Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Khoá luận tốt nghiệp hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của nguyễn trí huân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.27 KB, 59 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
***************

TRẦN THỊ HƢƠNG

HIỆN THỰC CHIẾN TRANH
VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chun ngành: Văn học Việt Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6
3.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 7
6. Dự kiến đóng góp của khóa luận................................................................... 7
7. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 7
CHƢƠNG 1....................................................................................................... 8
TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN ................................................. 8
TRONG ĐỜI SỐNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975 ....................... 8


1.1. Thể loại tiểu thuyết sau 1975 ..................................................................... 8
1.2. Tác giả Nguyễn Trí Hn và thể loại tiểu thuyết ..................................... 13
1.2.1. Đơi nét về tiểu sử .................................................................................. 13
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác ................................................................................ 15
CHƢƠNG 2: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI 19
TRONG TIỂU THUYẾT CUẢ NGUYỄN TRÍ HUÂN - NHÌN TỪ NỘI
DUNG PHẢN ÁNH ........................................................................................ 19
2.1. Bức tranh hiện thực .................................................................................. 19
2.1.1. Hiện thực chiến trƣờng.......................................................................... 19
2.1.2. Hiện thực đời thƣờng ............................................................................ 24
2.2. Số phận con ngƣời.................................................................................... 28
2.2.1. Số phận ngƣời lính ................................................................................ 28
2.2.2. Số phận ngƣời phụ nữ ........................................................................... 34
2.2.3. Số phận trẻ em ....................................................................................... 37
CHƢƠNG 3: HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI


TRONG TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HN -NHÌN TỪ HÌNH
THỨC NGHỆ THUẬT ................................................................................... 41
3.1. Nghệ thuật kể chuyện ............................................................................... 41
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 44
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chiến tranh - cho đến nay vẫn là một đề tài lớn mang tầm vóc nhân loại.
Nó từng có bề dài và bề dày trong tiến trình của lịch sử văn học thế giới.

Chiến tranh âm vang trong bản trƣờng ca Iliat và Ôđixê của Homerơ, trong bộ
tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hịa bình của Tolstoi… và gần hơn, trong
Chng nguyện hồn ai của Hemingway, trong Cái trống thiếc của Gunter
Grass và vô số tác phẩm khác. Ở Việt Nam, chiến tranh vẫn là đề tài có tính
thời sự vì nó gắn liền với số phận đau thƣơng của dân tộc. Chiến tranh nhƣ
một ám ảnh, một vết thƣơng rỉ máu khó lành. Nó trở thành món nợ dài của
các nhà văn mặc áo lính.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, giang sơn thu về một mối, đất nƣớc
Việt Nam bƣớc vào thời kì hịa bình. Nhờ đó, văn học Việt Nam nói chung và
thể loại tiểu thuyết nói riêng có điều kiện chuyển mình sang một giai đoạn
mới. Đặc biệt là từ Đại hội VI của Đảng, văn học gắn bó với hiện thực nhƣng
không chỉ phản ánh hiện thực mà còn suy ngẫm về hiện thực. Đối tƣợng
nghiên cứu và khám phá của văn học không chỉ là xã hội mà còn là con ngƣời
với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó. Thế nhƣng, dẫu chiến tranh qua đi, văn
học phát triển trong điều kiện xã hội mới, trong mơi trƣờng ý thức cá nhân có
nhiều chuyển biến song sự khốc liệt của chiến tranh và số phận con ngƣời
luôn là cảm hứng sáng tác của nhiều nhà văn. Tuy khơng chiếm vị trí số một
nhƣ giai đoạn trƣớc, nhƣng đề tài chiến tranh và số phận con ngƣời vẫn in
đậm trong sáng tác của nhiều cây bút nhƣ: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Trọng Oánh, Nam Hà, Thái Bá Lợi, Bảo Ninh, Nguyễn Trí Huân… và phản
ánh rõ nét quá trình chuyển biến ý thức văn học, nhất là khi đất nƣớc bƣớc
vào thời kì đổi mới.

1


Nguyễn Trí Huân là một trong những nhà văn thời hậu chiến có tác
phẩm viết về chiến tranh. Ơng xuất hiện sau năm 1975 với tiểu thuyết Năm
1975, họ đã sống như thế và nhanh chóng đƣợc bạn đọc chú ý. Dẫu sáng tác
không nhiều, song với đủ thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí sự, Nguyễn Trí

Hn đã góp phần làm phong phú thêm cho diện mạo văn học thời kì hậu
chiến. Điểm qua các sáng tác trong sự nghiệp của nhà văn, tiểu thuyết đƣợc
xem là thể loại thành công hơn cả với hai cuốn Năm 1975, họ đã sống như thế
và Chim én bay. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn đƣợc đánh dấu bằng hai giải
thƣởng lớn: giải thƣởng Văn học Bộ Quốc phòng 1985-1989 và giải thƣởng
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990 với tác phẩm Chim én bay. Đồng thời, năm
2007, ông cũng đạt giải Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật.
Tiếp nối mạch nguồn của dòng tiểu thuyết hậu chiến về đề tài chiến
tranh cách mạng, tiểu thuyết Nguyễn Trí Hn ln đƣợc nhắc đến cùng với
Chu Lai, Nguyễn Minh Châu, Khuất Quang Thụy, Thái Bá Lợi, Bảo Ninh…
nhƣ một thế hệ nhà văn mặc áo lính tiêu biểu nhất cho thể loại tiểu thuyết viết
về chiến tranh nói riêng và văn học sau năm 1975 nói chung. Dẫu khơng sở
hữu một khối lƣợng tác phẩm đồ sộ nhƣ Chu Lai với Phố, Nắng đồng bằng,
Ăn mày dĩ vãng, Vòng tròn bội bạc, Ba lần và một lần, Cuộc đời dài lắm,
Khúc bi tráng cuối cùng…; cũng chƣa có một tác phẩm gây tiếng vang lớn
nhƣ Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh nhƣng cả hai tiểu thuyết Năm 1975,
họ đã sống như thế và Chim én bay của Nguyễn Trí Hn ln xuất hiện
trong các bài báo, bài phê bình hay nghiên cứu về tiểu thuyết giai đoạn này.
Chúng đƣợc đánh giá nhƣ những tiểu thuyết xuất sắc viết về cuộc chiến tranh
chống Mỹ cứu nƣớc anh hùng của toàn dân tộc. Với hai tiểu thuyết này,
Nguyễn Trí Hn đã nói “bao điều bão tố ở bên trong” mà một thời ông chƣa
kịp nói. Cùng với độ lùi của thời gian, nhà văn đã viết về chiến tranh với sự
thấu đáo và từng trải hơn. Chiến tranh và số phận con ngƣời đƣợc nhà văn

