Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Khoá luận tốt nghiệp truyện cổ viết lại của nguyễn huy tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.11 KB, 61 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Truyện ngắn Việt Nam có sự đổi mới khá tồn diện từ cảm hứng
sáng tác, chủ đề, đề tài đến thi pháp. Một trong những biểu hiện của sự đổi
mới là sự xuất hiện một số truyện mang khuynh hƣớng của truyện dân gian,
truyện lịch sử và truyền thuyết. Bằng việc mƣợn cốt truyện dân gian rồi viết
lên những câu chuyện mới, các tác giả đã mang đến cho ngƣời đọc những
truyện cổ viết lại đầy mới mẻ và hấp dẫn. Chính vì vậy, truyện ngắn Việt
Nam đã gây đƣợc nhiều ấn tƣợng cho độc giả đồng thời mở hƣớng đi mới cho
văn học của nƣớc ta.
1.2. Tuyện cổ viết lại không phải là một hiện tƣợng mới lạ mà đã trở
thành rất quen thuộc trong văn học Việt Nam với nhiều tên tuổi khác nhau
nhƣ Nguyễn Huy Tƣởng, Phạm Hổ, Võ Thị Hảo, Lê Đạt, Nguyễn Huy Thiệp,
Chu Nam,… Qua thời gian phát triển, loại truyện này đạt đƣợc khơng ít
những thành tựu và gây nhiều tiếng vang. Nó trở thành một hiện tƣợng đáng
chú ý, đặt ra nhiều mối quan tâm cho giới nghiên cứu.
1.3. Nguyễn Huy Tƣởng là một tác giả có nhiều truyện ngắn đặc sắc,
nhất là những truyện ngắn thuộc truyện cổ viết lại. Hầu hết các câu chuyện
viết lại của các tác giả đều khơi gợi cảm xúc mới lạ cho ngƣời đọc, khiến
ngƣời đọc khi “buông sách” vẫn phải “nghĩ tiếp” về vấn đề tác phẩm nói đến.
Truyện mang đến cho độc giả cái nhìn hiện thực hơn về con ngƣời trong cuộc
sống. Do vậy, việc tìm hiểu truyện cổ viết lại của Nguyễn Huy Tƣởng khơng
những góp phần làm sáng tỏ giá trị đổi mới của truyện ngắn Việt Nam mà cịn
góp phần khẳng định nét dấu ấn cá nhân của tác giả trong truyện cổ viết lại.
Đồng thời, qua việc tìm hiểu này cịn giúp cho ngƣời nghiên cứu đƣợc rèn
luyện thêm năng lực nghiên cứu cũng nhƣ đánh giá, cảm nhận giá trị tƣ
tƣởng, giá trị nhân văn của truyện ngắn Việt Nam.

1



2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề “viết lại” trong văn xuôi Việt Nam
Vấn đề “viết lại” đã xuất hiện rất sớm trên nền văn học thế giới với nhiều
tên tuổi nổi tiếng với những truyện viết lại thật đặc sắc nhƣ Lỗ Tấn với việc
viết lại Chuyện cũ viết lại (Cố sự tân biên) - chuyên chở một vấn đề “nhạy
cảm” của xã hội Trung Quốc những năm đầu thế kỉ XX.
Đến văn xuôi Việt Nam, “viết lại” trở thành một hiện tƣợng khá phổ
biến. Trong Con đường giải m văn học trung đại Việt Nam (Nxb Giáo dục,
2007) của tác giả Nguyễn Đăng Na đã chỉ ra rất rõ văn học giai đoạn này bắt
đầu xuất hiện những tác phẩm sử dụng phƣơng thức sƣu tầm, ghi chép, cải
biến là chủ yếu. Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu nhƣ Lĩnh Nam chích
quái liệt truyện của Vũ Quỳnh, Lĩnh Nam chích qi lục của Đồn Vĩnh Phúc,
Tân đính Lĩnh Nam chích quái liệt truyện của Quế Am đều là tác phẩm cải
biến từ Lĩnh Nam chích qi lục của Trần Thế Pháp.
Sang thời kì hiện đại, việc “viết lại” đƣợc mở rộng quy mô với nhiều thể
loại khác nhau, với nhiều tác giả và những câu chuyện cổ viết lại đặc sắc,
mang đậm dấu ấn riêng của cá nhân nhƣ: Khái Hƣng với tác phẩm Vợ Cóc;
Tơ Hồi với tác phẩm Chuyện Nỏ thần; Phạm Hổ với tác phẩm Ngựa thần t
đâu đến, Lửa vàng, Lửa trắng và lửa vàng, Lửa nâu;…
Có thể thấy, đến nay việc “viết lại” đã có một bề dày lịch sử trong văn
xuôi Việt Nam và đƣợc thể nghiệm trên nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, ở
mảng truyện ngắn thì việc “viết lại” đã đạt đƣợc thành cơng đáng kể với nhiều
hình thức đa dạng, phong phú. Và Nguyễn Huy Tƣởng đƣợc xem là một trong
những cây bút truyện ngắn xuất sắc góp phần khơng nhỏ cho sự thành công ở
thể loại này qua những truyện cổ viết lại mới mẻ, hấp dẫn.
2.2. Ý kiến về truyện cổ viết lại của Nguyễn Huy Tưởng
Truyện cổ viết lại của Nguyễn Huy Tƣởng xuất hiện đã đƣợc giới nghiên
cứu quan tâm nhƣng nó vẫn cịn là một vấn đề rất mới. Phần nhiều, sự quan

2



tâm chỉ dừng lại ở những bài viết, bài tiểu luận đề cập đến một vấn đề nào đó
liên quan đến truyện cổ viết lại của Nguyễn Huy Tƣởng… Ở đây, ngƣời viết chỉ
xin dẫn ra những nghiên cứu mang tính tiêu biểu nhất liên quan đến đề tài này.
Tiến sĩ Nguyễn An cho rằng: Nếu khơng có Nguyễn Huy tƣởng thì văn
đàn văn học hiện đại Việt Nam, nhất là ở mảng đề tài truyện viết cho thiếu nhi
sẽ vơi đi sự bề thế, kì vĩ, tráng lệ, mặc dù cạnh ơng đã có Tơ Hồi và sau ơng
cũng có các tác giả đáng nể nhƣ Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Hổ, Nguyễn Xuân
Khánh, Hoàng Quốc Hải, Hà Ân, Nguyễn Quang Thân,…Cũng theo Nguyễn
An, Nguyễn Huy Tƣởng đã gánh việc mở đầu một cách đích đáng cho dịng
văn chƣơng viết về đề tài lịch sử ở các truyện cho thiếu nhi.
Tơ Hồi – tác giả của Dế mèn phiêu lưu kí - ngƣời có nhiều thành cơng
và kinh nghiệm viết truyện thiếu nhi - đã từng nhận định: “Trong văn học cho
thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến ây giờ chưa ai chuyên
và thành c ng như Nguyễn Huy Tưởng” [11,349]. Đó là một nhận xét xác
đáng ghi nhận những thành tựu và đóng góp của Nguyễn Huy Tƣởng cho văn
học thiếu nhi Việt Nam nhất là mảng truyện cổ viết lại.
Trong một bài viết gửi Nguyễn Huy Tƣởng, nhà văn Tơ Hồi cũng đã
từng nói: “Anh thường ước mơ làm sao cho hết thảy con em – cả một thế hệ
ước sau chúng ta, khi các em v a đến lứa tuổi làm quen với sách vở, đ

iết

thưởng thức và say mê những câu chuyện do tưởng tượng mới thấy… Anh
thèm c tài năng nào đem được cả nghìn năm lịch sử dựng nước iến thành
một ộ truyện ch i lọi” [11,348].
Nhà văn Nguyễn Nhƣ Phong từng nhận xét: “Các tác phẩm của
Nguyễn Huy Tưởng, dù là tiểu thuyết hay kịch, hay kí đi nữa, cũng đều gần
gũi vơi thiếu nhi. Viết cho các em, ng cũng chọn những thế tài phù hợp với

mình là viết truyện cổ tích và lịch sử”. [11-15].

