Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Số phận con người trong tiểu thuyết của Dương Hướng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 122 trang )


1



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THU


S
S




P
P
H
H


N
N


C


C
O
O
N
N


N
N
G
G
Ư
Ư


I
I


T
T
R
R
O
O
N
N
G
G



T
T
I
I


U
U


T
T
H
H
U
U
Y
Y


T
T


C
C


A

A


D
D
Ư
Ư
Ơ
Ơ
N
N
G
G


H
H
Ư
Ư


N
N
G
G




LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 60 22 34

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp


Hà Nội – 2013



2

MỤC LỤC TRANG
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………… 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………… 5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu………………………………………… 9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………………………… .9
5. Cấu trúc của luận văn……………………………………………………….10
CHƢƠNG 1: Vấn đề con ngƣời trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và quan
niệm của nhà văn Dƣơng Hƣớng về con ngƣời…………………………… 10
1.1. Con ngƣời- đối tƣợng trung tâm của văn học………………………… 10
1.2. Sự đổi mới quan niệm về con ngƣời trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1975……………………………………………………………………………11
1.2.1 Con ngƣời xã hội 14
1.2.2 Con ngƣời tự nhiên (bản năng) 16
1.2.3 Con ngƣời tâm linh 19
1.3. Quan niệm của nhà văn Dƣơng Hƣớng về con ngƣời………………. … 22
1.3.1.Đôi nét về cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn Dƣơng Hƣớng………… 22
1.3.2. Quan niệm của nhà văn Dƣơng Hƣớng về con ngƣời……………… 25

CHƢƠNG 2: SỐ PHẬN CON NGƢỜI QUA THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA DƢƠNG HƢỚNG……………………………. 29
2.1. Khái lƣợc về nhân vật văn học……………………………………… 29
2.2. Các loại nhân vật trong tiểu thuyết của Dƣơng Hƣớng………………… 32
2.2.1. Nạn nhân của chiến tranh……………………………………………….35
2.2.1.1. Ngƣời lính trở về sau chiến tranh…………………………………… 37
2.2.1.2. Ngƣời phụ nữ- biểu hiện của bi kịch tình yêu, hạnh phúc gia đình .51
2.2.1.3. Một số nhân vật khác……………………………………………… 59
2.2.2. Nạn nhân của cơn lốc lịch sử………………………………………… 62

3
2.2.2.1. Nạn nhân của công cuộc Cải cách ruộng đất và phong trào Hợp tác hoá
nông thôn………………………………………………………………………63
2.2.2.2. Nạn nhân của những tập tục, hủ tục, định kiến……………………….70
2.2.3. Nhân vật bị tha hóa…………………………………………………… 75
2.2.3.1 Nhân vật bị tha hóa bởi môi trƣờng hoàn cảnh……………………… 76
2.2.3.2. Nhân vật bị tha hóa bởi chính bản thân…………………………… 78
2.2.4. Những con ngƣời vƣợt lên trên số phận……………………………… 83
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SỐ PHẬN CON NGƢỜI TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA DƢƠNG HƢỚNG…………………………………….88
3.1. Nghệ thuật tạo dựng xung đột…………………………………………….88
3.1.1 Xung đột bên ngoài 90
3.1.2 Xung đột bên trong 94
3.2. Ngôn ngữ………………………………………………………………….98
3.2.1. Ngôn ngữ trần thuật…………………………………………………… 99
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật…………………………………………………….102
3.3. Giọng điệu trần thuật…………………………………………………….104
3.3.1. Giọng điệu phân tích, mổ xẻ ……………………………………… 105
3.3.2. Giọng ngợi ca bi tráng…………………………………………………109
3.3.3. Giọng trữ tình xót xa………………………………………………… 110

3.3.4. Giọng triết lý………………………………………………………… 111
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………116






4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1 “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con
người”. Nhận xét của nhà văn Nguyễn Minh Châu nói lên được sứ mệnh cao cả
của văn chương là phản ánh một cách sinh động và trung thực về con người.
“Thân phận con người là mối quan tâm vĩnh cửu của các nhà văn chân chính”.
Nó là mạch nước ngọt ngào để các nhà văn hòa mình vào đó, đi tiếp trong bước
đường sáng tạo không mấy bằng phẳng của nghề cầm bút.
Là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học đương đại với tư duy
“nhìn thẳng vào sự thật” để phản ánh những góc khuất của lịch sử, Dương
Hướng đã chạm đến được những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến số phận
con người trong chuyển biến của lịch sử. Từng có những trải nghiệm sâu sắc về
lịch sử, về chiến tranh, những trang viết của ông rất sâu đậm, hằn rõ những thân
phận và tính cách mỗi nhân vật. “Nó không nửa vời, nửa chừng và càng không
hời hợt. Ngòi bút của Dương Hướng là một ngòi bút quyết liệt dám nói thật kể
cả những bi kịch đau đớn nhất của con người, của chiến tranh” [24].
1.2 Hai tác phẩm Bến không chồng và Dưới Chín tầng trời tuy chưa có
những cách tân thực sự về thi pháp nhưng là hai tiểu thuyết đáng chú ý của văn
học Việt Nam sau 1986. Nếu như Bến không chồng đã được trao giải thưởng
của Hội nhà văn năm 1991 thì Dưới chín tầng trời cũng được lọt vào vòng

chung khảo cuộc thi tiểu thuyết lần thứ 3 (2006- 2009) do Hội nhà văn tổ chức.
Cả hai tác phẩm đều miêu tả rất ám ảnh về số phận con người qua những bước
thăng trầm của lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, mới chỉ xuất hiện những bài
viết và những công trình nghiên cứu đề cập đến một vài khía cạnh của hai tiểu
thuyết mà chưa có công trình nào khảo sát một cách hệ thống về số phận con
người trong hai tác phẩm này. Đây chính là vấn đề mà luận văn sẽ hướng tới.
Đặt vấn đề tìm hiểu số phận con người trong tiểu thuyết của Dương Hướng
(khảo sát qua hai tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời), chúng