2


“tái bút” trên nhiều bình diện và cấp độ. Đó là những trăn trở, những chiêm
nghiệm đầy suy tƣ về hiện thực và con ngƣời. Hiện thực chiến tranh tàn khốc
cùng sự giằng xé trong cuộc sống thời bình và số phận con ngƣời với những

nỗi đau, thƣơng tổn về nhân tính và hạnh phúc… tất cả đã hằn in và ám ảnh
trong tâm khảm bạn đọc bao thế hệ. Đó chính là lí do, động lực khiến chúng
tơi lựa chọn đề tài: Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu
thuyết của Nguyễn Trí Hn.
Tác giả khóa luận hy vọng đề tài này sẽ đem lại những đóng góp nhất
định đối với cơng tác nghiên cứu và giảng dạy văn xuôi Việt Nam giai đoạn
sau 1975. Đồng thời, mong muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định vị trí,
vai trị của Nguyễn Trí Hn trong dịng tiểu thuyết viết về chiến tranh đặt
trong bối cảnh thời hậu chiến.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nguyễn Trí Hn khơng thuộc số nhà văn viết khỏe, vì thế trong sự
nghiệp sáng tác của mình, số lƣợng tiêu tiểu thuyết khơng nhiều. Tuy nhiên,
so với những cây bút cùng thế hệ, tiểu thuyết của ơng lại có nét riêng, độc
đáo. Ngay từ tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế đến tiếu thuyết cuối
cùng Chim én bay, Nguyễn Trí Huân đã đƣợc nhiều bạn đọc yêu mến và
nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu, phê bình chú ý. Có thể kể đến một số cơng
trình và bài viết sau đây:
Trƣớc hết là các bài viết, bài phỏng vấn hay trò chuyện của nhà văn xoay
quanh nghề văn - nghề báo. Báo Công an nhân dân số ra ngày 22/7/2008 có
đăng bài viết Nhà văn Nguyễn Trí Hn - Người ln tự biết mình của tác giả
Phạm Khải. Bài báo thể hiện cảm nhận của ngƣời viết về con ngƣời Nguyễn
Trí Huân trên cƣơng vị là Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ, ngƣời đã từng 15
năm “cầm trịch” tờ Văn nghệ quân đội: “Nguyễn Trí Hn là người có cái
nhìn cuộc sống ơn hòa. Trong mỗi con người, bên cạnh những mặt chưa hoàn

3


thiện, ơng ln nhìn ra và tìm ra những nét đẹp tiềm ẩn của họ” [18]. Về sự
nghiệp sáng tác, tác giả bài viết cho rằng, so với nhiều nhà văn cùng trang lứa,

Nguyễn Trí Huân thuộc diện viết ít, số sách của ơng có thể đếm trên đầu ngón
tay. Lý giải về điều này, trong một lần trả lời phỏng vấn của phóng viên, nhà
văn đã thành thực bộc lộ ơng có một “thói quen xấu” là phải “bứt ra một thời
gian dài đi đâu hẳn, thoát ra mọi sự vụ thì mới có thể viết được”. Vậy nhƣng,
sau khi từ chiến trƣờng trở về, học xong khóa I trƣờng viết văn Nguyễn Du,
ông liên tục vƣớng bận vào công việc, nên thời gian dành cho văn chƣơng trở
nên eo hẹp dần.
Trên báo điện tử Tổ quốc, tác giả Đức Đan có bài viết Nguyễn Trí Hn:
làm báo phải có bản lĩnh. Trong bài viết này, nhà văn đã thể hiện quan điểm
của mình về phẩm chất quan trọng của nhà báo nói riêng và ngƣời viết nói
chung, đó là bản lĩnh: “Để có một bài báo hay thì nhà báo, nhà văn phải sống
trong sự thật mà mình viết, phải trải. Nếu chỉ nghe kể thôi để lấy tư liệu viết
lại thì khơng thể hay được” [8].
Thứ đến là những bài phê bình, đánh giá về các sáng tác của Nguyễn Trí
Hn, trong đó tập trung chủ yếu vào tiểu thuyết. Với tiểu thuyết Năm 1975,
họ đã sống như thế, tác giả Hồi Anh có bài viết Tiểu thuyết Nguyễn Trí Hn
- Một cách nhìn chiến tranh xác thực trên website o. Tác
giả đánh giá tiểu thuyết này “không chỉ dự báo những cuộc chiến tranh xảy ra
trong tương lai” mà “còn dự báo về sự lan rộng của những hiện tượng tiêu
cực ở Miền Bắc”. Bên cạnh đó, bài viết cịn tổng kết một số thành tựu nghệ
thuật đặc sắc của tác phẩm nhƣ lối kể chuyện chính xác, sinh động, nghệ thuật
xây dựng, miêu tả tâm lí nhân vật chân thực.
Sau khi đoạt giải thƣởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988-1989,
tiểu thuyết Chim én bay đã nhận đƣợc sự chú ý của đông đảo dƣ luận cũng
nhƣ giới nghiên cứu, phê bình. Tiêu biểu trong số đó là hai bài viết Chim én

4


bay - Một cách nhìn về chiến tranh của tác giả Phạm Hoa đăng trên báo Văn

nghệ năm 1989 và Đồng hiện - Một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong
tiểu thuyết Chim én bay của Ngơ Vĩnh Bình đăng trên báo Văn nghệ năm 1990.
Tác giả Phạm Hoa cho rằng Nguyễn Trí Huân đã thể hiện nhận thức về
hiện thực tàn khốc của chiến tranh bằng “một lối viết bộc lộ tính người”,
“giọng văn chứa đầy trăn trở, nghĩ suy nặng nề tâm trạng”. Trong khi đó, tác
giả Ngơ Vĩnh Bình lại đi sâu khai thác một thủ pháp nghệ thuật đƣợc coi là
đắc địa của Chim én bay đó là thủ pháp đồng hiện: “Đọc Chim én bay người
đọc vừa như thấy lại những năm tháng chiến tranh xưa với tất cả sự khốc liệt
của nó (...), lại vừa như đứng trước những vấn đề thời sự của cuộc sống hôm
nay như: Vấn đề đổi mới cách nghĩ, cách sống, vấn đề nhân đạo cũng như
việc giải tỏa thù hận, ngăn chặn nọc độc của một cuộc chiến tranh mới” [4].
Và cuối cùng là những bài viết về đề tài chiến tranh thời hậu chiến, trong
đó các tác giả có nhắc đến tiểu thuyết Nguyễn Trí Hn nhƣ là một phần
không thể thiếu của mảng đề tài này. Tạp chí Văn học số 5/1980 với bài Tiểu
thuyết về đề tài chiến tranh sau năm 1975 và những thành tựu nghệ thuật bị
bỏ lỡ (Nguyễn Phƣợng), Ý thức cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
(Nguyễn Bích Thu). Trên website báo Văn nghệ quân đội có một số bài viết
nhƣ: Nhân vật của tiểu thuyết hậu chiến (Đinh Thị Huyền), Cái nhìn mới về
người lính và sự thay đổi về đề tài của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975
(Nguyễn Tiến Đức)... và rất nhiều bài viết riêng lẻ khác.
Có thể nói, nghiên cứu về nhà văn Nguyễn Trí Hn và tiểu thuyết của
ơng chƣa thực sự nhiều và tập trung. Gần đây nhất mới chỉ có một số luận văn
thạc sĩ: Đặc điểm tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân (Phạm Thị Trang - do PGS. TS
Tôn Phƣơng Lan dƣớng dẫn, trƣờng ĐHKHXH và NV); Nghệ thuật tự sự
trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân (Vũ Thị Thanh - do PGS. TS Đoàn Đức
Phƣơng hƣớng dẫn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2); Thế giới nghệ thuật

