
đây:
a)

Điều chỉnh giá bán;


b)

Tự nguyện hạn chế khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá bán phá

giá vào Việt Nam.


3.2. Pháp lệnh chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam
Pháp lệnh của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội số 22/2004/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 08 năm
2004 về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam .
Pháp lệnh này quy định về chống trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Pháp lệnh bao gồm 6 chương 31 điều và có hiệu lực từ 01/01/2005.
Nội dung chính của pháp lệnh
Phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này quy định về các biện pháp chống trợ cấp; thủ tục, nội dung điều tra để áp dụng và
việc áp dụng các biện pháp đó đối với hàng hoá được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam.
Các hình thức trợ cấp
1. Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ chuyển vốn cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức

cấp vốn, chuyển giao cổ phần, cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc bảo lãnh để được vay với lãi suất
thấp hơn khi không có bảo lãnh này.
2. bỏ qua hoặc không thu những khoản thu mà tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp.
3. cung cấp hàng hoá, dịch vụ không phải là cơ sở hạ tầng chung hoặc mua hàng hóa, dịch
vụ vào với giá cao và bán ra cho tổ chức, cá nhân với giá thấp hơn giá thị trường.
4. đóng góp tiền vào một cơ chế tài trợ, giao hoặc lệnh cho một tổ chức tư nhân thực thi một
hay nhiều hình thức quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
5. Các khoản trợ cấp khác không thuộc các hình thức trợ cấp quy định tại các khoản 1, 2, 3
và 4 Điều này được xác định một cách công bằng, hợp lý và không trái với thông lệ quốc tế.
Các biện pháp chống trợ cấp
1. Áp dụng thuế chống trợ cấp.
2. Chấp nhận cam kết của tổ chức, cá nhân hoặc của Chính phủ nước hoặc vùng lãnh thổ sản
xuất, xuất khẩu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam về việc tự nguyện chấm dứt trợ


cấp, giảm mức trợ cấp, cam kết điều chỉnh giá xuất khẩu hoặc áp dụng các biện pháp thích hợp
khác.
Nguyên tắc áp dụng biện pháp chống trợ cấp
1. Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết, hợp lý nhằm ngăn ngừa hoặc hạn
chế thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
2. Việc áp dụng biện pháp chống trợ cấp chỉ được thực hiện khi đã tiến hành điều tra và phải
dựa trên kết luận điều tra quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Pháp lệnh này.
3. Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng trực tiếp đối với hàng hoá được trợ cấp nhập
khẩu vào Việt Nam theo quy định của Pháp lệnh này.
4. Việc áp dụng các biện pháp chống trợ cấp không được gây thiệt hại đến lợi ích kinh tế - xã
hội trong nước.
Điều kiện áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng đối với hàng hoá được trợ cấp nhập khẩu vào Việt
Nam khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Hàng hóa nhập khẩu được xác định có trợ cấp theo quy định tại Điều 3 của Pháp lệnh này;

2. Hàng hoá nhập khẩu quy định tại khoản 1 Điều này là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Căn cứ tiến hành điều tra
1. Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp được thực hiện khi có hồ sơ yêu cầu áp
dụng biện pháp chống trợ cấp của tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước.
Tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp được coi là đại diện
cho ngành sản xuất trong nước khi có hai điều kiện sau đây:
a) Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa do họ sản xuất hoặc đại diện chiếm ít nhất
25% tổng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương tự của ngành sản xuất trong nước;
b) Khối lượng, số lượng hoặc trị giá của hàng hóa của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ
việc nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp phải lớn hơn khối lượng, số lượng hoặc trị


giá hàng hóa tương tự của các nhà sản xuất trong nước phản đối yêu cầu áp dụng biện pháp chống
trợ cấp.
2. Bộ trưởng Bộ Thương mại có thể ra quyết định điều tra khi có bằng chứng rõ ràng về việc
hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất trong nước.
Nội dung điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Nội dung điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp bao gồm:
1.