5
tôi hy vọng sẽ góp thêm một tiếng nói tri ân đối với tài năng của nhà văn
Dương Hướng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1 Những đánh giá chung về sự nghiệp của Dƣơng Hƣớng:
Thuộc số các nhà văn xuất hiện và trưởng thành từ phong trào văn nghệ
quần chúng, Dương Hướng đến Với nghiệp văn khá muộn nhưng những tác
phẩm của ông lại được bạn đọc yêu thích. Đó là cái tài và cũng là cái duyên của
người cầm bút. Đặc biệt trên lĩnh vực tiểu thuyết, nhà văn đã gặt hái được thành
công đáng ghi nhận. Dù chỉ là nhà văn “nghiệp dư” với số lượng tiểu thuyết khá
khiêm tốn (ba cuốn) nhưng Dương Hướng đã là cái tên thường được nhắc đến
trong các công trình nghiên cứu về văn học sau 1975. Người ta ghi nhận ông
như một gương mặt sáng giá của cao trào đổi mới văn học. Tác giả Nguyễn
Duy Liễm trong bài viết “Dương Hướng người ghi mốc son cho văn học thời kì
đổi mới” đã đánh giá rất cao về tác phẩm của Dương Hướng. Theo tác giả, với
tác phẩm Bến không chồng, Dương Hướng đã “rẽ ngoặt” khỏi “tính nguyên tắc”
và dám nói thẳng những cái “mông muội- sự ấu trĩ về một sai lầm” khủng khiếp
của thời đại đã qua. Và nhà nghiên cứu đi đến kết luận “Dương Hướng đã mở
đường cho văn học đổi mới bứt phá” [20]. Khi luận bàn về tác phẩm Dưới chín
tầng trời, Nguyễn Duy Liễm đã chỉ rõ Dương Hướng chạm đến một vấn đề khá
nhạy cảm của lịch sử. Ông đã thẳng thắn chỉ ra những nghịch cảnh, những bi

thương của con người trong chiến tranh, những con người có nhiều đóng góp
cho cách mạng, nhưng họ lại phải chịu những oan ức, những bi kịch do chính
cách mạng đem lại cho họ như thương gia Đức Cường, gia tộc Hoàng Kỳ…
Nhà nghiên cứu nhận định “Dương Hướng đang làm một cánh chim báo bão”
[20]. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh trọng tâm của quốn sách là nhân vật Trần
Tăng- những cán bộ cao cấp bị tha hóa biến chất. Dương Hướng dám đụng đến
vùng “đất cấm”, “đất thiêng” khi bóc trần sự tha hóa của họ. Theo nhà nghiên
cứu cái hay, bất ngờ và làm nên sự thành công của tác phẩm là tác giả để cho
nhân vật Tuyết- sản phẩm tinh thần của Trần Tăng rẽ ra thành một diện mạo
riêng khi nhận ra cái sai lầm của thời cuộc. Có thể nói, trong bài viết Nguyễn

6
Duy Liễm đã đánh giá rất cao vai trò của nhà văn Dương Hướng trong văn học
thời đổi mới.
2.2 Những bài bình luận, đánh giá về tiểu thuyết Bến không chồng:
Là tác phẩm được giải thưởng của Hội nhà văn năm 1991, Bến không
chồng là cái tên được nhắc đến khá nhiều trong giới nghiên cứu phê bình cũng
như độc giả. Theo sự thống kê của chúng tôi thì có những bài viết đáng chú ý
sau:
- Nhà văn Trung Trung Đỉnh có bài: Dương Hướng và Bến không chồng
đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 12 năm 1991. trong bài viết, tác giả đưa
ra nhân xét về đề tài, nội dung và kết cấu của Bến không chồng. Theo tác giả,
tác phẩm tuy có đề cập đến đề tài nông thôn, chiến tranh và xã hội nhưng
Dương Hướng không nhằm vào đề tài, mà “Anh khai thác tận cùng thân phận
những nhân vật chính” [5]; Về mặt nội dung, tác giả cảm nhận được sự chân
thật giản dị trong ngòi bút hiện thực của Dương Hướng qua việc miêu tả ngôi
làng Đông ngột ngạt của chiến tranh và sau chiến tranh. Với “những hủ tục ngặt
nghèo chưa tháo gỡ được từ bên trong từng con người, từng dòng họ…” tự
nhiên, gần gũi. Còn về mặt kết cấu tiểu thuyết, tác giả chỉ ra cách kết cấu hồn
nhiên, thuận theo thời gian, sự kiện; Tác giả cũng chỉ ra mặt hạn chế, đó là sự

dẫn dắt đôi khi hơi vụng, thiếu tế nhị. Nhưng cuối cùng, ưu điểm vẫn là chủ
yếu.
- Nhà văn Nguyên Ngọc đã có những nhận xét về tiểu thuyết Bến không
chồng như sau: “Đến Bến không chồng của Dương Hướng thì tiếng kêu thét của
cá nhân vị vùi lấp càng mạnh mẽ, thống thiết hơn”, “Viết về vai trò của cá
nhân, lại đụng đến nhiều vấn đề của làng quê Việt Nam, Bến không chồng đặt
ra nhiều vấn đề nhưng nhà văn chỉ xoáy sâu vào số phận của những nhân vật
gắn với thời đoạn đó, trong hoàn cảnh đó” và nhà văn đi đến kết luận “Dương
Hướng là ngòi bút có tình khi nói về nỗi đau của con người” [29].
- Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long có bài phê bình trên báo Văn nghệ:
“Tác phẩm cho thấy một phương diện của thực trạng đời sống tinh thần trong

7
nông thôn… con người vừa là nạn nhân mà cũng là thủ phạm của tấn bi kịch
đời mình, họ phải chịu trách nhiệm một phần về số phận của mình. Cái nhìn của
anh theo tôi là đúng mực, bình tĩnh và khách quan mà vẫn toát lên niềm tin và
nỗi xót xa về con người…” [23]. Theo tác giả, nông thôn trong tác phẩm của
Dương Hướng không được khai thác sâu ở phương diện các phong trào cách
mạng, các vấn đề của đời sống chính trị xã hội mà ông tập trung làm rõ ý thức
và tập quán về họ tộc tới số phận con người. Sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết
chính là ở “sự chân thực, ở vốn hiểu biết đời sống nông thôn và một cách nhìn
cảm thông, nhân đạo với số phận con người” [23].
- Ngoài ra, tác phẩm còn có một số công trình nghiên cứu khoa học, khóa
luận tốt nghiệp của sinh vên, luận văn thạc sĩ, Luận án phó tiến sĩ ngữ văn. Về
cơ bản các bài nghiên cứu đi vào khảo sát khía cạnh Bến không chồng là một
tác phẩm tiêu biểu tạo nên diện mạo nông thôn Việt Nam trong văn xuôi thời
đổi mới. Tiêu biểu tác giả Lã Duy Lan với công trình “Văn xuôi viết về nông
thôn trong công cuộc đổi mới qua một số tác phẩm tiêu biểu”. Hoặc trong luận
văn thạc sĩ của Lê Thị Tâm Hoài với đề tài “Người phụ nữ trong ba tiểu thuyết
đoạt giải 1991”…