5



tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân (Đặng Thị Hà - do PGS. TS Lý Hoài Thu hƣớng
dẫn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2).
Nhìn chung, các bài nghiên cứu, bài phê bình, bài báo... ở trên quan tâm
đến nhiều khía cạnh khác nhau trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân. Chƣa có
một đề tài nào đề cập đến hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời. Vì thế,
tiếp thu gợi ý của những nhà nghiên cứu đi trƣớc, đề tài chúng tơi sẽ đi sâu
tìm hiểu: Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu thuyết của
Nguyễn Trí Huân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu
thuyết của Nguyễn Trí Huân, tác giả khóa luận mong muốn làm rõ những
đóng góp mới mẻ của Nguyễn Trí Huân về hiện thực chiến tranh và con ngƣời
trong tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én bay. Từ đó càng
nhận thức rõ hơn vị trí văn học sử của nhà văn trong đời sống văn học Việt
Nam sau 1975.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết của thể loại tiểu thuyết sau năm 1975
với những đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con ngƣời.
Tìm hiểu về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Trí Huân.
Làm rõ hiện thực chiến trƣờng và hiện thực đời thƣờng, lý giải số phận
ngƣời lính, ngƣời phụ nữ và trẻ em trong hai tiểu thuyết Năm 1975, họ đã
sống như thế và Chim én bay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu khóa luận là Hiện thực chiến tranh và số phận
con người trong tiểu thuyết của Nguyễn Trí Huân.

6



4.2. Phạm vi nghiên cứu
Triển khai đề tài Hiện thực chiến tranh và số phận con người trong tiểu
thuyết của Nguyễn Trí Hn, khóa luận tập trung tìm hiểu hai tiểu thuyết:
Năm 1975, họ đã sống như thế (1979) và Chim én bay (1988). Và trong một
chừng mực nhất định có thể có sự so sánh, đối chiếu với những tác phẩm khác
để làm rõ đối tƣợng nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khóa ln này, chúng tơi sử dụng kết hợp các phƣơng pháp:
- Phƣơng pháp hệ thống
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp
6. Dự kiến đóng góp của khóa luận
Với đề tài này, khóa luận làm rõ hơn về hiện thực chiến tranh và số phận
con ngƣời trong hai tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế và Chim én
bay. Đồng thời, khẳng định những đóng góp của Nguyễn Trí Hn trong dịng
tiểu thuyết viết về chiến tranh trong bối cảnh hậu chiến.
7. Bố cục khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận đƣợc
triển khai trong 3 chƣơng sau:
Chƣơng 1: Tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân trong đời sống văn xuôi Việt
Nam sau 1975
Chƣơng 2: Hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời trong tiểu thuyết
của Nguyễn Trí Hn – Nhìn từ nội dung phản ánh
Chƣơng 3: Hiện thực chiến tranh và số phận con ngƣời trong tiểu thuyết
của Nguyễn Trí Hn – Nhìn từ hình thức nghệ thuật

7



CHƢƠNG 1
TIỂU THUYẾT CỦA NGUYỄN TRÍ HUÂN
TRONG ĐỜI SỐNG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Thể loại tiểu thuyết sau 1975
Năm 1975 khép lại một thời kỳ lịch sử vinh quang của dân tộc, cũng là
năm mở ra một thời kỳ mới cho sáng tác văn học trong yêu cầu tái tạo lại thời
kỳ lịch sử này. Đƣợc coi là chiếc “máy cái” trong nền văn học hiện đại, thành
tựu và những quy luật vận động của tiểu thuyết có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc nghiên cứu văn học sử. Ở nƣớc ta, tiểu thuyết chỉ thực sự đƣợc khẳng
định nhờ tài năng của các cây bút Tự lực văn đoàn và các nhà văn hiện thực
giai đoạn 1930-1945. Trên những kinh nghiệm khá phong phú đó, tiểu thuyết
Việt Nam sau năm 1945 tự điều chỉnh để trở thành một vũ khí đa dạng trƣớc
yêu cầu phục vụ kháng chiến và công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tác
phẩm mang tính sử thi trở thành dạng thức tiểu thuyết điển hình trong hai giai
đoạn kháng chiến vệ quốc. Tiểu thuyết từ 1975 đến nay không cắt lìa truyền
thống đã có nhƣng ý thức “làm mới”, “làm giàu”, “làm khác” truyền thống đã
và đang trở thành khát vọng, nhu cầu mạnh mẽ của ngƣời cầm bút. Với những
nỗ lực đổi mới, bốn thập kỉ qua đã tạo ra khơng ít tiểu thuyết có giá trị, bên
cạnh sự đông đúc của đội ngũ tác giả, sự dồi dào về số lƣợng tác phẩm là sự
đa dạng về bút pháp, sự phong phú về đề tài và chủ đề. Áp lực cạnh tranh từ
các phƣơng tiện giải trí - truyền thông, lối sống và nhịp độ sống hiện đại vừa
là yếu tố kích thích vừa là nguy cơ làm hao mịn tình u văn chƣơng. Ngƣời
viết bây giờ buộc phải đối diện với đòi hỏi: mỗi nhà tiểu thuyết, mỗi cuốn tiểu
thuyết phải sáng tạo ra một hình thức riêng, một nội dung phong phú, xác thực.
Tiếp thu những thành tựu từ văn học giai đoạn 1945-1975, tiểu thuyết từ
sau năm 1975 vẫn tiếp tục khơi sâu vào mảng đề tài chiến tranh vốn là thế

8



mạnh này. Nhiều ngƣời gọi tiểu thuyết ngay sau năm 1975 là chặng đƣờng
chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học của
thời kì hậu chiến để đi tới cơng cuộc đổi mới tồn diện, sâu sắc, đồng bộ với
sự đổi mới của đất nƣớc từ sau 1986. Trong phạm vi phần này, chúng tôi sẽ
chủ yếu đề cập đến tiểu thuyết hậu chiến với những đổi mới về cách tiếp cận
hiện thực và con ngƣời trong sự vận động và phát triển của thể loại tiểu thuyết
sau 1975.
Tiểu thuyết hậu chiến lâu nay đã trở thành khái niệm ƣớc lệ chỉ tiểu
thuyết viết về chiến tranh ngay sau chiến tranh. Đây là thời kì mà ngọn nguồn
cảm hứng của tiểu thuyết vẫn nằm trong từ trƣờng của chiến tranh. Đối tƣợng
phản ánh của tiểu thuyết hậu chiến có thể là hiện thực chiến tranh, có thể là
cuộc sống hịa bình nhƣng là một hịa bình trong những dƣ âm và ảnh hƣởng
nặng nề của cuộc chiến. Điểm chung lớn nhất của các tác phẩm văn học hậu
chiến chính là ở nhân vật. Đa số họ là những con ngƣời đã từng tham gia
chiến trận, vừa bƣớc ra khỏi chiến tranh, đối mặt với cuộc sống mới nhƣng
vẫn còn bị chi phối bởi quán tính của cuộc chiến đấu trƣờng kì, gian khổ
trong q khứ. Là một bộ phận tiểu thuyết sáng tác ngay sau chiến tranh, đề
cập và tái nhận thức các vấn đề của chiến tranh. Điều này mang lại cho tiểu
thuyết hậu chiến những quan niệm mới về hiện thực và con ngƣời, góp phần
tạo nên bƣớc phát triển mới so với loại hình tiểu thuyết chiến tranh trong các
giai đoạn trƣớc đó.
Q trình đổi mới tiểu thuyết sau 1975 bắt đầu khá sớm nhƣng thầm lặng
với những tín hiệu có tính dự báo trong Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi
nhà (1977) của Nguyễn Minh Châu, Cha và con và… (1979) của Nguyễn
Khải, Đất trắng (Tập 1 - 1979) của Nguyễn Trọng Oánh, Năm 1975, họ đã
sống như thế (1979) của Nguyễn Trí Hn, Trong cơn gió lốc (1980) của
Khuất Quang Thụy… Những tác phẩm này cho thấy ý thức khắc phục cái