3


Trong bài một bài viết gửi Nguyễn Huy Tƣởng, Phạm Hổ từng nhận xét:
“C thể n i, điều nổi lên rõ nhất, lớn nhất trong các tác phẩm viết cho các em
(và cho cả người lớn) của Nguyễn Huy Tưởng là lòng yêu đất nước, yêu dân
tộc. Niềm tự hào đất nước,về dân tộc hết sức sâu sắc và lắng đọng” [11, 353].
Trong bài viết của mình gửi Nguyễn Huy Tƣởng, Vân Thanh cũng đã
từng nhận xét: “Nguyễn Huy Tưởng chọn chủ đề truyền thống theo lối riêng
của mình thể hiện qua những đề tài cổ tích và lịch sử. Anh đ đi sâu nghiên
cứu, tìm tịi và sáng tạo” [11, 338].
Những sáng tác của Nguyễn Huy Tƣởng thuộc phạm vi truyện cổ viết lại
đã đƣợc quan tâm. Tuy nhiên, do yêu cầu và mục đích nghiên cứu, các bài
viết, các tiểu luận, luận văn chỉ mới đề cập đến những truyện cổ viết lại của
Nguyễn Huy Tƣởng bằng những nhận xét, những khái quát đề cập đến khá
nhiều phƣơng diện từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Đến nay, chƣa có
một cơng trình chun biệt nào nghiên cứu về truyện cổ viết lại của Nguyễn
Huy Tƣởng. Trân trọng và kế thừa những ý kiến của các nhà văn, nhà nghiên
cứu, chúng tơi tiếp tục tìm hiểu một cách hệ thống về mảng truyện cổ viết lại
của cố nhà văn Nguyễn Huy Tƣởng.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là vấn đề viết lại trong truyện của
Nguyễn Huy Tƣởng.
- Trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp phạm vi nghiên cứu của đề tài
chủ yếu tập trung vào các tác phẩm của Nguyễn Huy Tƣởng viết dành cho
thiếu nhi đƣợc viết lại từ những truyện cổ viết lại. Cụ thể là các tác phẩm:
Tìm mẹ, Con c c là cậu ng


iời, An Dương Vương ây thành

c, Truyện

Tấm Cám, Thằng Quấy, Chiếc ánh chưng. Ngồi ra, trong q trình nghiên
cứu, khóa luận có sử dụng một số tác phẩm khác của Nguyễn Huy Tƣởng làm
tƣ liệu tham khảo thêm.

4


Khi cần thiết chúng tôi sẽ so sánh với một số tác phẩm thuộc nhóm sáng
tác truyện cổ viết lại của các tác giả khác nhƣ Phạm Hổ, Tơ Hồi, Nguyễn
Huy Thiệp,…
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp hệ thống, thống kê các tác giả, tác phẩm Truyện cổ viết
lại trong giai đoạn văn học Việt Nam hiện đại cũng nhƣ thống kê những tác
phẩm đã đƣợc ấn hành của Nguyễn Huy Tƣởng nhằm giúp ngƣời đọc dễ nhận
biết mục đích của ngƣời nghiên cứu.
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu giữa truyện cổ viết lại của Nguyễn
Huy Tƣởng với truyện cổ viết lại của một số tác giả khác nhằm tìm ra điểm
khác biệt trong cách viết của Nguyễn Huy Tƣởng. Từ đó đƣa đến nhận xét
khách quan, khẳng định dấu ấn cá nhân trong các sáng tác thuộc truyện cổ
viết lại của Nguyễn Huy Tƣởng.
- Phƣơng pháp phân tích các tác phẩm truyện cổ viết lại của Nguyễn
Huy Tƣởng cũng nhƣ một số tác phẩm của một số tác giả khác để tìm ra sự
đặc sắc của loại truyện này.
5. Cấu trúc khóa luận
Khóa luận gồm ba phần chính: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Trong đó, phần nội dung gồm ba chƣơng:

Chƣơng 1: Nguyễn Huy Tƣởng với việc viết lại truyện cổ
Chƣơng 2: Truyện cổ viết lại của Nguyễn Huy Tƣởng – sự nối tiếp chủ
đề và những nội dung mới
Chƣơng 3: Đặc trƣng nghệ thuật trong truyện cổ viết lại của Nguyễn Huy
Tƣởng

5


NỘI UNG
CHƢƠNG 1
NGU ỄN HU TƢỞNG VỚI VIỆC VI T ẠI TRU ỆN C
1.1. Giới thiệu chung về truyện cổ viết lại
1.1.1. Khái quát về truyện cổ viết lại
Truyện cổ là một thuật ngữ đƣợc ghép bởi hai từ, bao gồm trong đó khái
niệm truyện: chỉ một loại hình tự sự, cổ: có nghĩa là ưa, cũ. Tƣơng ứng với
khái niệm truyện cổ, trong kho tàng văn học của chúng ta có Truyện cổ đời
ưa, truyện cổ dân gian. Với cách hiểu này khái niệm truyện cổ có một nội
hàm rất rộng trong đó bao gồm các thể loại: thần thoại, truyền thuyết, truyện
cổ tích, truyện cƣời dân gian, truyện ngụ ngôn dân gian…
Truyện cổ viết lại là một khái niệm rộng bao hàm trong đó việc viết lại
các truyện cổ truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ng n, truyện cười…).
Có ý kiến gọi là truyện cổ viết lại nhƣng đối tƣợng viết lại khá h p - chỉ là
truyện cổ tích. Qua khảo sát thực tế tác phẩm, chúng tôi nhận thấy đối tƣợng
của viết lại khá phong phú, gồm cả truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ
ngơn, truyện cƣời,… Tác giả Hoàng Thị Kim Ngọc trong bài viết Nhân vật
truyện cổ dân gian trong sáng tác văn học hiện đại nhận định: “T điểm tựa là
hình tượng nhân vật trong truyện cổ dân gian truyền thống, tác giả hiện đại
ằng nhận thức và tình cảm cá nhân, sẽ c sự lựa chọn hoặc đối lập với truyền
thống để kế th a hay sáng tạo, ổ sung cho phù hợp với sự thụ cảm nghệ thuật

của độc giả. Tiếng n i, quan điểm thẩm mĩ của tác giả trong tác phẩm mượn
nhân vật trong truyện cổ dân gian thường thẳng thắn, tường minh. Tuy nhiên
điểm chung mà người đọc dễ nhận thấy là sự độc đáo trong điểm nhìn nghệ
thuật đ giúp các tác giả đương đại nêu nổi ật lên những vấn đề vĩnh cửu về
cái thiện, cái ác, về quan điểm cá nhân, về tình yêu, về số phận,… và những i
kịch đang dằn vặt con người trong đời sống hiện đại” [8].

6


Phân iệt truyện cổ viết lại với truyện “giả cổ tích” một dạng truyện
ngắn sử dụng “chuyện xƣa tích cũ”, thiên về phong cách “nhại” thể loại) –
nhƣ tên gọi của nó khơng phải truyện cổ đúng nghĩa, mà là “giả” và “nhại”
cổ. Truyện cổ viết lại thiên về cách tự sự) cũng thuộc một dạng của thể loại
truyện “chuyện xƣa tích cũ” là thể loại văn học tự sự do các nhà văn viết lại
hoặc sáng tạo lại dựa trên cơ sở kế thừa truyện cổ dân gian.
1.1.2. M t s đ c trưng v

ạng th c ch nh củ truyện cổ viết lại

Đặc trƣng thứ nhất, truyện cổ viết lại có điểm tựa là truyện cổ dân gian.
Nghĩa là dựa trên cốt truyện của các truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích… vốn đã quen thuộc, tác giả dân gian sẽ “gia cố” viết lại, làm mới, sáng
tạo) thành những câu chuyện mới vừa mang nội dung đặc sắc, độc đáo, phong
phú, vừa chứa đựng tinh thần hiện đại. Thông thƣờng, những tác phẩm văn
học dân gian đƣợc các tác giả đƣơng đại khai thác đều là những truyện tiêu
biểu, đƣợc nhiều ngƣời biết đến và trở thành nguyên mẫu mang tính cố định
cả về nội dung tác phẩm lẫn nghệ thuật. Vì thế, việc viết lại là một thử thách
lớn đối với ngƣời sáng tác. Để viết lại đƣợc một tác phẩm, tác giả phải nắm
vững cốt truyện trên cơ sở đó triển khai hợp lí những yếu tố sáng tạo lại nhƣ

tính cách, tâm lí nhân vật, tình tiết truyện,… Hơn thế nữa, do nội hàm truyện
dân gian rất phong phú và đặc sắc về đề tài, sự cách xa nhau về ý thức thẩm
mĩ và những tâm lí văn hóa thời đại nên việc viết lại khơng hề đơn giản. Song
đó cũng là tiền đề cho các nhà văn sau này thỏa sức sáng tạo, xây dựng nên
những tác phẩm mới đặc sắc.
Đặc trƣng thứ hai, truyện cổ viết lại mang tính hiện đại. Nếu truyện cổ là
sản phẩm của tập thể nhân dân, thì truyện cổ viết lại là sản phẩm của cá nhân.
Điều này, là một trong những yếu tố làm thành phẩm chất hiện đại của truyện
cổ viết lại. Tính hiện đại thể hiện ngay trong cách tiếp cận, khả năng sáng tạo,
bổ sung dựa trên ý thức nghệ thuật cá nhân của các tác giả đƣơng đại. Chính