2.3 Những bài nghiên cứu về tác phẩm Dưới chin tầng trời:
Dưới chin tầng trời được in Năm 2007 do nhà xuất bản Hội nhà văn phát
hành. Tuy đã được xuất bản một thời gian khá lâu và được lọt vào vòng chung
khảo cuộc thi tiểu thuyết lần thứ ba của Hội nhà văn nhưng chưa có một công
trình nào đi sâu nghiên cứu tác phẩm. Các bài viết bình luận tác phẩm này trên
báo chí cũng rất hạn chế và nếu có thì phần nhiều mang tính giới thiệu sách.
Chúng tôi liệt kê những bài viết đáng chú ý sau:
- Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng có bài “Bi kịch lạc quan Dưới chín
tầng trời” in trên tạp chí Nhà văn số 10- 2008 và sau đó in trong cuốn Tiểu
thuyết đương đại (nhà xuất bản Văn hóa thông tin). Trong bài viết, đầu tiên ông
khẳng định tiểu thuyết Dưới chín tầng trời là một tác phẩm mang tính bi kịch
nhưng qua số phận bi kịch của mỗi nhân vật ta không cảm thấy yếu hèn đi mà

8
có niềm tin vào một ngày mai. Điều thứ hai nhà phê bình nhấn mạnh là cách
tiếp cận lịch sử của nhà văn khi nhận định đây là “cuốn tiểu thuyết toàn bích về
những góc khuất của lịch sử” [39]. Ngoài ra, ông còn cho rằng tác phẩm mang
đậm “chất sử thi tâm lý” bởi nó được mở ra với một thời gian dài, không gian
rộng và tầng tầng lớp lớp nhân vật.
- Là người giới thiệu cuốn tiểu thuyết Dưới chín tầng trời, nhà phê bình
Hoàng Ngọc Hiến có bài “Cách nhìn của Dương Hướng trong tiểu thuyết Dưới
chín tầng trời”. Trong bài viết, tác giả đã nói lên được cái “linh hồn” của tác
phẩm “ngồn ngộn sức sống và đời sống nóng hổi những tư tưởng của thời đại
và những vấn đề thời sự của đất nước” [10]. Bằng việc phân tích một số nhân
vật trung tâm: Yến Quyên, Hoàng Kỳ Trung, Trần Tăng, Đào Kinh…Hoàng
Ngọc Hiến đã làm nổi bật lên nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.
- Khi đánh giá về tiểu thuyết của Dương Hướng, nhà nghiên cứu Phong
Lê có bài “Từ Bến không chồng đến Dưới chín tầng trời” được đăng trên tạp
chí Nhà văn số 9- 2009. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá khái quát về giá trị
nội dung của Bến không chồng. Ông cho rằng tác phẩm “đã góp được một cái

nhìn mới về bức tranh đất nước trong thời chiến và hậu chiến”, với “gánh nặng
không phải chỉ là chiến tranh, mà còn là những lầm lạc của con người trong bối
cảnh có quá nhiều biến động và thử thách”. Tác giả đi đến lí giải, đó chính là
nguyên cớ cho mọi tai họa của con người. Bến không chồng vào thời điểm ra
đời, là một trong số ít tiểu thuyết viết về nông thôn và chiến tranh động được
vào chiều sâu những vấn đề khó nói, hoặc không thể nói trên cả một chặng dài
lịch sử. Song khi so sánh với Dưới chín tầng trời, ông cho rằng Dưới chín tầng
trời là “một bứt phá ngoạn mục để tiến đến một cái đích mới, rõ ràng là cao
hơn, xa hơn trong bám đuổi những chuyển động ngày càng gấp gáp hơn, bề bộn
hơn, phiền phức hơn của các mạch đời trong chuyển giao giữa hai thế kỷ”[18].
Theo tác giả, sưc hút của tác phẩm lại nằm ở phía nhân vật. Tác phẩm có hàng
trăm nhân vật, thuộc mọi tầng lớp xã hội, song mỗi nhân vật đề có tính sắc sảo
luôn cuốn hút người đọc ở tính cách và số phận. Về mặt nghệ thật, tác giả
Phong Lê nhận định đây vẫn là một tác phẩm viết theo lối truyền thống, tuy

9
nhiên vẫn có sự tìm tòi của nhà văn trong cách viết. Đó là sự lắp gép các sự
kiện không theo tuyến tính, sự lắp gép cấu trúc các khối đời vừa độc lập vừa
xen cài. Trong tác phẩm cũng có nhiều chi tiết mang tín biểu tượng tạo nên
những ấn tượng cho tác phẩm. Còn về cấu trúc, cũng giống như nhà phê bình
Bùi Việt Thắng, ông khẳng định đây là cuốn tiểu thuyết mang đậm chất sử thi,
nhân vật chính nhà văn muốn hướng tới chính là lịch sử với một sức mạnh đầy
quyền năng.
Như vậy qua việc khảo sát một số bài viết của các nhà nghiên cứu phê
bình, của các giả, chúng tôi thấy những bài viết này ít nhiều đã đề cập đến nội
dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của hai cuốn tiểu thuyết của nhà
văn Dương Hướng. Trong luận văn này, chúng tôi xin đi vào nghiên cứu sâu
hơn về vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết của Dương Hướng. Chúng
tôi coi những công trình khoa học đi trước như những gợi dẫn quý báu trong
quá trình thực hiện đề tài.

3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung tìm hiểu số phận con người
trong hai tiểu thuyết Bến không chồng và Dưới chín tầng trời của nhà văn
Dương Hướng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Để làm rõ hơn vấn đề, chúng tôi sẽ nghiên cứu số
phận con người trong hai tiểu thuyết của Dương Hướng trong mối tương quan
với các tiểu thuyết của các tác giả khác sau năm 1975.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích tổng hợp: Là phương pháp quan trọng và đặc biệt
cần thiết để đi sâu tìm hiểu số phận con người trong tiểu thuyết của Dương
Hướng. Việc phân tích mỗi tác phẩm để thấy được những khía cạnh cụ thể
trong phản ánh số phận con người của tác giả trong tác phẩm. Phương pháp
tổng hợp giúp cho việc xâu chuỗi các đặc điểm của tác phẩm, đồng thời đánh
giá được nét sáng tạo riêng của ngòi bút Dương Hướng.