9



nhìn lí tƣởng hóa một chiều về hiện thực. Nếu nói theo Nguyễn Minh Châu
thì cái “lớp men trữ tình hơi dày” mà các nhà văn thƣờng “tráng lên” hiện
thực đang cố đƣợc gột tẩy. Phạm vi hiện thực đƣợc mở rộng, có sự bổ sung
những miền hiện thực mới, những góc khuất, những vùng cấm địa mà trƣớc
đây chƣa có hoặc ít đƣợc nói đến. Nếu nhƣ hiện thực trong chiến tranh đề cập
đến những gam go, khốc liệt nhƣng rất hào hùng của dân tộc thì sau chiến
tranh, bộ mặt thật của hiện thực đã hiện ra với tất cả sự khốc liệt của nó,
khơng cịn giản đơn, xuôi chiều nhƣ tiểu thuyết trƣớc đây.
Sự đổi mới quan hệ nhà văn với hiện thực hậu chiến phải chăng bắt
nguồn từ nhu cầu đƣợc nói thật “phương châm nhìn thẳng vào sự thật làm
nhà văn nhận rõ những non yếu của văn học thời kì trước” [25, 12]. Hiện
thực chiến tranh lúc này đƣợc nhận thức là cái chƣa biết, không thể biết, cái
phức tạp cần phải khám phá. Chính vì vậy, hiện thực trong các sáng tác đƣợc
ngƣời nghệ sĩ lựa chọn, chắt lọc, khái quát và tái tạo. Ngay cả ở các tiểu
thuyết mà cảm hứng sử thi vẫn giữ vai trị chủ đạo thì hiện thực đều đƣợc
miêu tả trên một bình diện mới. Chiến tranh trong Đất trắng, Chim én bay, Ăn
mày dĩ vãng… đã đƣa độc giả khám phá với một bộ mặt mới của chiến tranh,
ở đó khơng phải lúc nào cũng có màu đỏ của chiến thắng mà nhiều khi là màu
xám của thất bại và chết chóc. Có thể nói, thời gian càng lùi xa thì nhà văn
càng có cái nhìn kĩ hơn, sâu hơn về cuộc chiến và cách viết của họ cũng đa
chiều hơn, toàn diện hơn. Những tổn thƣơng của ngƣời lính đƣợc phản ánh
trên tinh thần trung thành tuyệt đối với lịch sử, khơng bỏ sót một ai và khơng
bỏ sót điều gì.
Bên cạnh việc hƣớng ngịi bút tới những thời điểm khốc liệt, bi quan của
chiến tranh, các nhà văn hậu chiến còn mở rộng phạm vi hiện thực về thời
điểm hiện tại - nơi chiến tranh đã đi qua nhƣng khơng phải bình n đã thực
sự trở lại. Đó là lúc những con ngƣời trở về sau chiến tranh vẫn không ngơi

10



nghỉ, tiếp tục cuộc chiến đấu tranh để đứng vững trong hoàn cảnh mới. Ở
khoảnh khắc giao thời này, cái cũ chƣa hẳn đã dứt bỏ đƣợc, cái mới lại đang
chập chững đến, những ngƣời trở về từ chiến tranh thực sự thấm thía đƣợc
những bon chen, lo toan trong cuộc sống mới. Họ không phải đấu tranh với kẻ
thù nhƣng lại phải đối mặt với những khó khăn của thời hậu chiến, với chính
những ngƣời mình từng gắn bó, thậm chí đối mặt với chính bản thân mình.
Các nhà văn đã mở ra một hiện thực rộng lớn, đa chiều trƣớc mắt bạn đọc.
Điểm gặp gỡ chung của các nhà văn viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nƣớc là họ đều từng trải qua những năm tháng đầy “máu và hoa” trên
nhiều nẻo đƣờng của đất nƣớc. Bởi thế, chiến tranh hiện diện trong tác phẩm
không chỉ là những sự kiện, những biến cố lịch sử mà còn là số phận con
ngƣời. Trong hàng loạt tiểu thuyết, các nhà văn Nguyễn Minh Châu, Bảo
Ninh, Chu Lai, Nguyễn Trí Huân… đi sâu khám phá cuộc sống hàng ngày và
thể hiện số phận cá nhân; nhìn thẳng vào những mảnh vỡ của đời sống, những
bi kịch nhân sinh; không né tránh cả những mặt tăm tối, góc khuất của cuộc
sống thƣờng nhật bằng cái nhìn trung thực và sáng tạo. Chính bởi thế, vấn đề con
ngƣời cá nhân trở thành tâm điểm khai thác của thế hệ nhà văn sau chiến tranh.
Thực tế cho thấy, trong các sáng tác trƣớc 1975, hình ảnh con ngƣời cá
nhân bị lu mờ bởi sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của con ngƣời công dân với
tiếng hơ Xung kích, với sức mạnh Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), với Tầm nhìn xa,
với lời kêu gọi Hãy đi xa hơn nữa (Nguyễn Khải); đó là con ngƣời cùng với
Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), đi những dặm dài trong Dấu chân người
lính (Nguyễn Minh Châu) khắp mọi nẻo đƣờng đất nƣớc. Giờ đây chiến tranh
kết thúc cũng là lúc tiểu thuyết cần có sự trở mình. Ngƣời đọc bắt gặp trong
Miền cháy; Năm 1975, họ đã sống như thế; Nắng đồng bằng... cùng với
những “nhân vật sử thi”, đã thấp thoáng kiểu “nhân vật số phận”. Bên cạnh
“con người lí tưởng”, hình ảnh những con ngƣời đời thƣờng, bình dị xuất hiện