7


vì vậy, ở truyện cổ viết lại, cá tính sáng tạo của nhà văn đƣợc thể hiện khá rõ.
Tùy vào từng cách khai thác và tiếp cận ở những phƣơng diện khác nhau sẽ
hình thành nên các tác phẩm viết lại khác nhau mang phong cách sáng tạo
riêng của từng nhà văn. Ví dụ cùng viết về Trƣơng Chi nhƣng mỗi tác giả lại
xây dựng thành những câu chuyện mới, mang nội dung mới. Trƣơng Chi của
Nguyễn Huy Thiệp là một Trƣơng Chi thậm xấu, nhƣng có giọng hát “làm
bồng bềnh sơng nƣớc”, có tính cách mạnh mẽ và thậm chí có thể chửi bậy,
văng tục,… khác hẳn Trƣơng Chi trong Tiếng Trăng của Lê Minh Hà cũng là
một chàng trai hát hay nhƣng xấu xí và “nghèo hèn quá mức bình thƣờng”
nên đã khơng thể thực hiện khát vọng hạnh phúc riêng của mình đƣợc. Hay
cùng viết về An Dƣơng Vƣơng nhƣng mỗi tác giả lại có cách xây dựng nhân
vật theo cách riêng của mình mang một nội dung rất riêng. An Dƣơng Vƣơng
của Phạm Hổ là một vị vua thận trọng, ln lo lắng vì dân, cho nhân dân,
nhƣng lại để mất lẫy thần và có phần nóng nảy, cục tính hay cau mày, nhăn
mặt,… Trong khi đó An Dƣơng Vƣơng của Nguyễn Huy Tƣởng trong truyện
An Dương Vương ây thành c lại khác hẳn với An Dƣơng Vƣơng của Phạm

Hổ. Đó là một vị vua ln lo nghĩ cho nhân dân, chăm lo cho đời sống nhân
dân, sống vì nhân dân đến mức mất ăn mất ngủ, và có tinh thần cảnh giác
chính trị. ởi thế vua không để mất lẫy thần và giữ đƣợc thành Ốc, tiêu diệt
đƣợc con Kê tinh. Vị vua ấy đƣợc nhân dân vơ cùng kính trọng q mến. ởi
thế, khi đọc An Dương Vương ây thành

c của Nguyễn Huy Tƣởng, ngƣời

đọc luôn cảm thấy đồng cảm, thỏa mãn, hả hê… Nhƣ vậy, khi khai thác
truyện dân gian để viết lại thành những tác phẩm mới với những nội dung
mới, các tác giả đƣơng đại cũng đồng thời thể hiện cá tính sáng tạo riêng của
mình trong từng tác phẩm, khẳng định phong cách riêng của từng tác giả.

8


Trên thực tế, truyện cổ viết lại tồn tại dƣới nhiều dạng thức, tƣơng
đƣơng với mỗi dạng thức là một mức độ “viết lại” khác nhau. Thơng thƣờng
thì phổ biến ở ba dạng thức sau.
Dạng thức thứ nhất là truyện viết lại từ những bản kể sƣu tầm. Đây có
thể coi nhƣ mức độ đơn giản nhất của việc “viết lại”. Ở dạng viết lại này, có
thể kể tới các tác giả tiêu biểu nhƣ Nguyễn Đổng Chi. Nhà văn sử dụng chất
liệu chủ yếu từ việc sƣu tầm những truyện cổ từ thời sơ sử, thƣờng là truyện
hoang đƣờng mà nhân vật là thần hay nhân vật anh hùng đƣợc thần thoại hóa
Phù Đổng thiên vƣơng, Cao Sơn đại vƣơng, Thục An Dƣơng Vƣơng,…)
hoặc đó là những thần súc vật rồng, rắn, hổ, …) hay những anh hùng dân tộc
đã từng đấu tranh chống giặc ngoại xâm Hai

à Trƣng,


ố cái đại

vƣơng,…). Mặt khác, nhà văn còn sƣu tập những truyện cổ tích và truyền
thuyết giải thích nguồn gốc của một số vật hay loài vật dƣa hấu, trầu cau, sầu
riêng, huyết dụ, các loài chim khác nhau, ếch nhái, khỉ, cá heo, con sam, con
sông, con quạ), những tuyện cổ tích và truyền thuyết giải thích nguồn gốc một
số đặc điểm của thiên nhiên hay loài vật tiếng kêu của một số loài chim, tục
ăn Tết, tục cƣới hỏi), những truyện cổ tích và truyền thuyết có liên quan đến
một số thắng cảnh hay đại mạo bất thƣờng ở Việt Nam: hồ a – bể, hồ Gƣơm,
đầm Nhất – dạ, đầm Mực, sông Nhà – bè, sông Tô – lịch, núi Ngũ – hành,…
và một vài tháp tháp Thành lồi, tháp Nhạn, tháp Dƣơng – lệ),… Qua những
bản kể sƣu tầm, ngƣời đọc tiếp nhận thêm căn cứ giải thích về một số hiện
tƣợng tự nhiên trong cuộc sống cũng nhƣ có thêm hiểu biết về nguồn gốc
những vị thần, nguồn gốc những anh hùng của lịch sử dân tộc.
Dạng thức thứ hai là những truyện viết lại cho thiếu nhi. Ở loạt truyện
này, tác giả tỏ ra trung thành với văn học dân gian, dựa theo nguyên tắc và thi
pháp truyện dân gian để sáng tác. So với dạng thức thứ nhất, loại truyện này
có sự phát triển hơn, bên cạnh một số tác phẩm tự sự đƣợc sáng tác dựa trên

9


cơ sở cốt truyện dân gian cịn có một số truyện nhà văn chỉ dựa vào kết thúc
truyện dân gian) rồi viết một truyện mới. Tuy nhiên, truyện viết lại phải dựa
trên cơ sở đảm bảo tính lơgic về sự phát triển của nội dung câu chuyện. Tiêu
biểu cho dạng thức này có thể kể tới Nguyễn Huy Tƣởng với Con c c là cậu ng
iời, Chiếc ánh chưng; Phạm Hổ với ba tác phẩm chính Ngựa thần t đâu đến
dựa theo truyền thuyết Thánh Gióng; Lửa vàng, lửa trắng nhân vật chính là Hổ
con), Lửa vàng, lửa trắng, lửa nâu nhân vật chính là


áo) cùng lấy cơ sở từ

truyện Trí kh n của ta đây;... Qua những tác phẩm viết lại này, nhà văn vừa đem
đến cho ngƣời đọc những câu chuyện đạo đức về cái thiện, cái ác đồng thời cũng
là những bài học giáo dục hữu ích cho thiếu nhi, giúp các em nhận thức đúng –
sai, tốt – xấu, góp phần tích cực trong việc hồn thiện nhân cách ở trẻ.
Dạng thức thứ a của truyện cổ viết lại – mức độ cao nhất của việc “viết lại”
truyện cổ - lấy điểm tựa là một truyện dân gian truyền thống của dân tộc hoặc
nhân loại), tác giả tự sự sẽ viết lại, viết thêm hoặc dựa trên những yếu tố cơ bản
nhƣ nhân vật, sự kiện... để sáng tạo thành những cốt truyện hoàn toàn mới. Loại
truyện này có nguồn gốc từ khá lâu, xuất hiện ngay từ thời kì trung đại với những
tác phẩm của Ngơ Văn Phú (Một đời hồng phái, Bạn cùng trường, Nữ hồng
đảo yến)... sau đó nhanh chóng đƣợc phổ biến trong đời sống văn học Việt Nam.
Chính vì thế mà nó đã trở thành một khuynh hƣớng đáng chú ý trong văn học của
ta. Cũng từ đây, truyện cổ viết lại xuất hiện ngày càng nhiều trong sáng tác trung
đại đến sáng tác hiện đại. Tuy nhiên ở thời trung đại, việc sáng tác chỉ dừng lại ở
sự ghi chép hoặc phạm vi kể lại, các tập truyện có nhiều ngƣời tham gia sửa chữa
hoặc thêm bớt nên “hầu nhƣ khơng đƣợc ghi nhận ở góc độ cá nhân mà đƣợc
quan niệm nhƣ thể là các truyện dân gian mà bất kì ai cũng có thể thể nghiệm
phong cách của mình trên chất liệu ấy...”. Do vậy thời kì này, truyện cổ viết lại
chƣa thực sự đƣợc quan tâm mà phải đến thời kì đổi mới, nó mới thực sự đƣợc
chú ý và phát triển mạnh.