10
Phương pháp khảo sát, thống kê: Trong khi phân tích tác phẩm, luận văn
sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê để tăng thêm độ tin cậy và sức
thuyết phục, giúp cho việc triển khai luận điểm, luận cứ được sáng tỏ.
Phương pháp so sánh đối chiếu: Cùng với việc phân tích những nét mới
trong tiểu thuyết của dương Hướng, tác giả luận văn sẽ tiến hành so sánh, đối
chiếu với một số tiểu thuyết cùng giai đoạn và trước đó, nhằm khẳng định vị trí
và giá trị của tác phẩm.
5. Cấu trúc luận văn
Chương 1: Vấn đề con người trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 và quan
niệm của nhà văn Dương Hướng về con người.
Chương 2: Số phận con người qua thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của
Dương Hướng
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện số phận con người trong tiểu thuyết của Dương
Hướng
















11
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: VẤN ĐỀ CON NGƢỜI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT
NAM SAU 1975 VÀ QUAN NIỆM CỦA NHÀ VĂN DƢƠNG HƢỚNG VỀ
CON NGƢỜI
1.1 Con ngƣời - đối tƣợng trung tâm của văn học
Con người là đối tượng nghiên cứu, miêu tả đồng thời cũng là đối tượng tác
động của văn hoc. Điều này đã thành nguyên lí có tính phổ quát. Nói về đối
tượng của văn chương, ta thường nhắc đến câu nói nổi tiếng của M.Gorki “văn
học là nhân hoc”. Cho dù viết về vấn đề gì, thần linh, yêu ma hay quỷ quái, đồ
vật hay con vât, cho dù tuyên bố tác giả đã chết hay nhân vật đã chết thì rốt
cuộc, văn học vẫn là câu chuyện về con người. Nói như Trần Đình Sử con
người là “phạm trù văn hóa, là nội dung cơ bản của văn học và trình độ ý thức
về con người, đánh dấu trình độ phát triển của văn học” [36]. Những mặt liên
quan đến con người, thuộc về con người đều nằm trong phạm vi biểu hiện của

văn học. Từ mặt xã hội đến thuộc tính tự nhiên, từ ý thức đến bản năng, từ dã
man đến văn minh, từ tội ác đến đạo đức, từ quá khứ đến tương lai, từ thất vọng
đến hi vọng, hễ thuộc về con người thì văn học biểu hiện. Các ngành khoa học
khác xem xét con người tùy thuộc vào mục đích khoa học của lĩnh vực đó. Tuy
nhiên, mọi thành tựu của các ngành khoa học đều được văn học triệt để khai
thác khi biểu hiện, lí giải về con người, thể hiện trình độ tổng hợp của nhận
thức về thế giới nghệ thuật của nhà văn. “Văn học là phương tiện quan trọng
giúp con người trở thành con người vì nó mở ra những bí mật của con người,
giúp con người hiểu thêm về chính mình, trở nên phong phú hơn và một phần
từ chỗ hiểu mình, từ chỗ phong phú của chính mình, con người hiểu thêm về
thế giới, về sự phong phú của thế giới” [45]. Vì vậy, tầm vóc của một nền văn
học thể hiện ở cách đặt vấn đề về con người.
Trong văn học, con người là điểm xuất phát, đồng thời cũng là đích cuối
cùng của mọi sáng tạo. Toàn bộ thế giới nghệ thuật trong văn học bộc lộ một
quan niệm thẩm mỹ về con người. Một tác phẩm văn học có thể không có nhân

12
vật người nhưng nó luôn phải là câu chuyện về cõi nhân sinh. Có như vậy, văn
học mới làm cho con người hướng thiện hơn, nhân ái hơn và cũng làm cho con
người đa dạng, phong phú. từng trải và hiểu biết hơn….
1.2 Sự đổi mới quan niệm về con ngƣời trong tiểu thuyết Việt Nam sau
1975
Quan niệm là một điều cốt lõi trong sang tạo nghệ thuật. Phải có một
quan niệm, nhà văn mới có thể lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng
nghệ thuật. Theo D.X.Likhachiev, quan niệm nghệ thuật gắn với sự miêu tả con
người, cái nhìn nghệ thuật về con người trong sự miêu tả đó. Cho nên quan
niệm nghệ thuật về con người như là cơ sở trung tâm đưa văn học vào đúng quỹ
đạo “nhân học” của nó.
Nói quan niệm nghệ thuật là nói tới “phạm trù về các chỉnh thể nghệ
thuật, là công cụ để tư duy về các hiện tượng nghệ thuật như những chỉnh

thể”[35]. Trong đó, quan niệm nghệ thuật về con người có một cách hiểu chung
mang tính phổ biến, đó là sự “lí giải, cắt nghĩa sự cảm thấy con người đã được
hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức thể hiện con
người trong văn học”[37]. Chừng nào chưa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ
thuật về con người thì sự tái hiện các hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý
nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu. Điều này chứng tỏ sự phát
triển của tư duy nghệ thuật phải song hành cùng sự mở rộng, đào sâu các giới
hạn trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Khi tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong tác phẩm văn học,
chúng ta cũng thấy điểm nhìn khác nhau về con người của các nhà văn trong
từng giai đoạn, từng thời kì. Trong thực tế sáng tác và tiếp nhận văn học, người
sáng tác có cách giải mã con người theo ý đồ riêng của mình, người tiếp nhận
cũng dễ dàng nhận ra. Bởi vì, những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật qua
các chặng đường sáng tác văn học, thể hiện ý thức của nhà văn về việc miêu tả
con người, cho thấy sự biến đổi mô hình nghệ thuật về con người, được người
nghệ sĩ cụ thể hóa trong các nhân vật.

13
Con người trong văn học Việt Nam 1945- 1975 chủ yếu là con người
trùng khít với con người xã hội, con người của tầng lớp, giai cấp, con người
hành động, con người phi thường. Điều này cũng dễ hiểu, bởi trong hoàn cảnh
kháng chiến, nhiệm vụ của văn học là trực tiếp tham gia vào sự nghiệp cách
mạng của Đảng, hưởng ứng các khẩu hiệu và nhiệm vụ chính trị. Về cơ bản, đó
là những tính cách nhất quán, hoặc xấu hoặc tốt, hoặc cao cả hoặc thấp hèn. Cái
nhìn về con người của nhà văn bị sự quy định chặt chẽ bởi cái nhìn chung của
cộng đồng. Nhà văn muốn thông qua con người để phán ánh lịch sử, con người
trở thành phương tiện để khám phá lịch sử. Vì vậy mà nhân vật trong tiểu
thuyết thời kì này nặng về cái chung mà nhẹ về cái riêng. Làm sao có thể khác
được? Chiến tranh có quy luật riêng của nó. Muốn vượt qua những khắc nghiệt
của chiến tranh, con người cần sống một cách thực tế, không được phép quá