11


nhiều hơn. Cùng với hiện thực đa chiều, con ngƣời đƣợc nhìn nhận trong
nhiều bình diện và nhiều tầng bậc. Đặc biệt, nếu giai đoạn trƣớc, văn học
dùng con ngƣời làm phƣơng tiện để biểu đạt lịch sử thì giờ đây, văn học qua
thăng trầm lịch sử mà khắc họa số phận con ngƣời.
Cùng với sự xuất hiện hình ảnh ngƣời lính - hình ảnh quen thuộc của tiểu
thuyết chiến tranh, trong sáng tác thời kì này cịn nổi bật lên bức chân dung
những con ngƣời thời bình. Vẫn là những hình ảnh đẹp, song bƣớc ra từ cuộc
chiến, những ngƣời lính chĩu nặng suy tƣ, với ám ảnh sâu sắc về quãng thời
gian đã qua, với bộn bề suy nghĩ, dằn vặt và một tâm hồn mang đầy thƣơng
tích nhƣ Quy (Chim én bay), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh)… Mỗi nhân vật
trong tiểu thuyết hậu chiến đều có một số phận riêng, một cảnh ngộ riêng
song họ gặp nhau ở một điểm đó là những thƣơng tổn tinh thần.
Khơng chỉ khắc họa hình ảnh ngƣời lính với niềm say mê lí tƣởng nhiều
tác phẩm cịn lột trần bộ mặt đớn hèn, tham sống sợ chết, háo sắc và phản bội.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết hậu chiến cịn đặc biệt chú ý khai thác và tơ đậm
hình ảnh ngƣời lính với những đổ vỡ của tâm hồn, mang thƣơng tật vĩnh viễn.
Đối với ngƣời lính trong Ăn mày dĩ vãng, Chim én bay, Nỗi buồn chiến tranh,
Bến không chồng… Chiến tranh nhƣ một định mệnh nghiệt ngã, một “nhát
dao phạt ngang” cuộc đời. Thể hiện hình ảnh ngƣời lính trong tâm trạng đầy
bi kịch này, dƣờng nhƣ các nhà văn đã nhận thức rõ đƣợc sự chi phối mạnh
mẽ của hoàn cảnh chiến tranh đến số phận con ngƣời. Ngƣời lính giờ đây
khơng cịn là những con ngƣời vĩ đại có thể thay đổi lịch sử mà đơi khi họ còn
yếu đuối, bất lực, thƣờng xuyên rơi vào bi kịch cô đơn, lạc lõng.
Cùng với việc mạnh dạn khai thác những bi kịch sâu sắc trong cuộc đời
mỗi con ngƣời. Các nhà văn “gửi gắm những câu hỏi nghiêm túc về con
người, về cuộc vật lộn giữa con người với hồn cảnh để tìm kiếm chính mình”
[2, 51]. Có thể coi đây là hƣớng đi mới của tiểu thuyết chiến tranh trên con


12


đƣờng đổi mới thể loại và cách tân văn học. Nó đặt tiền đề cho các tiểu thuyết
về sau trong việc khám phá hiện thực và thể hiện số phận con ngƣời.
1.2. Tác giả Nguyễn Trí Huân và thể loại tiểu thuyết
1.2.1. Đơi nét về tiểu sử
Nguyễn Trí Hn sinh ngày 20/9/1947 tại xã Hạ Mỗ, huyện Đan
Phƣợng, tỉnh Hà Tây (cũ). Hiện nay, ông đang sống ở Hà Nội, là Đảng viên
Đảng cộng sản Việt Nam, phó Tổng thƣ kí Hội Nhà văn Việt Nam kiêm Tổng
biên tập tuần báo Văn nghệ (từ 2005).
Về con ngƣời Nguyễn Trí Huân, nhà văn Vƣơng Trọng từng tâm sự:
“Huân là một người kiểu Từ Bích Hồng (Ngun Phó tổng biên tập Tạp chí
Văn nghệ quân đội), tức là khi chia phần cho anh em, bao giờ cũng thích
nhận phần ít hơn về mình. Như thế nếu nhận phần ít hơn này Hn mới thấy
lịng nhẽ nhõm” [18]. Nhà văn sống khép mình, khá khiêm nhƣờng và ln có
cái nhìn cuộc sống ơn hịa. Trong mỗi con ngƣời, bên cạnh những mặt chƣa
hồn thiện, ơng ln nhìn ra và tìm ra những nét đẹp tiềm ẩn của họ. Bản thân
giữ nhiều chức vụ cao và đƣợc tín nhiệm song ơng ln tự nhận “So với các
anh, các chị ở đây, tơi cịn nhiều điểm thua kém. Từ tuổi nghề, tuổi quân, kinh
nghiệm sống và cả những đóng góp văn học” [18]. Ơng quan niệm rằng, “nhà
văn cũng như mọi người, cũng có mặt chưa được. Nhưng trước trang giấy thì
họ thánh thiện đấy” [18]. Những trang văn dào dạt lòng thƣơng cảm, niềm xót
xa và nhân văn sâu sắc của Chim én bay, Dịng sơng của Xơ nét, Mặt cát,…
Có lẽ đã khơi nguồn từ tâm hồn “thánh thiện” ấy.
Tuổi thơ của Nguyễn Trí Hn gắn bó với q hƣơng Hà Tây. Học xong
phổ thơng cũng là lúc vừa trịn 18 tuổi, ơng vào bộ đội, thuộc lực lƣợng phịng
khơng khơng qn. Trong những năm tháng chống Mỹ cứu nƣớc, Ông là
chiến sĩ cơng binh, sau làm phóng viên qn chủng. Đây là quãng thời gian

đầu tiên nhà văn bắt đầu cuộc sống binh nghiệp. Chính tại tờ báo quân chủng,

13


ông đã viết truyện ngắn đầu tiên đƣợc in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm
1971, sau khi học xong lớp bồi dƣỡng nhà văn khóa 4, khóa đặc biệt dành cho
chiến trƣờng, ông đƣợc điều vào khu V làm phóng viên và biên tập viên tạp
chí Văn nghệ quân đội miền Trung Trung Bộ. Mặt trận khu V nói chung và
mặt trận Quảng Đà nói riêng thời kì này vơ cùng ác liệt. Ơng đã cùng đồng
nghiệp xuống tận cơ sở, bám trụ và viết.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Nguyễn Trí Hn tham gia đội
hình của sƣ đồn 3 - Sao vàng vào giải phóng Đà Nẵng, Phan Rang, Bà Rịa,
sau đó ra tiếp quản Cơn Đảo. Sau này, hình ảnh sƣ đồn 3 đã in đậm và trở
thành khơng gian chính trong các sáng tác của nhà văn.
Sau năm 1975, đất nƣớc hoàn toàn thống nhất, Nguyễn Trí Huân về trại
sáng tác văn học thuộc quân khu V. Cuối năm 1979, ông trở lại Hà Nội và học
khóa I trƣờng viết văn Nguyễn Du. Tốt nghiệp khóa học, Nguyễn Trí Hn
đƣợc tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đều về tạp chí Văn nghệ
quân đội làm biên tập viên rồi làm trƣởng ban văn xi. Ít lâu sau, ơng đƣợc
đề bạt làm Phó tổng biên tập rồi Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ qn đội.
Ơng đƣợc bầu làm ủy viên ban chấp hành khóa VII, ủy viên Đảng đồn Hội
Nhà văn Việt Nam. Hiện nay, Ơng là Phó tổng thƣ kí Hội Nhà văn Việt Nam
kiêm Tổng biên tập tuần báo Văn nghệ.
Cũng nhƣ bao ngƣời lính trên khắp đất nƣớc Việt Nam, cuộc đời của
Nguyễn Trí Huân cũng bị chiến tranh gây nên những thƣơng tổn nặng nề. Đất
nƣớc hịa bình nhƣng ngƣời anh trai của ơng nằm lại nơi chiến trƣờng. Vành
khăn tang nhƣ vịng kim cơ siết chặt trên đầu mỗi thành viên trong gia đình.
Có lần ông tâm sự: Tôi là ngƣời lính, cũng nhƣ nhiều gia đình Việt Nam khác,
gia đình tơi đã bị cuộc chiến tranh xâm lƣợc của Mỹ xé rách. Cho đến nay đã

ba mƣơi năm trôi qua, cái chết của anh tôi đối với cha mẹ tôi, chị tôi vẫn
khủng khiếp nhƣ vừa mới xảy ra hơm qua. Có chăng số phận may mắn hơn