10


1.1.3. Hiện tượng truyện cổ viết lại trong truyện ngắn Việt N m hiện đại
Truyện ngắn Việt Nam sau 1945 có nhiều sự thay đổi đáng kể. Cùng với
đó, truyện ngắn cũng có xu hƣớng vận động và phát triển mới. Trở về nguồn
cội với các tác giả dân gian và lịch sử của dân tộc đƣợc xem là một trong

những xu hƣớng vận động khá phổ biến của văn học giai đoạn này. Nói cách
khác đây chính là sự thâm nhập của truyện cổ viết lại vào văn xuôi Việt Nam.
Ở mảng truyện này có thể kể đến các tên tuổi nhƣ: Tơ Hồi với những tác
phẩm tiêu biểu nhƣ: Chuyện nỏ thần - một trong những tác phẩm đặc sắc,
thành công trong việc sáng tác theo cách “viết lại”. Nguyên Hồng với những
tác phẩm dành cho thiếu nhi cũng đƣợc sáng tác dựa theo cách “viết lại” nhƣ:
Phù Đổng Thiên vương, Mai An Tiêm, Trưng Trắc, Trưng Nhị,… Mỗi nhân
vật mỗi tính cách, mỗi cuộc sống riêng nhƣng những truyện viết lại ấy ln để
lại trong lịng lứa tuổi thiếu nhi sự thích thú, nâng niu. Nó chứng tỏ đôi tai
tinh diệu của ông lắng nghe mọi biến động của cuộc sống. Phạm Hổ cũng có
nhiều truyện dành cho thiếu nhi theo cách “viết lại”: Chú bị tìm bạn, Chuyện
hoa chuyện quả, Mị Châu – Trọng Thủy,… Trong số những cây bút viết lại
ấy, Nguyễn Huy Tƣởng là một trong những tác giả sớm thể hiện đƣợc phong
cách riêng. Nguyễn Huy Tƣởng đã dành tâm huyết của mình viết dành tặng
cho lứa tuổi thiếu nhi, sáng tạo lại dựa trên những cốt truyện thần thọai,
truyền thuyết, truyện cổ tích, đƣa vào truyện những nội dung mới mang hơi
thở của thời đại: Tìm mẹ, An Dương Vương ây thành

c, Chiếc ánh chưng,

Truyện Tấm Cám, Con cóc là cậu ơng Giời, Thằng Quấy,… Những tác phẩm
ấy đã đi vào lòng lứa tuổi thiếu nhi theo một cách rất riêng, rất độc đáo, in sâu
trong tâm thức mỗi thế hệ nhi đồng.
Trong văn học hiện đại Việt Nam sau 1975 cũng có những sáng tác theo
lối “viết lại” rất thành cơng và để lại những dấu ấn riêng trong lòng độc giả,.
Trong bài viết Một ngã rẽ thú vị của truyện ngắn đương đại Việt Nam của

11



Trần Viết Thiện cũng đã khẳng định: “Sự thâm nhập của huyền thoại vào văn
học viết Việt Nam sau 1986 là một hiện tượng lạ... Yếu tố huyền thoại trong
truyện ngắn Việt Nam là kết quả của một quá trình tương tác v a đa dạng v a
nhiều chiều. Đ là sự trở về với những huyền thoại, những mẫu cổ trong vốn
liếng folklore dồi dào của dân tộc; là sự thâm nhập, tác động, thẩm thấu của
yếu tố huyền thoại trong văn học Việt Nam qua một chu kì phát triển dích dắc;
và cịn là sự kế th a, tiếp thu thành tựu của văn học dân gian truyền thống”
[15]. Chính sự thâm nhập này làm cho diện mạo văn học thay đổi, đặc biệt là
ở mảng truyện ngắn, đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể. Đó là sự góp mặt
của nhiều tác giả với sự xuất hiện của hàng loạt truyện cổ viết lại nhƣ:
Nguyễn Huy Thiệp với Những ngọn gió Hua Tát – một trong những tác phẩm
thành công sáng tác theo cách “viết lại”. Tập truyện gồm mƣời truyện mà mỗi
truyện là một câu chuyện khác nhau kể về cuộc sống của con ngƣời ở bản
Hua Tát. Những con ngƣời ấy có những bi kịch, những nỗi đau khác nhau: nỗi
đau của một con ngƣời bé nhỏ nhƣ chàng Khó, nàng ua, nàng Sinh, nỗi đau
của một tập thể nhƣ gia đình ơng lão trong Sói trả thù, nỗi đau của tất cả
ngƣời dân bản Hua Tát trong Nạn dịch hay nỗi đau của cả một thế hệ... Tất cả
đều đƣợc tái hiện qua những con ngƣời cụ thể. Bởi thế những câu chuyện của
Nguyễn Huy Thiệp ln hƣớng chúng ta tới lịng cao thƣợng và tình ngƣời
đồng thời nhắc nhở ta có đủ bản lĩnh, đủ sức mạnh để giữ lại những giá trị
nhân cách tốt đ p thuộc về mình.
Ngồi ra, gây nhiều sự chú ý của văn học thời kì sau 1975 cịn phải kể
tới Sự tích những ngày đẹp trời và Nhân sứ của Hòa Vang. Khi hai truyện
ngắn này xuất hiện đã gây nhiều xôn xao cho dƣ luận. Những lời khen chê
đều có đủ cả nhƣng khơng ai có thể phủ nhận sự mới mẻ của tác phẩm. Đây là
truyện ngắn đƣợc Hịa Vang viết theo hình thức viết thêm phần hậu truyện
của những câu chuyện dân gian mang tính định hình trong lịng độc giả. Xƣa

12



nay, chúng ta vẫn quen với những kết thúc có hậu trong truyện cổ tích, ở đó
cái ác bị trừng trị, ngƣời ở hiền thì gặp lành,... chúng ta cho rằng kết thúc nhƣ
vậy là thỏa đáng. Hịa Vang thì khác, tác giả đã khơng dừng lại ở đó mà là
ngƣời đi tiếp, kể cho ta nghe những điều vẫn cịn tiếp diễn đằng sau kết thúc
có hậu ấy. Và ngày đ p trời trong truyện của Hòa Vang chỉ xuất hiện khi có
sự hịa hợp của hai con ngƣời thực sự yêu thƣơng nhau. Đó là khi Mị Nƣơng
vƣợt qua khỏi sự trầm mặc của núi để đến với biển cả bao la – nơi mà Thủy
Tinh luôn sẵn sàng chờ đợi nàng. Qua đây, tác giả vừa thể hiện cái nhìn mới
mẻ vừa nêu sự đánh giá của ngƣời hiện đại về những truyện đã qua. Cách lật
ngƣợc vấn đề này cũng là một nét đặc sắc của sáng tác văn học ngày nay.
ên cạnh đó, đóng góp cho hiện tƣợng đổi mới của truyện ngắn giai đoạn
sau 1975 phải kể đến Võ Thị Hảo Nàng tiên anh ao, Hồn trinh nữ, Khát của
muôn đời, Tim vỡ,....); Chu Nam (Máu của thủy thần); Lƣu Sơn Minh Bến
trần gian); và rất nhiều tác giả khác nhƣ Lê Đạt với những tác phẩm kể lại cuộc
đời của những ngƣời nổi tiếng đơi khi bị rơi vào bi kịch do chính tài năng của
họ tạo ra Cây đàn long môn, Con chuột, Lầu hạc vàng, Bài haiku,...); Lê Minh
Hà với một số tác phẩm tiêu biểu mƣợn truyện xƣa để kể về những băn khoăn,
day dứt và bất hạnh của con ngƣời trong cuộc sống hiện đại: An Dương Vương,
Châu Long, i ng, Ngày ưa c Tấm, Tiếng trăng,...
Nhƣ vậy, hiện tƣợng truyện cổ viết lại đã trở thành xu hƣớng đƣợc nhiều
ngƣời quan tâm không chỉ với văn học Việt Nam những giai đoạn trƣớc mà
còn ở văn học sau 1975 và những giai đoạn sau này nữa. Có thể nói sự xuất
hiện của truyện cổ viết lại đã phần nào giúp văn học mở rộng phạm vi chiếm
lĩnh hiện thực, tạo điều kiện cho các tác giả đƣơng đại có cơ hội thử nghiệm
tài năng viết tiếp của mình bằng nhiều cách thức khác nhau. Đồng thời, những
câu chuyện mới đƣợc tạo ra cịn nhằm kích thích sự tranh cãi gay gắt của dƣ
luận về những vấn đề mới so với tác phẩm dân gian đã trở thành nguyên mẫu.