suy tư và đa cảm, không được phép nghĩ nhiều đến lợi ích và nguyện vọng
riêng tây và cần huy động mọi phẩm chất cao đẹp tiềm ẩn trong bản thân mình.
Chính điều này đã dẫn đến hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết 1945- 1975
mang tính phân tuyến: ta đại diện cho cái thiện, chính nghĩa, địch tiêu biểu cho
cái ác, phi nghĩa. Để ngợi ca vẻ đẹp của chính nghĩa, của lòng yêu nước, các
nhà văn đã dựng lên những nhân vật mang màu sắc lí tưởng, tiêu biểu cho vẻ
đẹp của cộng đồng (chị Sứ, Hai Thép trong Hòn đất của Anh Đức, Lữ, Khuê
trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Thụy, Môn, Nhàn trong
Xung đột của Nguyễn Khải…). Cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi đã
chi phối nguyên tắc xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết giai đoạn này.
Từ sau 1975, tình hình cục diện đã hoàn toàn đổi khác. Cuộc sống mới đã
đặt ra những triển vọng cao hơn cùng những đòi hỏi lớn hơn đối với nhà văn.
Việc chuyển đổi mối quan tâm của văn học chính là nguyên nhân chi phối sự
đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người bởi nó đồng nghĩa với sự thay đổi
vị thế của con người trong văn học: từ vai trò là phương tiện để nhà văn quan
sát lịch sử xã hội trở thành đối tượng quan sát của nhà văn. Con người quay trở
về với thời bình, phải đối diện với bao khó khăn phức tạp. Đời sống cá nhân
của con người với bao mối quan hệ chằng chịt, phức tạp lắm khi oái oăm đã trở

14
thành đối tượng của văn học. Mỗi con người vừa là thành viên của một thể chế
xã hội, cũng vừa là một con người cá nhân trong mối quan hệ với chính mình,
với gia đình, bạn bè, người thân. Nhân vật được nhìn ngắm, soi chiếu trên trục
lịch đại để hiểu rõ về bản thân. Các nhân vật luôn có ý thức nhìn nhận về quá
khứ để lí giải chính bản thân mình, để tự thú, để sám hối. Trong sự vận động
của chính bản thân, con người tự nhận thấy cái cao cả, cái thấp hèn, cái tốt, cái
xấu…trong chính mình. Như thế, với tư cách là đối tượng của văn học “con
người được nhìn nhận như một nhân cách đích thực trong tính tổng thể và toàn
vẹn, được soi chiếu từ mọi mối quan hệ, được thừa nhận ở mọi giá trị liên quan
tới con người mà trong đó giá trị xã hội chỉ là một yếu tố”[35].

Vì đời sống cá nhân là đối tượng hàng đầu nên những gì thuộc về cá
nhân đều được nhà văn nỗ lực khai thác, khám phá. Nếu nhân vật của giai đoạn
trước thường được nhấn mạnh ở góc độ xã hội, giai cấp, tầng lớp thì nhân vật
thời kì này được đặc biệt quan tâm thể hiện ở tư cách cá nhân, với thế giới tâm
hồn đầy bí ẩn. Những trăn trở, những suy tư dằn vặt của nhân vật được nhà văn
khắc họa sâu sắc nhằm thể hiện rõ hơn con người cá nhân. Thế giới nội tâm của
con người được khám phá ở bình diện ý thức, tiềm thức, vô thức. Những khát
vọng, mong ước mang tính bản năng được nói đến nhiều hơn. Vấn đề hạnh
phúc cá nhân, tình yêu gắn với tình dục được nhắc đến như một phần tất yếu
của con người mang đầy tính nhân bản.
Bệnh đơn giản một chiều trong quan niệm nghệ thuật về con người ở giai
đoạn trước đã được khắc phục. Văn học mở rộng khám phá con người trên
nhiêu bình diện: con người phàm tục xen lẫn thiên thần và ác quỷ, con người
không hoàn hảo vừa có ý nghĩa đối thoại với những quy phạm nghệ thuật từng
được xác lập trong quá khứ, vừa đòi hỏi phải xem xét con người một cách toàn
diện, trong những hoàn cảnh cụ thể, cá biệt. Và thật có ý khi báo cáo của Ban
chấp hành Hội nhà văn Việt Nam lần thứ VI khẳng định: “có lẽ sự thật lớn nhất
mà văn học ta cần tìm hiểu là sự thật về tâm hồn con người”.

15
Khi nói đến cái nhìn toàn vẹn về con người, chúng ta nói đến con người
trong ba mối quan hệ chính: con người xã hội, con người tự nhiên và con người
tâm linh.
1.2.1 Con ngƣời xã hội
Con người trong tính hiện thực của nó luôn là “tổng hòa của các mối
quan hệ xã hội” (Mark). Con người tồn tại những thuộc tính xã hội. Là một tế
bào của xã hội, con người phản ánh nhiều mối quan hệ xã hội: gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp, dòng tộc, luật pháp Mỗi giai đoạn lịch sử, con người xã hội
trong văn học lại được nhìn nhận ở một phương diện khác. Trước 1975, con
người xã hội là một phương diện được văn học đặc biệt chú ý. Về cơ bản đó là

những con người được được xếp theo giai cấp nhất định, có tư tưởng rõ ràng, có
lập trường kiên định. Sau 1975, các nhà tiểu thuyết vẫn chú ý đến con người xã
hội nhưng rõ ràng mức độ quan tâm đã khác trước. Con người trong tiểu thuyết
thời kì đổi mới không quá nặng về giai cấp, đấu tranh giai cấp mà nó được nhìn
nhận trong nhiều mối quan hệ khác nhau: quan hệ với gia đình, dòng họ, cộng
đồng, pháp luật, với cung cách làm ăn mới Thậm chí, có những nhà văn đã đề
cập đến những khu vực trước đây chúng ta vẫn né tránh: vấn đề đồng tính, cuộc
đấu tranh chống tệ nạn xã hội, chống giáo điều, sự mòn cũ trong tư duy, quan
niệm cổ hủ về giá trị, xung đột thế hệ, xung đột văn hóa Đời sống kinh tế thị
trường đặt con người trước hàng loạt quan hệ phức tạp và con người được xây
dựng mang hơi thở của thời đại. Viết về những con người đó, nhà văn không
nhấn mạnh vào những biểu hiện bề ngoài mà đi sâu khám phá, lý giải phần
chìm khuất bên trong nhân vật nhằm mang đến cho người đọc những nhận thức
mới mẻ. Vì vậy, khi miêu tả con người xã hội, các nhà văn không còn bị gò ép
theo tiêu chí tốt- xấu mà họ nhìn thấy cả mặt tốt, mặt xấu trong mỗi con người,
nhìn thấy sự phức tạp của cá nhân khi đứng trước những hoàn cảnh cụ thể.
Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Khiêm, Hoan trong Ngược dòng nước lũ,
Khải trong Thượng đế thì cười, Vạn, Hạnh trong Bến không chồng đều là
những con người xã hội. Tuy nhiên đã có sự thay đổi, nhà văn luôn đặt nhân vật
trong các hoàn cảnh cụ thể, nhìn sâu vào nội tâm của họ để thấy con người

16
trong các mối quan hệ xã hội chứ không xếp con người trong những mối quan
hệ xã hội đã được dựng sẵn. Trong số các tiểu thuyết xuất hiện gần đây, Dưới
chín tầng trời của Dương Hướng là tác phẩm đề cập đến những vấn đề nhạy
cảm như những sai lầm ấu trĩ của thời cải cách ruộng đất, sự tha hóa của đội
ngũ lãnh đạo, của những người dân trước áp lực của nền kinh tế thị trường,
những con người “bên kia chiến tuyến” Các nhà văn đã mượn tiểu thuyết để
phân tích một cách toàn diện, sâu sắc vấn đề con người cá nhân cũng như mối
quan hệ cá nhân- xã hội, trong đó có cả tính hai mặt của con người.