14


nên ông đƣợc hƣởng trọn vẹn niềm vui ngày chiến thắng và tiếp tục cống hiến
cho dân tộc trong suốt chặng đƣờng phát triển từ sau khi hịa bình lập lại; nhà
văn có cơ hội ghi lại quãng thời gian “khơng thể nào qn” trong cuộc đời
mình qua những trang văn, trang báo.
Đi qua bão táp của dân tộc, Nguyễn Trí Huân ngời sáng nhƣ một tấm
gƣơng sống dũng cảm dám dấn thân và nhập cuộc với cuộc đời. Gắn bó và có
những cống hiến lớn lao đối với sự nghiệp phát triển văn hóa, văn học dân
tộc, nhà văn Nguyễn Trí Huân đã đƣợc trao tặng những giải thƣởng lớn: Giải
thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989), Giải thƣởng văn học Bộ Quốc
phòng (1989), Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật năm 2007.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Dẫu Nguyễn Trí Huân đƣợc biết đến nhiều hơn trên cƣơng vị của một
tổng biên tập, gắn bó phần lớn cuộc đời cho nghiệp báo, nhƣng chính điều đó
đã làm nên thành công của ông trong văn chƣơng. Vốn sống của một ngƣời
làm báo nay đây mai đó trên khắp các chiến trƣờng, cộng thêm những ám ảnh
khôn nguôi suốt cuộc đời trong những năm tháng chiến tranh đã giúp ông tích
lũy đƣợc nhiều tƣ liệu sống cho các trang văn của mình. Tồn bộ sự nghiệp
của Nguyễn Trí Hn đƣợc đánh dấu bằng các tác phẩm:
- Mặt cát (Tập truyện và ký, 1977)
- Năm 1975, họ đã sống như thế (Tiểu thuyết, 1979)
- Dịng sơng của Xơ nét (Truyện, 1980)
- Chim én bay (Tiểu thuyết, 1988)
- Dấu thời gian (Ký, 2004)
Có thể nhận định rằng, hầu hết sáng tác của Nguyễn Trí Huân đều tập

trung vào đề tài lớn là chiến tranh cách mạng và ngƣời lính. Với ơng viết về
chiến tranh không đơn thuần chỉ là một đề tài văn chƣơng, mà nó dƣờng nhƣ
là máu thịt, là món nợ ân tình khó có thể dứt bỏ.

15


Dù viết ít song tiểu thuyết Nguyễn Trí Hn có một vị trí nhất định trong
bức tranh chung của tiểu thuyết giai đoạn hậu chiến và làm phong phú thêm
mảng tiểu thuyết viết về chiến tranh thời kì này. Với hai cuốn tiểu thuyết
nhƣng nhà văn Nguyễn Trí Huân đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng
độc giả và thành công trong sáng tác của ông cũng đƣợc giới lí luận, phê bình
ghi nhận. Có thể nói, nếu Đất trắng làm nên Nguyễn Trọng Oánh, Ăn mày dĩ
vãng làm nên Chu Lai, Nỗi buồn chiến tranh nổi danh cùng tên tuổi Bảo
Ninh, Lê Lựu gắn với Thời xa vắng, Dƣơng Hƣớng đi cùng Bến khơng chồng
thì nhắc đến Năm 1975, họ đã sống như thế hay Chim én bay là nhắc tới nhà
văn - nhà báo Nguyễn Trí Huân.
Tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế lấy cảm hứng từ chiến thắng
của chiến dịch Hồ Chí Minh với tâm điểm là khoảng thời gian gần ngày giải
phóng 30 tháng 4 năm 1975. Trong tiểu thuyết khơng có nhân vật nào là nhân
vật trung tâm, các nhân vật Thư, Thức, Thiết, Mạc, Nhã… xuất hiện rải rác,
đan xen nhau. Mỗi con ngƣời một quê hƣơng, một tính cách nhƣng họ ln
sát cánh cùng nhau và chia sẻ khó khăn trong lúc bom rơi, đạn nổ nơi chiến
trƣờng. Bằng việc tạo ra sự đa dạng về điểm nhìn, Năm 1975, họ đã sống như
thế đã đem lại những góc nhìn đa diện về cuộc chiến tranh. Việc sử dụng nhật
kí của một tên sĩ quan ngụy chết trƣớc cuộc tổng tiến công mùa xuân năm
1975 ở ngay những trang đầu tiên trong tiểu thuyết, bản chất chiến tranh từ
phía địch đƣợc lộ rõ: “Chiến tranh cần thiết hay vô ích? Nó nâng cao con
người hay hủy hoại con người? Thật ra, cho đến giờ phút này ta cũng chưa
thể đưa ra một kết luận nào chắc chắn” [16, 8]. Với ngƣời lính ở phe ta, tham

gia cuộc chiến tranh chính là một sự tự nguyện, là sự cống hiến hết mình cho
Tổ quốc. Nhƣng với sĩ quan ngụy, chiến tranh chỉ là “Một đống sự phi lí, méo
mó” trong cái tập thể “ung thối”. Chiến tranh đã hủy hoại cả một thế hệ trẻ,
ngƣời ta gọi họ đi lính “như thể lùa những con vịt vô chuồng”, khiến họ bị

16


dồn vào thế cùng, “bị kìm hãm”, “rồi rơi vào trạng thái thối rữa” nhƣng
khơng có cách nào thốt ra đƣợc. Đặt chiến tranh trong cách nhìn của một
ngƣời lính phía bên kia chiến tuyến, nhà văn đã mang đến cho tiểu thuyết bức
phác họa chiến tranh chân thực và sống động.
Năm 1975, họ đã sống như thế ghi nhận sự đổi mới mạnh mẽ trong việc
phản ánh chiến tranh và xây dựng hình tƣợng ngƣời lính. Khác với tiểu thuyết
sử thi giai đoạn 1945-1975, tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân đã xây dựng đƣợc
kiểu nhân vật tập thể cùng với các nhân vật cá nhân khách quan và chân thực
hơn. Bên cạnh hình ảnh ngƣời lính “ít tính lí tưởng”, khơng hồn hảo, sạch sẽ,
khơng đƣợc “bao bọc trong bầu khơng khí vơ trùng” nhƣ trƣớc đây thƣờng
thấy, ngƣời lính trong Năm 1975, họ đã sống như thế cũng có những phút đớn
hèn, nhát sợ với tƣ tƣởng quay đầu và hơn nữa là chân dung của những kẻ
phản bội mà dƣới con mắt của Mạc đó là “vài dúm cứt sắt” do “lò luyện thép”
chiến tranh “thải ra”. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ gần
gũi với đời sống, Nguyễn Trí Huân đã đem đến cho tiểu thuyết sử thi một
diện mạo mới, một cách tiếp cận gần gũi và hiệu quả từ ngƣời đọc.
Chim én bay, tiểu thuyết dày hơn 200 trang, dạo đầu bằng một bài ca:
… “Em mong sao trên trái đất hoa thơm nở bốn mùa
Em mong sao trên trái đất không còn chia li
Em mong sao trên trái đất mọi con người
Như em đây là chim trắng bay giữa trời
Sống để yêu thương”…