13



Qua đó cho chúng ta cái nhìn khái qt về diện mạo hiện thực của văn xi
thời kì này. Các tác giả đƣơng đại đã mƣợn chuyện lịch sử, chuyện cổ tích hay
chuyện q khứ để nói lên vấn để rất thực của con ngƣời thời hiện đại. Vì thế,
truyện cổ viết lại trở nên sâu sắc và mang tính nhân văn hơn, tạo điều kiện cho
văn học ngày càng hồn thiện q trình đổi mới hơn nữa.
1.2. Nguyễn Huy Tƣởng – một cây bút tài năng
1.2.1. V i nét về Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Huy Tƣởng sinh ngày 6 tháng 5 năm 1912 trong một gia đình
nhà Nho tại làng Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh ắc Ninh, nay thuộc xã Dục Tú,
huyện Đông Anh, Hà Nội. Thuở nhỏ ông sống ở làng. Cha mất sớm, ông chịu
sự giáo dục, nuôi dƣỡng của m , một ngƣời phụ nữ tần tảo, nhân từ có ảnh
hƣởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách ở con mình. Khoảng năm lên mƣời
tuổi, Nguyễn Huy Tƣởng đƣợc gửi xuống ăn học ở dƣới Hải Phịng, sống với
gia đình ngƣời chị gái lớn.
Vùng đất Dục Tú quê hƣơng ông là nơi giàu truyền thống văn hóa,
truyền thống lịch sử. Tình u, niềm tự hào về quê hƣơng đã truyền cho ông
niềm mê say đặc biệt với những huyền thoại đ p, về quá khứ hào hùng của
ơng cha. Ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà trƣờng, ông đã say mê những câu
chuyện về các nhân vật anh hùng trong lịch sử. Cùng với niềm say mê chuyện
về các nhân vật anh hùng lịch sử, ông gửi gắm và thể hiện qua những trang
viết. Năm 18 tuổi, khi còn là cậu học trò thành chung, ơng đã xác định con
đƣờng đi của mình: “Phận sự một người tầm thường như t i muốn tỏ lịng u
nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thơi” [11,42]. Với ý thức ấy, cậu học
trị Nguyễn Huy Tƣởng âm thầm tìm đọc các sách của các tác giả cổ điển
Pháp, Nga, Trung Quốc,… hầu tìm thấy ở các nhà văn bậc thầy những bài học
về sáng tác thơ, kịch, tiểu thuyết. Đồng thời Nguyễn Huy Tƣởng cũng miệt
mài viết những vần thơ đầu tiên, ghi lại những suy nghĩ về văn chƣơng, nghệ


14


thuật, đạo đức của riêng mình một cách khá đều đặn trong những trang nhật
kí. Những trang viết đầu tay của Nguyễn Huy Tƣởng còn lƣu giữ đƣợc, cho
thấy sự vụng về của một ngƣời khơng hẳn đã có năng khiếu bẩm sinh về văn
chƣơng, nhƣng cũng bộc lộ một khát vọng lớn lao, một tâm hồn nhạy cảm với
những suy nghĩ nhiều khi vƣợt quá “tầm” của một cậu học trị đang tập sự
nghề văn. Cơng việc đó thầm lặng kéo dài suốt từ năm 1930 nếu chỉ tính từ
thời điểm Nguyễn Huy Tƣởng để lại tập bản thảo sớm nhất cịn lƣu giữ đƣợc
– hồi kí Cái đời tôi) cho đến những năm 1940, khi ông bắt đầu có tác phẩm
đƣợc cơng bố: bộ ba truyện, kịch lịch sử Đêm hội Long Trì (1942), Vũ Như T
(1942), An Tư (1943).
Sẵn có một tình u sâu nặng với đất nƣớc, quê hƣơng, Nguyễn Huy
Tƣởng sớm đến với chủ nghĩa yêu nƣớc, nhanh chóng tham gia nhiều hoạt
động xã hội, cách mạng. Khi còn là một học sinh Hải Phòng, ông tham gia
giải truyền đơn, treo cờ búa liềm ở chợ Sắt,… Ở tuổi 30, ông tham gia hoạt
động Hƣớng đạo, những mong luyện “chí cả gan vàng” và sau đó là hoạt động
truyền bá Quốc ngữ ở Hải Phịng và Hà Nội. Đặc biệt từ cuối năm 1942, ông
bắt đầu liên lạc với phong trào Việt Minh, và đầu năm 1943 gia nhập tổ chức
Văn hóa cứu quốc của Đảng.
Những ngày khởi nghĩa, Nguyễn Huy Tƣởng đƣợc Đoàn thể tín nhiệm
cử đi dự Đại hội quốc dân Tân Trào. Cách mạng tháng Tám thành công, ông
tham gia biên tập báo Cờ giải phóng, Tiền phong và là Tổng thƣ kí an Trung
ƣơng vận động đời sống mới. Ngày 1-1-1946, ông đƣợc kết nạp vào Đảng
Cộng Sản Đông Dƣơng và cũng năm 1946 đƣợc vào Quốc hội khóa I, giữ
chức Phó thƣ kí Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam. Năm 1948, ơng tham gia
sáng lập tạp chí Văn nghệ, nhà xuất bản Văn nghệ và trực tiếp làm Thƣ kí tịa
soạn tạp chí Văn nghệ, Nhà xuất bản Văn nghệ từ số 3 đến số 21.
Bên cạnh công tác lãnh đạo Hội Văn nghệ, Nguyễn Huy Tƣởng còn

tham gia nhiều hoạt động xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng trong

15


kháng chiến. Dù ở cƣơng vị nào, hoàn cảnh nào, Nguyễn Huy Tƣởng ln có
đóng góp tích cực cho văn học và cách mạng.
Nguyễn Huy Tƣởng là một trong số ít nhà văn sớm quan tâm đến việc
viết cho thiếu nhi. Ngay từ trƣớc Cách mạng ông đã từng viết những câu
chuyện cho thiếu nhi in trong tủ sách Hoa xuân. Nhƣng những tác phẩm tiêu
biểu nhất của ông đều xuất hiện sau năm 1951, khi ông cùng một số văn nghệ
sĩ bắt tay vào xây dựng phong trào sáng tác cho thiếu nhi nhƣ một thể loại
riêng trong văn học. Nhiều truyện ông viết cho thiếu nhi đến nay vẫn đƣợc coi
là mẫu mực và đƣợc các em tìm đọc: Tìm mẹ, An Dương Vương ây thành
c, Con cóc là cậu ơng Giời, Truyện Tấm Cám… Ơng cũng là giám đốc đầu
tiên của nhà xuất bản Kim Đồng.
Nguyễn Huy Tƣởng mất ngày 25-7-1960, khi ơng mới hồn thành xong
tập I tiểu thuyết Sống mãi với thủ đ . Cùng với những trang bản thảo dở dang,
ơng cịn để lại hàng chục tập nhật kí đƣợc viết liên tục trong suốt 30 năm cho
đến khi ông qua đời. Một số trang nhật kí của ơng gần đây đã đƣợc cơng bố
giúp bạn đọc hiểu thêm những sóng gió trong cuộc đời ông cũng nhƣ mối
quan tâm mà lúc sinh thời, ông khó có điều kiện bộc lộ trực tiếp. Nổi lên qua
những suy tƣ đầy trăn trở, dằn vặt của ông là một tấm lòng tha thiết với dân
tộc và văn học, một ý thức công dân đầy trách nhiệm với mọi vấn đề xã hội,
một tâm hồn nghệ sĩ khơng bao giờ bằng lịng với mình. Từ một thanh niên
yêu nƣớc, giàu lí tƣởng, lấy văn chuơng làm hành động cách mạng, Nguyễn
Huy Tƣởng đã đề cập đến những vấn đề trọng tâm của văn hóa, nghệ thuật
nƣớc nhà và có những đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam hiện đại.
Tháng 9 năm 1996, Nhuyễn Huy Tƣởng đƣợc Nhà nƣớc trao tặng Giải
thƣởng Hồ Chí Minh. Đó là phần thƣởng cao quý đối với ngƣời nghệ sĩ

Nguyễn Huy Tƣởng, là sự ghi nhận xác đáng thành tựu của Nguyễn Huy
Tƣởng đối với sự nghiệp văn học của dân tộc.