Xác định trợ cấp;

Việc xác định trợ cấp được thực hiện theo quy định sau đây:
+ Xác định hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam, trợ cấp có tính riêng biệt và mức
độ trợ cấp mà hàng hóa đó được hưởng;
+ Tổng giá trị trợ cấp. Cách tính tổng giá trị trợ cấp được quy định như sau:
a) Trường hợp trợ cấp là một khoản cấp không hoàn lại thì giá trị trợ cấp được tính trên cơ
sở giá trị trợ cấp thực tế cấp cho tổ chức, cá nhân đó;

b) Trường hợp trợ cấp được cấp dưới hình thức một khoản vay thì giá trị trợ cấp được tính
trên cơ sở chênh lệch giữa mức lãi suất phải trả cho khoản vay đó theo điều kiện thương mại bình
thường và mức lãi suất mà tổ chức, cá nhân thực tế phải trả cho khoản vay đó;
c) Trường hợp trợ cấp được cấp dưới hình thức bảo lãnh vay thì giá trị trợ cấp được xác định
trên cơ sở phần chênh lệch giữa mức lãi suất phải trả trong trường hợp không được bảo lãnh và mức
lãi suất thực tế phải trả khi được bảo lãnh;
d) Trường hợp trợ cấp được cấp dưới hình thức chuyển giao cổ phần thì giá trị trợ cấp được
xác định trên cơ sở lượng vốn thực tế mà doanh nghiệp được nhận;
đ) Trường hợp trợ cấp được cấp dưới hình thức Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ mua hàng
hóa, dịch vụ vào với giá cao hơn giá thị trường và bán ra với giá thấp hơn hoặc bằng giá thị trường cho tổ
chức, cá nhân thì giá trị trợ cấp được xác định trên cơ sở phần chênh lệch giữa giá thị trường với giá thực tế


mà Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ phải trả cho hàng hóa, dịch vụ đó hoặc phần chênh lệch giữa giá
mua vào với giá bán ra của Chính phủ hoặc cơ quan của Chính phủ cho tổ chức, cá nhân;
+ Giá trị trợ cấp được cấp dưới hình thức khác sẽ được tính một cách công bằng, hợp lý và không
trái với thông lệ quốc tế.
2. Xác định thiệt hại và đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
Việc xác định thiệt hại và đe dọa gây ra thiệt hại được thực hiện theo quy định sau đây:
+ Việc xác định thiệt hại vật chất và nguy cơ gây thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước
phải bảo đảm dựa trên những bằng chứng cụ thể;
+ Xác định mức độ thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong
nước trên cơ sở xem xét các nội dung sau:
a) Số lượng, khối lượng hoặc trị giá hàng hóa nhập khẩu được hưởng trợ cấp đã và đang tăng
lên đáng kể do giá bán thấp làm giảm thị phần của ngành sản xuất trong nước, thay đổi cơ cấu tiêu
thụ, giảm năng suất của ngành sản xuất trong nước;
b) Giá hàng hóa nhập khẩu thấp do được hưởng trợ cấp dẫn đến giá hàng hóa do ngành sản
xuất trong nước bị giảm theo;
c) Tác động của hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp đối với các yếu tố về chỉ số kinh tế, năng
suất, lợi nhuận của ngành sản xuất trong nước;

d) Tác động của hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp trong tương quan với sản lượng của sản
phẩm tương tự sản xuất trong nước. Trường hợp việc xác định đó không thực hiện được thì tác động
này được đánh giá thông qua việc xem xét sản lượng của một nhóm sản phẩm nhất định hoặc một
sản phẩm trong phạm vi hẹp nhất của sản phẩm tương tự sản xuất trong nước;
+ Khi hàng hóa nhập khẩu từ hai hay nhiều nước hoặc vùng lãnh thổ cùng là đối tượng điều
tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp thì cơ quan điều tra có thể đánh giá tác động của việc nhập
khẩu từ các nước hoặc vùng lãnh thổ đó khi đã xác định được:


×