Ngƣời ta cứ nghĩ đó là một khúc ca bình n vậy mà lại có q nhiều bão
tố. Tiểu thuyết trải dài trong khoảng thời gian hơn 10 năm và cô đặc trong
không gian của dải đất nhỏ hẹp vùng duyên hải Trung Bộ. Nguyễn Trí Huân
đã tạo ra sự đối lập nghiệt ngã giữa số phận trẻ em và chiến tranh. Chiến tranh
đã cắt những vết thƣơng lên tâm hồn và thể xác những em nhỏ - đội viên đội

17


Chim én, khi chƣa hiểu thế nào là qui luật của chiến tranh thì các em đã bị nó
cuốn vào guồng quay khốc liệt nhƣ mọi sinh linh khác. Quy trở thành trẻ mồ
cơi khi chƣa trịn 12 tuổi, 15 tuổi trở thành đàn bà và mất vĩnh viễn quyền làm
mẹ. Có lẽ, khơng ở đâu nhƣ trên đất nƣớc Việt Nam, thứ “đồ chơi” duy nhất
đầy sức ám ảnh với tuổi thơ Quy, Dũng, Thêm, Dũng nhỏ và những con én bé
nhỏ khác là cây Ru-lô, khẩu K54, quả lựu đạn… những thứ vũ khí đen ngịm
và vơ tình của chiến tranh. Khơng ở đâu mà “trị chơi” duy nhất trong tuổi thơ
của các em lại là việc đi tìm diệt những kẻ phản bội đã gây nên tội ác với gia
đình và đồng bào mình. Chim én bay không chỉ đặc tả đƣợc những khuôn mặt
dị dạng và gớm ghiếc của chiến tranh mà còn đặt ra vấn đề nhân đạo. Đặc
biệt, với việc xây dựng kết cấu theo dịng kí ức, sử dụng đắc địa thủ pháp
đồng hiện Nguyễn Trí Huân đã tạo đƣợc một hiệu ứng đặc biệt trong cảm xúc
của độc giả.
Là một nhà văn khơng có nhiều sáng tác, song Nguyễn Trí Hn đã có
những đóng góp quan trọng vào sự đổi mới văn học sau 1975, đặc biệt là ở
thể loại tiểu thuyết. Qua nhiều thế hệ, các sáng tác của ông luôn đƣợc bạn đọc
đón nhận với niềm yêu mến và trân trọng.
Tiểu kết: Tiểu thuyết hậu chiến tiếp nối mạch nguồn của đề tài chiến
tranh từ văn học chống Pháp, chống Mỹ nhƣng đã tạo dựng đƣợc một diện
mạo hoàn toàn mới thông qua việc thay đổi cách tiếp cận hiện thực và phản
ánh con ngƣời. Hòa vào dòng chảy chung của tiểu thuyết sau 1975, tiểu

thuyết Nguyễn Trí Hn khơng chỉ góp phần làm phong phú thêm bức tranh
chung của tiểu thuyết hậu chiến mà còn tạo đƣợc những nét chấm phá trong
bức phác họa về chiến tranh ấy.

18


CHƢƠNG 2
HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VÀ SỐ PHẬN CON NGƢỜI
TRONG TIỂU THUYẾT CUẢ NGUYỄN TRÍ HN NHÌN TỪ NỘI DUNG PHẢN ÁNH
2.1. Bức tranh hiện thực
Văn học là tấm gƣơng phản chiếu đời sống xã hội, nhà văn là ngƣời thƣ
kí trung thành của thời đại. Vì vậy, văn học gắn bó với chức năng phản ánh
hiện thực. Sau 1975, chiến tranh chấm dứt, đất nƣớc chuyển sang một thời kì
mới. Do đó, viết về hiện thực chiến tranh ngƣời nghệ sĩ khơng bị bó buộc
trong những tƣ tƣởng định sẵn mà thể hiện tính đa chiều của hiện thực. Nhiều
bình diện của chiến tranh: quá khứ, hiện tại, tƣơng lai, chiến trƣờng, hậu
phƣơng, tổn thất, vinh quang đƣợc nhà văn đi sâu khám phá và thể hiện. Nằm
trong xu hƣớng đổi mới đó, tiểu thuyết Nguyễn Trí Hn mở rộng chiều kích
và có cái nhìn tồn diện về bức tranh hiện thực cả trong và sau chiến tranh.
2.1.1. Hiện thực chiến trường
Xuất phát từ những trăn trở của một ngịi bút đầy trách nhiệm, nhà văn
Nguyễn Trí Hn đã thốt đƣợc lối mịn của tiểu thuyết cách mạng và tìm đến
một lối viết khơng chỉ nói đến thắng lợi mà cịn phải nói đến nỗi đau khổ do
qn thù gây lên. Chính lẽ đó, hiện thực chiến tranh trong tiểu thuyết của
Nguyễn Trí Huân là hiện thực đƣợc nhận thức lại, ở đó có những chiến cơng
làm bừng lên sức mạnh, ý chí của dân tộc và có cả những khó khăn, bi quan
tƣởng nhƣ khơng thể gƣợng dậy.
Tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế tái hiện cuộc chiến tranh
chống Mỹ cứu nƣớc ở thời điểm ác liệt của lịch sử khi nó đã tiến sát đến ngày

tổng tiến cơng 30 tháng 4 năm 1975. Theo đó, mạch sự kiện, diễn tiến các
trận đánh vẫn là sợi dây xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, khác hẳn với không

19


khí sử thi hừng hực khí thế trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh
Châu, ngay từ đầu tiểu thuyết đã mở ra một khung cảnh tan tác khi D3 để mất
cao điểm 174. Súng nổ, lựu đạn liên tiếp ném xuống, anh em thƣơng vong
gần hết “ba người ngồi nép vào nhau trong căn hầm sụt lở giữa đỉnh đồi.
Thỉnh thoảng một mảng trời méo mó lại lộ ra sau màn khói đạn dày đặc” [16,
33], “Sau mỗi loạt pháo (…) đầy khói đạn cứ loang lổ dần, thăm thẳm trên
đỉnh đầu” [16, 34]. Mất cao điểm 174, cuộc chiến liên tiếp rơi vào những tình
huống vơ cùng khó khăn. Đặc biệt, càng đến những ngày cuối cùng của chiến
dịch, trận tuyến giữa ta và địch càng co hẹp lại. Ở bên này, Phác, Duật và cả
sƣ trƣởng Khâm dù muốn hay không vẫn phải nhắm bắn thẳng về phía bên kia
trong đó có em, anh và con mình. Chiến tranh đã len lỏi vào mỗi gia đình và họ
nghiễm nhiêm phải đối mặt nhau, trở thành kẻ thù của nhau trên chiến tuyến.
Bối cảnh chính của tiểu thuyết diễn ra ở Hoài Châu, Hoài Nhơn nhƣng
chiến trƣờng đã bị thu hẹp đến cùng cực. Có những lúc ranh giới giữa ta và
địch chỉ cách nhau một con đƣờng, một ngơi nhà, thậm chí một bức tƣờng đổ.
Rõ ràng, dù vẫn mang âm hƣởng sử thi khi miêu tả chiến tranh nhƣng nhà văn
đã hƣớng ngịi bút của mình đến gần sát hơn với hiện thực. Ở đó, ngƣời đọc
nhƣ đƣợc nhìn vào cận cảnh với “đạn nổ choang chác, veo véo ở xung quanh”
[16, 211]. Đối với vùng bắc Bình Định, bom đạn đã in dấu trên những căn
nhà, những thửa ruộng, gần nhƣ không đâu là không có hố bom, hố đạn.
Những ngơi mộ nằm kề sát những ngôi nhà, những căn hầm. Không né tránh
những thời điểm khốc liệt nhất của chiến tranh, Nguyễn Trí Huân đã cho
ngƣời đọc thấy đƣợc diễn biến chân thực nhất của nó. Có những lúc cả ba tiểu
đồn, chỉ sau trận đánh đầu tiên, qn số cịn lại q ít ỏi. Tiểu đồn pháo