16


1.2.2. Quan niệm về văn chương của Nguyễn Huy Tưởng
Nguyễn Huy Tƣởng đƣợc coi là một trong số những nhà văn tiên phong
trong việc viết cho thế hệ thiếu nhi theo cách “viết lại”. Qua những truyện viết
lại, ông dành tặng cả tâm huyết viết cho lứa tuổi thiếu nhi. Là nhà văn của
những hồi niệm xót xa, có lúc êm dịu nhƣng đa phần là khắc khoải chua xót,
Nguyễn Huy Tƣởng đã lặng thầm thể hiện một quan điểm viết rất riêng bằng
những trải nghiệm cụ thể.
Nguyễn Huy Tưởng quan niệm văn chương phải đẹp, phải hay, phải
duyên dáng ở cả nội dung và hình thức.
Trƣớc hết, Nguyễn Huy Tƣởng quan niệm nội dung văn chƣơng phải
đ p. Đ p trong quan niệm của ông “không chỉ là một vài câu duyên dáng”,
“kh ng phải câu văn hay, câu chuyện đẹp” mà phải “Nặng suy nghĩ. Nặng
cái phần khám phá cuộc đời. Soi đuốc cho người đi trong đêm tối…”. Văn
chƣơng phải “nặng tư tưởng. Giải quyết những vấn đề lớn của đời sống”,
“g p phần vào việc đẩy mạnh chiến đấu, vạch mặt đế quốc”, “nâng cao tinh
thần nhân dân”. Rất nhiều lần ông trăn trở với câu hỏi “Làm sao mà có những
tác phẩm đọc cháy lịng người, thúc giục mọi người vào cuộc đấu tranh.
Không phải bị động, mà phải lăn ả vào cuộc chiến đấu” [10,116].
Cùng với nội dung, hình thức đ p cũng đƣợc Nguyễn Huy Tƣởng chú
trọng, có nhiều lần ơng tự nhắc, tự giục giã mình và cũng là với đồng nghiệp
của mình về khát vọng sáng tác đƣợc những tác phẩm đích thực “để làm thức
dậy tâm hồn con người”, “Làm cháy lòng người. Làm sáng ý thức. Làm bốc
con người,


ng lên đấu tranh” [10,116]… Và Nguyễn Huy Tƣởng đã cùng

thế hệ văn nghệ sĩ kháng chiến làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của những
ngƣời nghệ sĩ – chiến sĩ trong cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại của dân tộc.
Không chỉ đ p, hay, duyên dáng, văn chương phải c tính tư tưởng, đây
cũng là một tiêu chuẩn cụ thể theo quan niệm của Nguyễn Huy Tƣởng.

17


Nguyễn Huy Tƣởng đã sớm dự cảm đƣợc cái nghiệp về sau, không phải
của viên công chức thuế quan mà của một nhà văn: “Đem sở trường bù cho sở
đoản, phát triển cái sở trường hồn tồn thì cái sở trường của mình có thể
xán lạn mà làm mờ mọi cái sở đoản” [11,11].
Ở ng cũng lu n thể hiện khát vọng đổi mới văn chương. Đó là khát vọng
đổi mới quan niệm hiện thực, Nguyễn Huy Tƣởng cũng đã từng trăn trở và ấp ủ
khát vọng đổi mới nền văn học. Ơng khẳng định: “Đ hết cái thời kì ca ngợi…
Khơng thể duy trì mãi cái tình trạng hiền lành của văn nghệ”, văn nghệ phải đề
cập “những vấn đề thiết thực, phải c đấu tranh”, “sắc là do đấu tranh” [].
Nguyễn Huy Tƣởng khơng khỏi bận lịng đến đau xót khi: “nhìn trước
nhìn sau thấy văn học ta nghèo nàn, kh khan, kh ng c

ương máu” [10,117-

118], tất cả là “một thứ nghệ thuật chung chung”, bị “gò bó trong một mớ
cơng thức, giáo điều”. Vốn nặng lịng với văn học dân tộc, ông không khỏi lo
lắng, day dứt với hàng loạt câu hỏi: “Bao giờ cho có sinh khí của một nền văn
học thật đúng? Bao giờ cải thiện tình trạng đình đốn này của văn học Việt
Nam?” [10,118].
Cùng với đổi mới quan niệm về hiện thực, Nguyễn Huy Tưởng cũng c

sự đổi mới đáng kể trong quan niệm về con người. Ông khẳng định: Từ “sự
vụ” văn học phải hƣớng đến con ngƣời, “chú trọng đến con người”, lấy con
ngƣời làm “nguyên liệu chính”. Văn học phải biết “nâng niu tôn trọng con
người”. Với ý thức trách nhiệm của một nhà văn thiết tha yêu con ngƣời, tơn
trọng sự thực, Nguyễn Huy Tƣởng khẩn thiết địi hỏi ngƣời cầm bút: “Đ ng
viết cái gì sai với sự thực của con người, dù dưới hình thức phục vụ. Người là
thật. Phải thật với người” [10,120]. Thực thế, ông đã mạnh dạn viết, mạnh
dạn diễn tả một cách trung thực những suy nghĩ, cảm xúc của mình trƣớc
những vấn đề bức xúc của thực tại đời sống và con ngƣời với cả hai mặt cũ và
mới, tốt và xấu, tích cực và tiêu cực của ơng ln ý thức đó là “Hai mặt của
một vấn đề, khơng thể cái nào nặng, cái nào nhẹ” [10,120] . Có thể nói, cả

18


trong suy nghĩ và bằng thực tiễn sáng tác, Nguyễn Huy Tƣởng đã góp phần
thiết thực nhằm góp phần khắc phục tình trạng non kém của văn học một thời
“n i như rồng – một chiều – chỉ n i tồn cái đẹp” góp phần đấu tranh nhằm
“phá cái cơng thức và chống lại cái một chiều” trong văn học. Đặt vào hồn
cảnh đƣơng thời, có thể thấy, Nguyễn Huy Tƣởng đã có những tƣ tƣởng mới
với ý hƣớng về việc cách tân nghệ thuật.
Nguyễn Huy Tƣởng cũng rất quan tâm đến “chuyện nghề”, đến lao
động nghệ thuật. Viết văn trong quan niệm của ông là “một nghề cao quý”
nhƣng cũng là “một sự vật lộn đau khổ tiêu hao con ngƣời”, là thứ công việc
“vất vả một cách kiệt lực”. Nhà văn chân thành đồng ý rằng “văn học phục
tùng chính trị - văn học phục vụ chiến đấu”, nhƣng đồng thời ông cũng ý thức
rằng văn học “cần tự do nhƣ cây cần khơng khí để thở, để lớn đ p”.Chính vì
thế ơng địi hỏi một điều cốt yếu là phải “có một sự hiểu biết về văn học, về
tính chất của văn học”, phải tạo điều kiện phát triển tài năng và cá tính sáng
tạo của mỗi nhà văn.

Nhƣ vậy, Nguyễn Huy Tƣởng đã đƣa ra những quan niệm văn chƣơng,
đƣa ra những suy nghĩ, những phát ngơn mang tính cá nhân cũng phần nào
giúp ta hiểu đƣợc quan niệm về nghề viết văn của Nguyễn Huy Tƣởng. Có thể
nói, suốt một đời cầm bút, bằng ý thức công dân và trách nhiệm của ngƣời
nghệ sĩ, Nguyễn Huy Tƣởng đã không ngừng vật lộn, khắc khoải, không
ngừng day dứt, ƣu tƣ, chân thành tự vấn và lao động hết mình để thực hiện
một khát vọng cao cả: góp phần xây dựng một nền văn học dân tộc đích thực.