Sự thay đổi tọa độ nhìn ngắm con người từ bình diện xã hội cho thấy các
nhà văn không hề thờ ơ với vấn đề nóng bỏng của đời sống. Trái lại, nó cho
thấy sự nhạy cảm của đội ngũ cầm bút trước những biến động của lịch sử.
Những biến động lịch sử ấy được biểu hiện qua những biến cố, những sự kiện,
có khi chảy lặng lẽ. Nhưng tất thảy, nó là môi trường thử thách nhân vật và
buộc nhân vật phải tự thể hiện mình. Tính cách nhân vật hiện lên logic, tự nhiên
chứ không gò ép khiên cưỡng.
1.2.2 Con ngƣời tự nhiên (bản năng)
Đây là bình diện quan trọng nhưng đã có lúc chúng ta hoặc là ý thức về
nó chưa đầy đủ hoặc rơi vào cực đoan. “Trong tính hiện thực của nó”, Mark đã
chú ý đến con người tự nhiên bên cạnh con người xã hội. Vercors cũng cho
rằng loài người có hai phương thức sinh tồn. Phương thức sinh vật cho thấy con
người là một thứ nhân chủng sống chỉ cần đến những cái “thiết yếu” và một đôi
chút “hữu ích”; Phương thức tinh thần để phân biệt con người với các loài khác
và ngày càng làm cho họ trở thành người hơn. Như vậy, bên cạnh phần người,
con người còn có một phần khác không kém phần quan trọng: phần con. Tất
nhiên, phần con vơi tư cách là một thành tố cấu thành con người vừa mang tính
bản năng vừa mang tính văn hóa. Con người trở nên hài hòa khi nó sống hài
hòa với tự nhiên, với bản năng gốc của mình bên cạnh yếu tố xã hội. Điều đó có
nghĩa là văn chương để hiểu con người sâu sắc, thấu đáo hơn, cần phải tôn
trọng bản tính tự nhiên của con người.

17
Việc xuất hiện con người tự nhiên là một chuyển đổi rất lớn trong tiểu
thuyết sau 1975. Tuy nhiên, việc quan tâm đến con người tự nhiên cần được
hiểu như là sự quan tâm đến con người trong tính toàn vẹn của nó. Nó đã góp
phần trả lại con người trong tính nguyên thủy và từ đó nhận thấy rõ hơn sự tác
động cũng như mối quan hệ hai chiều giữa môi trường với cái tự nhiên nguyên
thủy (bản năng) của con người. Sự bùng nổ và ảnh hưởng sâu rộng của học
thuyết Freud cũng như các thành tựu khoa học hiện đại ngày càng vén lên

những bức màn bí ẩn về cõi tâm linh, cõi tiềm thức, siêu thức trong tâm thức
con người. Ta ngày càng ý thức hơn rằng cái bản năng của con người không hề
đơn giản, con người là một thực thể kì diệu và huyền bí “con người là một cơ
thể, và cơ thể này bất chấp sự tàn héo của nó, là một tiềm năng kép: tiềm năng
tồn tại và tiềm năng biến hóa” [44]. Điều này đã tiếp sức cho văn chương, các
nhà văn bằng sự nhạy cảm của mình đã khám phá con người tự nhiên ở nhiều
góc độ khác nhau.
Trước hết, theo Mark- Engles “Sống, trước hết có nghĩa là ăn, ở mặc và
nhiều thứ khác nữa”. Đó chính là nhu cầu tự nhiên có tính thiết yếu của con
người. Vấn đề là những nhu cầu thiết yếu ấy khi ở trong hoàn cảnh này sẽ dẫn
đến sự tha hóa, trong hoàn cảnh khác nó lại là mong ước nâng cao đời sống của
con người. Để có những đồng tiền, Sự (Luật đời và cha con), Măng (Dưới chín
tầng trời) sẵn sàng giở những trò mánh khóe, lừa gạt, thậm chí Thanh Măng
còn lừa cả cha nuôi của mình; Để thỏa mãn những nhu cầu về vật chất, Lý
(Mùa lá rụng trong vườn) sẵn sàng nổi loạn Họ là những nhân vật bị tha hóa
trước hoàn cảnh và không chiến thắng nổi dục vọng bản năng. Nhưng được
thưởng thức những món ăn ngon, được sống trong một ngôi nhà xinh xắn đầy
đủ tiện nghi cũng là một nhu cầu chính đáng khi nền kinh tế đã phát triển.
Chính những dục vọng bản năng này góp phần làm cho con người trong văn
chương hiện lên thật hơn, đầy đặn và sống động hơn.
Phương diện nhạy cảm nhất ở con người bản năng chính là vấn đề tính
dục và tình dục. Bản thân tình dục không phải là tội lỗi, nó vừa là cách thức
duy trì nòi giống, vừa đem đến khoái cảm cho con người. Nhưng một thời kì

18
dài vấn đề nhạy cảm này được coi là vùng cấm của văn học. Những tác phẩm
văn học trung đại do quan niệm khắc kỉ của đạo đức nho giáo, vấn đề tính dục
hầu như vắng bóng. Nhưng khi con người cá nhân bắt đầu lên tiếng, những tác
phẩm như Truyện Kiều bị cho là dâm thư, hay thơ Hồ Xuân Hương bị coi là
dâm tục.