binh của Phác, tiểu đồn cơng binh của Khải liên tục đƣợc tăng cƣờng nhƣng
cũng liên tục gặp phải thất bại. Phƣơng án vƣợt sông không thành, đến cuộc
hành quân đƣờng bộ thì ngƣời nào cũng mệt nhồi “càng đi càng có cảm giác

20


đang bị lún sâu trong đầm, như không bao giờ tới bờ bên kia nổi” [16, 316].
Trƣớc năm 1975, chƣa bao giờ ngƣời đọc bắt gặp trong tiểu thuyết những
hoàn cảnh bi thƣơng đến thế.
Mặc dù vẫn thiên về cảm hứng sử thi nhƣng hiện thực chiến tranh trong
Năm 1975, họ đã sống như thế đã đƣợc dồn nén cả về không gian và thời
gian. Nhà văn tập trung miêu tả khơng khí của trận địa pháo bằng những thời
khắc rất ngắn, thƣờng là “nửa giờ”, “mười phút sau”, “hơn một giờ” hoặc
những mốc thời gian chính xác: “tám giờ”, “chín giờ”, “năm giờ sáng”, “bảy
giờ tối”, “nửa đêm”, “một giờ sáng”, “ba giờ sáng”. Bằng những điểm thời
gian ấy, tác giả nhƣ đang dẫn dắt ngƣời đọc cùng chứng kiến mỗi bƣớc
chuyển biến của trận địa. Cuộc chiến diễn ra căng thẳng trong từng giây phút,
thế trận liên tục chuyển dịch giữa ta và địch, khi thì hỏa lực pháo binh địch
bắn điên dại nhƣng có lúc lại nằm câm bặt, khơng có lấy một phản ứng nhỏ.
Cũng có khi nhà văn tập trung miêu tả những cuộc hành quân của ngƣời lính
“đêm như vỡ ra bởi những tiếng nổ ở cả hai phía bờ sơng. Pháo ta bắn, pháo
địch bắn. Nhiều quả rơi xuống mặt nước, sóng dập vào bờ sú óc ách. Đại đội
đi thành hàng một, vai vác pháo, chân sục trong bùn. Không thể phân biệt
được người nào là du kích, người nào là bộ đội chủ lực nữa. Tất cả đều cởi
trần, cài ngụy trang nom như những khóm cây di động” [16, 301]. Mỗi ngƣời
lính đều lặng lẽ, gấp gáp bởi chiến tranh không chờ đợi một ai và cuộc chiến
càng lúc càng bất lợi cho phía ta.
Trong cảm nhận của một sĩ quan ngụy chết trƣớc tổng tấn công và nổi
dậy mùa xuân năm 1975, chiến tranh cũng khốc liệt không kém. Giữa bộn bề

những nghĩ suy, trăn trở sĩ quan ngụy đã phác họa diện mạo chiến tranh đen
đúa, tăm tối ở phía địch. Ngay trong căn hầm tên lính ngụy đang sống luôn
lổn nhổn những mảng xƣơng ngƣời đen thẫm, nồng nặc mùi hôi thối bốc lên
và không hiếm những mảng sọ đang nhe răng cƣời ở một góc hầm. Kinh

21


khủng hơn, một tên lính ngụy cịn lấy một mảng sọ ngƣời in hằn những đƣờng
dây thần kinh trên não bộ gọt một thẻ bùa hộ mệnh đeo trƣớc ngực. Chết chóc
ln lảng vảng ngay quanh sự sống của mỗi ngƣời lính ngụy và đối với họ, nó
cũng khơng cịn lạ lẫm gì. So với hiện thực trần trụi của chiến tranh ở phía ta
thì bộ mặt chiến tranh ở phía địch đƣợc Nguyễn Trí Hn nhìn thẳng, nhìn
sâu vào sự thật, mở ra những vùng hiện thực mới mà trƣớc đây chƣa từng
đƣợc biết đến trong tiểu thuyết chiến tranh.
Cũng nhƣ Năm 1975, họ đã sống như thế, Chim én bay mở ra bằng thời
điểm khó khăn của cách mạng sau cuộc tập kích chiến lƣợc tết Mậu Thân. Sƣ
đoàn Sao Vàng, một sƣ đoàn chủ lực của chiến trƣờng khu 5, từng làm cho sƣ
đồn khơng vận số 1 của Mỹ điêu đứng cũng bị đẩy dần dần khỏi đồng bằng,
khỏi vùng ranh và cuối cùng bị đẩy bật lên thƣợng nguồn sông Côn. Theo
cách miêu tả của nhà văn, đó là những năm tháng của pháo bầy, của bom rải
thảm. Nguyễn Trí Huân đã giúp bạn đọc hình dung đƣợc cái dữ dội, điên
cuồng của chiến tranh trên mảnh đất Bình Định vốn đã khắc nghiệt này.
Sự khốc liệt của chiến trƣờng còn hiện lên rõ nét qua những cái chết thảm
thƣơng. Từ tiểu thuyết Năm 1975, họ đã sống như thế cho đến Chim én bay,
hình ảnh cái chết của các nhân vật xuất hiện nhiều và có sức ám ảnh lớn. Nếu
nhƣ trong chiến tranh, “điều khơng bình thường đã trở nên bình thường” thì
cái chết cũng vậy. Có những cái chết khơng rõ ngun nhân, bất ngờ và đột
ngột. Trong số những cái chết đƣợc nhắc đến, cái chết của Mạc là cái chết từ
từ đầy ám ảnh: “nước ộc vào miệng, vào mũi, vào tai mạc. Mạc giãy giụa,

ngột ngạt. Những chiếc bong bóng nổi trên mặt sơng. Con sơng nước mặt,
xanh thẫm. Sóng vẫn ào ạt đổ qua trụ cầu gãy, cuốn theo những chiếc ván
thuyền cịn nổi trên sơng, ra biển” [16, 331]. Cái chết của anh Dƣơng, chị
Hảo, của Dũng, của ba Quy trong Chim én bay cũng vô cùng thê thảm và đau
đớn, “Cách chỗ chị vài sải tay Dũng nằm, ngực vỡ nát. Đơi ống chân gầy gị

22


×