19


CHƢƠNG 2
TRUYỆN C

VIÊT LẠI CỦA NGUYỄN HU TƢỞNG - SỰ NỐI TI P
CHỦ ĐỀ VÀ NHỮNG NỘI DUNG MỚI

Nói về truyện cổ viết lại, Nguyễn Huy Tƣởng là nhà văn khá thành công
trong việc viết tiếp những chủ đề và sáng tạo những nội dung mới. Bằng tài
năng và tấm lòng của một nhà văn yêu nghề, truyện cổ là cái cớ để tác giả bộc
lộ cái nhìn nhân hậu, đầy trắc ẩn về số phận của con ngƣời trong xã hội xƣa
và nay. Sự nối tiếp chủ đề và thể hiện nội dung mới, khiến sáng tác của
Nguyễn Huy Tƣởng vừa gần gũi, thân quen, vừa đậm hơi thở của thời đại.
2.1. Sự nối tiếp chủ đề của truyện cổ
2.1.1. Sự n i tiếp chủ đề thần thoại
Thần thoại là một trong những truyện kể dân gian tiêu biểu, là di sản tinh
thần của loài ngƣời, gắn liền với “thời thơ ấu” của các dân tộc. Truyện thần
thoại phản ánh những nhận thức sơ khởi của loài ngƣời về thế giới tự nhiên.
Màu sắc huyền thoại đã làm nên sự hấp dẫn của những truyện đậm chất tƣ
duy của dân gian thời cổ đại. Thần thoại mang những chủ đề chính gắn liền

với cuộc sống con ngƣời: giải thích nguồn gốc của vũ trụ và các hiện tƣợng tự
nhiên; giải thích nguồn gốc của con ngƣời và xã hội; phản ánh ƣớc mơ sống
hòa hợp, ƣớc mơ khám phá, chinh phục tự nhiên.
Tiếp nhận thần thoại ở tinh thần cơ bản ấy, Nguyễn Huy Tƣởng đã có sự
sáng tạo rất riêng, độc đáo trong truyện cổ viết lại. Trong đó, có nhiều tác
phẩm đã đi sâu vào trong lịng của các thế hệ thiếu niên, nhi đồng. Điểm nổi
bật của sự tiếp nhận này trong sáng tác của Nguyễn Huy Tƣởng thể hiện rõ
nhất và trƣớc hết ở chủ đề truyện.
Trong truyện cổ dân gian, nội dung của Cóc kiện trời ngắn gọn, về cơ
bản Cóc kiện trời là một thần thoại suy nguyên phái, lí giải một hiện tƣợng tự

20


nhiên khá đặc trƣng trên đất nƣớc nông nghiệp – đó là hạn hán kéo dài.
Truyện giải thích một hiện tƣợng tự nhiên là sau khi cóc nghiến răng thì trời
mƣa. Truyện cũng đề cao sự đồn kết, chính nghĩa, và cũng là lời khuyên con
ngƣời nên bảo vệ cóc – lồi vật tuy xấu xí nhƣng lại có ích và từ đó dân gian
có câu “Con cóc là cậu ơng trời / Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho”.
Trong truyện Con cóc là cậu ơng Giời, Nguyễn Huy Tƣởng đã nối tiếp
chủ đề thần thoại trên phƣơng diện phản ánh cơng cuộc giải thích tự nhiên,
chinh phục tự nhiên. Đồng thời qua truyện cũng đề cao sự đoàn kết, khát vọng
cũng nhƣ ƣớc mơ chính nghĩa của con ngƣời. Truyện cũng khun mọi ngƣời
nên bảo vệ cóc, khơng nên đánh cóc. Tuy xấu xí nhƣng nó rất có công và tốt
bụng. Cái mới của Nguyễn Huy Tƣởng là đƣa truyện thần thoại trở nên gần
gũi hơn với cuộc sống của con ngƣời, giải thích tự nhiên, cơng cuộc chinh
phục tự nhiên một cách chi tiết, rõ ràng hơn.
2.1.2. Sự tiếp n i chủ đề của truyền thuyết
Cùng với sự tiếp nối chủ đề của thần thoại, Nguyễn Huy Tƣởng cũng rất
thành công trong việc nối tiếp chủ đề truyền thuyết. Truyền thuyết là truyện kể

dân gian, những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc
giải thích nguồn gốc các phong vật địa phƣơng theo quan điểm của nhân dân.
Truyền thuyết tập chung phản ánh và lí giải các sự kiện và nhân vật lịch
sử, ngợi ca và tự hào về nguồn gốc dân tộc, ca ngợi công cuộc chiến đấu
chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nƣớc, ca ngợi tinh thần dân chủ, ngợi ca
ngƣời anh hùng văn hóa.
Cũng nhƣ cách xử lí chất liệu trong kế thừa chủ đề thần thoại, Nguyễn
Huy Tƣởng tiếp nhận truyền thuyết trên tinh thần cơ bản của thể loại dựa trên
những sáng tạo rất riêng, độc đáo. Trong truyền thuyết, truyện Bánh chưng,
bánh giầy ngoài việc phản ánh lịch sử ở một thời kì nhất định, là sự lí giải thú
vị và giàu sức thuyết phục về nguồn gốc của bánh chƣng, bánh giầy, tục thờ

21


cúng tổ tiên ngày tết - những thành tựu văn hóa của văn minh nơng nghiệp.
Truyện cũng đề cao ngƣời lao động, đề cao ngƣời nông nghiệp, thể hiện sự
thờ kính trời, đất, tổ tiên của nhân dân ta.
Với Chiếc ánh chưng, Nguyễn Huy Tƣởng đã tiếp nối chủ đề truyền
thuyết trên phƣơng diện phản ánh và lí giải nhân vật lịch sử, ngợi ca và tự hào
về nguồn gốc dân tộc, giải thích nguồn gốc của bánh chƣng, bánh giầy, tục
thờ cúng tổ tiên, đồng thời truyện cũng đề cao, ngợi ca những con ngƣời lao
động, đề cao ngƣời làm nông nhiệp. Tiếp nối một truyện kể vốn đã có sự lan
tỏa trong dân chúng vừa là một lợi thế vừa có những cái bất lợi. ởi nếu non
tay viết, khơng thỏa mãn đƣợc tầm đón nhận của ngƣời tiếp nhận sẽ khó tìm
đƣợc vị trí trong lịng cơng chúng. ằng một lối tƣ duy rất riêng, Nguyễn Huy
Tƣởng đã sáng tạo nên một truyền thuyết thật đ p tìm đƣợc ví trí trong tâm
thức của nhiều thế hệ công chúng. Những trang viết của Nguyễn Huy Tƣởng
nhƣ một bài thơ đ p ngợi ca về sự chân chất, mộc mạc, giản dị, gắn bó với
cuộc sống làng quê của những ngƣời dân cày và cuộc sống dân cày của

Hoàng tử út con vua Hùng thứ sáu.
Với An Dương Vương ây thành c, Nguyễn Huy Tƣởng đã nối tiếp chủ
đề truyền thuyết Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy trên
phƣơng diện phản ánh và lí giải các nhân vật lịch sử, ca ngợi công cuộc chiến
đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nƣớc, tinh thần dân chủ và ngƣời anh
hùng văn hóa. Trong truyền thuyết Truyện An Dương Vương, Mị Châu –
Trọng Thủy, chủ đề chung là sự lí giải của dân gian về nguyên nhân mất nƣớc
Âu Lạc, nêu lên bài học lịch sử về cảnh giác chính trị, là sự tổng kết kinh
nghiệm lịch sử của nhân dân. Trong đó, truyện đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
ngƣời thủ lĩnh đối với sự nghiệp dựng xây và bảo vệ lãnh thổ, việc cầm quân
và lãnh đạo dân chúng, ý thức về công – tƣ, quốc gia đại sự…
Viết An Dương Vương ây thành

c, Nguyễn Huy Tƣởng tiếp tục đƣa

hồi ức của chúng ta trở về với cội nguồn lịch sử trong buổi hồng hoàng dựng

22


nƣớc và giữ nƣớc. Nguyễn Huy Tƣởng đã thỏa sức tung bay trên đơi cánh của
trí tƣởng tƣợng, hƣ cấu, dựa trên nền của truyền thuyết. Điểm đáng nói là
Nguyễn Huy Tƣởng đã cổ tích hóa An Dương Vương ây thành