Văn học hiện thực 1930- 1945 cũng có những tác giả viết về sex như Chí
Phèo của Nam Cao hay Số đỏ, Giông tố, Làm đĩ của Vũ Trọng Phụng. Song
mục đích của các nhà văn là hoặc tô đậm số phận bi kịch bất hạnh của nhân vật
(Chí Phèo), hoặc tạo ấn tượng phê phán mạnh mẽ sự tha hóa về lối sống do tác
động của xã hội kim tiền ô hợp. Giai đoạn 1945- 1975, thời điểm toàn dân chỉ
có một mối quan tâm duy nhất: chiến thắng kẻ thù bằng bất cứ giá nào thì con
người cá nhân với những nhu cầu tự nhiên của nó bị quyên lãng, thậm chí còn
bị lên án trong văn chương.
Văn học sau 1975, đặc biệt là sau đổi mới, trong tinh thần đổi mới, thị
hiếu văn chương đang dần thay đổi, ý thức đời tư trở nên mạnh mẽ khiến vấn
đề liên quan trực tiếp đến cá nhân nhất như tình yêu, hạnh phúc trở thành một
đòi hỏi chính đáng trong đời sống con người, một yêu cầu bức xúc từ thực tế
đời sống xã hội. Với sự hiểu biết về con người ngày càng đầy đủ, người nghệ sĩ
trở nên nhạy cảm hơn về con người tự nhiên, trong đó tính dục được nhà văn
nhận thức, phản ánh phù hợp với logic nội tại của cuộc sống. Đọc tiểu thuyết
đương đại, ta dễ dàng nhận thấy các nhà tiểu thuyết đương đại không ngần ngại
miêu tả bản chất tự nhiên của con người. Trong luận án tiến sĩ Ngữ văn “Những
cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (giai đoạn 1986-
2006)” Mai Hải Oanh đưa ra nhận định: Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, khi miêu
tả tính dục, các nhà văn thường đề cập ở ba phương diện chính: “thứ nhất, tính
dục như một ham muốn tự nhiên góp phần tăng thêm sự hòa hợp của tình yêu,
bù đắp sự trống vắng của con người; thứ hai, tính dục là sức mạnh bản năng
thuần túy, kéo con người rơi vào cảnh “bờ mê bến lú”; thứ ba, một số kẻ coi
tình dục chỉ là trò mua vui, hoặc lợi dụng thân xác để tiến thân, cầu lợi” [34].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả luận án. Chỉ xin nói thêm về vấn đề

19
tính dục trong một số tiểu thuyết viết về chiến tranh. Chúng ta thừa nhận rằng
“những cảm xúc thánh thiện, thanh khiết về tình yêu, những khoái cảm nhân
tính có nguồn từ quan hệ tính giao đã có một vị trí nhất định trong sinh hoạt xã

hội nói chung, trong văn chương nói riêng” (Nguyễn Hòa). Hướng đến cách
bộc lộ này, các nhà văn đã xóa đi tính bản năng trong “sex” để cho thấy loại
hoạt động tinh thần của hành vi tính dục của con người đáng được nâng niu,
trân trọng. Đa số các tiểu thuyết viết về chiến tranh đều đề cập đến vấn đề này.
Qua những rung động của tâm hồn và những đòi hỏi về thể xác, một mặt người
đọc thấy được sự khắc nghiệt của cuộc chiến, mặt khác các nhà văn đã giúp
người đọc có cái nhìn độ lượng, nhân ái hơn đối với con người. Đã là người, ai
mà không có những khao khát bất tận về hạnh phúc, nhất lại ở trong sự mong
manh của sự sống và cái chết. Mặc cho kẻ địch truy lùng, mặc chiến tranh, Hai
Hùng và Ba Sương vẫn trao cho nhau những giây phút dịu ngọt tựa như “hai
sinh vật của thời loạn đi vào nhau trọn vẹn” [17, tr.245]. Cũng như Kiên và
Phương khi bước vào cuộc chiến, dù biết rằng “chẳng còn đêm nào như đêm
nay”, “còn tối nay chúng mình bên nhau để bắt đầu đi vào cuộc chiến oai hùng
của anh” [27, tr.151], họ bên nhau trong sự vụng về mãnh liệt, nguyên vẹn tinh
khôi, để rồi lại tiếc nuối: “Hai đứa mình có chết đi vẫn còn trong trắng”. Nhân
vật Hạnh (Bến không chồng) đang ở tuổi thanh xuân căng tràn nhựa sống, phải
sống xa chồng đằng đẵng, lầm lũi trong cảnh bặt vô âm tín do sự chia cắt của
chiến tranh. Cô đã ngâm mình dưới nước, vùng vẫy, quẫy đạp với ham muốn
làm tình để chống trả với nỗi khát thèm nhục dục. Đó là cách Hạnh giải tỏa nỗi
cô đơn vào những đêm ở bến không chồng. Việc thể hiện con người bản năng
với những ham muốn hưởng thụ chính đáng, nhu cầu ái ân thỏa mãn bản năng
sinh dục tự nhiên, là một phần không thể thiếu trong đời sống tình cảm, tinh
thần của những con người bình thường.
Theo Nguyễn Văn Thọ, tình yêu có cấp độ văn hóa thì sex cũng có cấp
độ văn hóa. Một khi nó là thi pháp của nhà văn, phương tiện để phản ánh sự
việc, vươn tới cái đẹp và chiều sâu nhân bản, nó buộc các nhà văn khi miêu tả

20
phải ở một tầm văn hóa và tầm mỹ học cao, phù hợp với tầm đón nhận của
người đọc.

1.2.3 Con ngƣời tâm linh
Nếu như con người bình thường với những dục vọng liên quan đến tính
dục bản năng được xem “là một biểu hiện của dòng văn chương bừng tỉnh trước
những khát vọng sống mãnh liệt của cá nhân, của những ham muốn hưởng thụ
của con người sau chiến tranh” [30] thì việc đi sâu vào thế giới nội tâm để
khám phá chiều sâu tâm linh cũng là biểu hiện của sự đổi mới trong quan niệm
nghệ thuật về con người. Tiểu thuyết thời kì đổi mới đã mở cánh cửa vào thế
giới tâm linh “nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực”. Con người với
bao sự ngổn ngang đầy bất ngờ lý trí không thể nắm bắt, giải thích hết được.
Trước một thế gới người nhiều chiều thì thế giới tâm linh khiến người ta hoang
mang nhưng lại muốn đi tìm nhất. Hơn nữa, tiểu thuyết đóng vai trò “là một
cuộc thăm dò cuộc sống con người trong thế giới đã trở thành cạm bẫy”[26,
tr.31] nó sẽ là cơ hội đẩy cuộc thăm dò chiều sâu bên trong con người đi đến
địa hạt tận cũng nhất.
Trước đây, do điều kiện nhất định của lịch sử, văn học ta thường ngần
ngại khi nói về những vấn đề thuộc về cá nhân, tâm linh. Đó chính là một trong
những nguyên nhân làm cho nhân vật tiểu thuyết 1945- 1975 nhiều khi rơi vào
sơ lược, công thức chính vì sự hạn hẹp và định kiến của chúng ta. Nhưng khi
cuộc sống trở lại đúng với nhịp phát triển bình thường của nó, thế giới tinh thần
của con người chính là mảnh đất màu mỡ để nhà văn khai thác qua đó bộc lộ
nhân sinh quan của mình. Đặc điểm của con người tâm linh là có khả năng sống
với nhiều chiều thời gian, nhiều kiếp, có những cảm nhận vượt ra khỏi lý tính,
có năng lực tiên tri, có khả năng linh cảm về những phúc- họa trong đời có
khi họ sống triền miên trong những hoang tưởng mộng mị.
Nếu như con người duy lý hành động theo sự mách bảo của ý thức, theo
logic tất yếu của đời sống thì con người tâm linh hướng về những sức mạnh bí
ẩn, những thế lực siêu nhiên và có những hành động nhiều khi lạ lẫm, kì quặc,