c, tạo thêm

một vòng huyền thoại, hƣ ảo tập chung vào câu chuyện xây thành Ốc. Truyện
An Dương Vương ây thành

c của Nguyễn Huy Tƣởng thấm đẫm chất thơ


và màu sắc. Hình ảnh Thục Phán An Dƣơng Vƣơng với khát vọng xây Loa
thành, nhờ sự giúp sức của thần núi Thất Diệu, thần Kim Quy chống lại sự
phá hoại độc ác của con Kê Tinh,…tất cả hiện lên đƣợm màu sắc huyền ảo,
hƣ hƣ, thực thực tạo nên chất men say cho ngƣời đọc.
2.1.3. Sự n i tiếp chủ đề của truyện cổ tích
Truyện cổ tích là một thể loại tiêu biểu thuộc loại hình tự sự dân gian, là
di sản tinh thần của nhân loại. Trong di sản tinh thần chung ấy, mỗi dân tộc
trên thế giới đều có một kho tàng cổ tích của riêng mình. Vì vậy, sáng tác
truyện cổ tích khơng phải “độc quyền” của bất kì ai cả.
Truyền cổ tích dân gian Việt Nam rất phong phú, đa dạng. Chủ đề truyện
cổ tích hƣớng đến phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những mối quan
hệ trong gia đình cũng nhƣ ngồi xã hội khi xã hội có sự phân chia giai cấp,
phản ánh cuộc sống hiện thực của ngƣời xƣa cũng nhƣ những ƣớc mơ của
nhân dân lao động.
Tiếp nhận ở truyện cổ tích tinh thần cơ bản ấy, Nguyễn Huy Tƣởng có
những sáng tạo mới mẻ, độc đáo mang đậm dấu ấn cá nhân. Điểm nổi bật của
sự tiếp nối này trong sáng tác của Nguyễn Huy Tƣởng là ý thức bảo lƣu
những nội dung, chủ đề đã trở thành kinh điển của thể loại nhƣng đặt câu
chuyện trong một không - thời gian mới mang tính thời đại, thời sự.
Trong Tìm mẹ - truyện dựa theo cốt truyện của truyện cổ tích Tây
Nguyên - Nguyễn Huy Tƣởng đã nối tiếp những chủ đề của truyện cổ tích
trên phƣơng diện phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những mối quan hệ

23


trong gia đình và xã hội cùng với đó là những ƣớc mơ của nhân dân lao động.
Với Tìm mẹ, Nguyễn Huy Tƣởng cũng thể hiện ƣớc mơ về sự no đủ, ƣớc mơ
về sự thay đổi trên phƣơng diện vật chất, điều đó đƣợc thể hiện ngay trong

cách đặt tên cho con của ngƣời bố: “Th i, đặt tên cho n là Nhà để sau này n
c cái nhà trú mưa, trú nắng”, “Th i, đặt tên cho n là

ạo để sau này n

còn c hột gạo để ăn” [16,137]. Truyện cũng phản ánh mâu thuẫn giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị. Nếu trong truyện cổ tích dân gian phản ánh
mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ, phú nơng với nơng dân nghèo thì trong
truyện của Nguyễn Huy Tƣởng nhân vật thống trị ở đây lại là chúa làng – một
chức quan làng đứng đầu cai trị ở vùng miền núi trong bối cảnh thời Pháp
thuộc. Từ điểm mới trong truyện, Nguyễn Huy Tƣởng còn thể hiện sự sáng
tạo khi xây dựng một hệ thống nhân vật thần kì phong phú góp phần thỏa mãn
ƣớc mơ, tạo nên sự hấp dẫn riêng của truyện. Đó là con chim đại bàng; ông
lão đá thần núi) phù trợ giúp đỡ ngƣời lƣơng thiện; Rận cùng phe với chúa
làng, là tay sai của chúa làng nhƣng Rận con cũng rất biết thƣơng ngƣời.
Cùng với Tìm mẹ, Thằng Quấy cũng là một sự nối tiếp chủ đề truyện cổ
tích của Nguyễn Huy Tƣởng. Trên tinh thần phản ánh và lí giải các vấn đề xã
hội, mối quan hệ trong xã hội, phản ánh cuộc sống hiện thực và ƣớc mơ của
nhân dân lao động, truyện của Nguyễn Huy Tƣởng phản ánh rõ nét hơn tinh
thần phản kháng, chống lại cái xấu, cái ác. Những ngƣời cùng khổ nhƣ thằng
Quấy đã vùng lên. Dù mới là tự phát, nhƣng có thể thấy rõ lịng dũng cảm sự
thơng minh của thằng Quấy chính là vũ khí đã giúp nó vƣợt qua những thử
thách, là tố chất cần thiết để chiến thắng kẻ thù. Truyện có lối kể giản dị, mộc
mạc, về cậu bé Quấy mồ côi cha m , phải ở với chúa làng gian ác. Chúa làng
hành hạ Quấy đủ điều, bắt Quấy đi giết hổ dữ, voi rừng,… nhƣng lần nào
Quấy cũng dùng trí thơng minh của mình để vƣợt qua mọi thử thách, sự gian
ác mà chúa làng bắt ép Quấy. Quấy tìm cách lừa cho cả nhà chúa làng chết
đuối ngoài biển, giúp cho dân làng bớt khổ.

24



Sự nối tiếp truyện cổ tích của Nguyễn Huy Tƣởng còn thể hiện trong
Truyện Tấm Cám. Từ Tấm cám trong dân gian, Truyện Tấm Cám của Nguyễn
Huy Tƣởng cho ta thấy đƣợc tác giả vừa tôn trọng bản kể xƣa của truyện dân
gian, vừa thể hiện những nét độc đáo, sáng tạo rất riêng của Nguyễn Huy
Tƣởng trong việc khắc họa hình tƣợng nhân vật Tấm, Cám và dì ghẻ với cái
nhìn rất mới, rất riêng của Nguyễn Huy Tƣởng, thể hiện đạo lí truyền thống
của dân tộc: ác giả ác báo, ở hiền gặp lành, gieo nhân nào gặp quả nấy,…
trong cái nhìn của cuộc sống hiện đại của con ngƣời.
Cùng với Tìm mẹ, Thằng Quấy, Truyện Tấm Cám sự nối tiếp chủ đề truyện
cổ tích của Nguyễn Huy Tƣởng cịn đƣợc thể hiện qua truyện Cơ bé gan dạ. Qua
truyện Cô bé gan dạ, ta thấy đƣợc văn của Nguyễn Huy Tƣởng luôn ngồn ngộn
chất thơ của cuộc đời, chất chứa những bài ca hy vọng, những bài học về tình
yêu thƣơng đồng loại. Đúng nhƣ những nhận xét của nhà văn Phạm Hổ: “Trong
câu văn của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta không bao giờ thấy lộ ra bóng dáng
của điều ác mặc dù anh có miêu tả kẻ ác với tất cả lòng căm ghét – nhưng căm
ghét không c nghĩa là ác. N i rõ hơn: điều ác khơng có ở trong lịng anh. Văn
anh là yêu thương, là đầm ấm, là ao dung,… Rõ ràng đọc Nguyễn Huy Tưởng,
cảng thấy yêu văn và càng thấy yêu người” [11,353].
Truyện của Nguyễn Huy Tƣởng gần gũi, gắn bó với độc giả bởi một lẽ
ơng khơng hồn tồn sáng tạo ra chủ đề của những câu chuyện ông viết lại,
mà chủ yếu chuyển thể từ những câu chuyện truyền thống. Song ông không
đơn thuần chỉ là ngƣời viết lại loại truyện cổ tích, những tác phẩm của ơng đã
có sự khác biệt với các văn bản mà ơng lấy làm khn mẫu. Bằng sự sáng tạo
của mình, Nguyễn Huy Tƣởng vừa trung thành với truyền thống vừa để lại
những dấu ấn độc đáo ở từng câu chuyện. Đƣợc viết ra do nguồn truyện kể
dân gian nhƣng mỗi truyện của ông đều chứa đựng một cách cô đọng những lí
tƣởng đạo đức và thẩm mỹ truyền thống nhƣng đồng thời đã đƣợc ông đem


25


×