21
khó giải thích theo nhận thức thông thường. Con người tâm linh cùng một lúc

có thể sống nhiều cuộc đời, sống nhiều chiều thời gian khác nhau. Kiên trong
Nỗi buồn chiến tranh, Hai Hùng trong Ăn mày dĩ vãng là những con người như
vậy. Trở về sau cuộc chiến, Kiên (Nỗi buồn chiến tranh) phần nhiều chỉ sống
bằng thế giới nội tâm. Hầu như toàn bộ hiện thực trong tác phẩm được hắt lên
từ cõi tâm linh sâu thẳm của nhân vật. Anh không thể tìm được sự bình an trong
hiện tại. Anh rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin một cách trầm trọng khi
đối diện với cuộc sống thực tại bởi “các mặt nạ người ta đeo trong những năm
trước rơi hết. Mặt thật bầy ra gớm chết” [27, tr.50]; Kiên chỉ còn cách rút vào
thế giới tâm linh, sống với quá khứ. Trong Ăn mày dĩ vãng, thế giới tâm linh trở
thành nơi “nương tựa” cho người lính khi trở về với cuộc sống thời bình. Hai
Hùng chưa kịp chuẩn bị cho mình tâm thế sống trong hòa bình, lại luôn bị hút
theo tiếng gọi bi thương của quá khứ nên tâm hồn phải “nương tựa vào cõi tâm
linh. Chỉ khi sống trong cõi ấy, anh mới lắng nghe được mọi tiếng nói vang lên
trong cõi lòng mình. Đó là tình yêu thương, nỗi ám ảnh khi được sống sót trên
sự hi sinh của đồng đội. Đó là sự bất mãn đến cùng cực khi đối mặt với “thời
buổi tham nhũng đầy trời” [17, tr.167] Sự thật về những mảng hiện thực được
khám phá và tái hiện trong đời sống tâm linh nhân vật khiến người đọc không
thể không trăn trở.
Khi rơi vào trạng thái “bất an”, con người cũng tìm về thế giới tâm linh.
Ở đó, họ sẽ hé mở những bí ẩn của lòng mình. Thế giới tâm linh mà ông Hàm
(Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường) hướng đễn là những
giấc mơ về người vợ đã chết. Bà vợ là nạn nhân của thói đam mê quyền lực của
ông Hàm. Việc bà xuất hiện trong các giấc mơ của ông giống như một lời cật
vấn, như một sự ám ảnh về chính tội lỗi của bản thân lão Hàm. Giống như vậy,
nhân vật Ỷ Lan (Giàn thiêu, Võ Thị Hảo) thường mơ thấy mười một bóng ma
là những oan hồn bà ta đã bức hại. Những hồn ma đó trở về nhắc lại tội ác của
Ỷ Lan. Điều này là một hướng lý giải nguyên nhân vì sao Ỷ Lan lại tôn sùng
đạo Phật và xây dựng nhiều đền đài, chùa miếu đến như vậy. Nó giống như một
sự sám hối.


22
Thế giới tâm linh đã phát hiện ra những khả năng kì lạ của con người mà
khoa học ngày nay rất quan tâm. Không ít trường hợp con người có khả năng
linh cảm những việc trước khi nó xảy ra hoặc cảm nhận được những “điềm
báo” từ bên ngoài lý trí của mình. Nhân vật Viên trong Ăn mày dĩ vãng của Chu
Lai có năng lực tâm linh đặc biệt. Cậu ta thường “có một linh cảm hoặc trực
giác trận chiến gì đó rất kì quái” [17]. Nghĩa là có thể biết trước điều sắp xảy ra,
không chỉ đối với mình mà còn đối với những người khác, không chỉ một lần
mà nhiều lần. Bà Khiên trong Bến không chồng của Dương Hướng cũng có một
giấc mơ kì lạ về ngày trở về của Nghĩa- con trai bà. Nhân vật Mai Trừng trong
Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái lạ hơn. Ở cô có một năng lực
đặc biệt có thể gọi đó là từ trường. Bất cứ ai có ý định hãm hại cô đều bị chết.
Sự tồn tại của cô giống như một vị thần mang trong mình nhiệm vụ trừng phạt
cái xấu. Các nhân vật trong Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh đời
sống tâm linh cũng được khắc họa sinh động qua lễ hội cầu ước, rủi may.
Về cơ bản, nhu cầu tâm linh luôn có mặt ở khắp nơi trong cuộc sống,
nhất là khi con người rơi vào khủng hoảng, cần tìm đến một nơi để bấu víu. Đó
là lúc nhu cầu về tâm linh xuất hiện. Mở cánh cửa đi vào đời sống tâm linh sẽ
đem lại bề sâu, bề dày cho cuộc đời mỗi nhân vật, song chính nó lại buộc nhà
văn phải tìm ra những thủ pháp nghệ thuật đủ sức để xây dựng nhân vật.
Quan tâm thể hiện con người tâm linh, tiểu thuyết muốn khám phá chiều
sâu vô tận của con người. Đó không phải là hành động mê tín dị đoan hay sa
vào chủ nghĩa duy tâm. Việc khám phá con người tâm linh ngày càng có cơ sở
khi khoa học đã phát hiện ra nhân điện, sóng sinh học ở con người ngay cả khi
họ đã qua đời. Đến với đời sống tâm linh chính là đến với cánh cửa mới để hiểu
hơn về đời sống phong phú của con người.
Những thay đổi về quan niệm con người đã mang đến hiệu quả trong
nhìn nhận và đánh giá con người. Nếu văn học trước 1975 tập trung khám phá
con người xã hội là chính thì văn học sau 1975 một mặt vẫn quan tâm đến bình
diện xã hội của con người, mặt khác đã chú ý thích đáng hơn đến con người tự

nhiên và con người tâm linh. Con người rõ ràng được nhìn nhận đầy đủ hơn,

23
toàn diện hơn. Đồng thời những điểm mới trong quan niệm nghệ thuật về con
người đã giải phóng cá tính sáng tạo của người viết. Nhà văn thử nghiệm những
cách thức xây dựng nhân vật mới. Kỹ thuật dòng ý thức đã được sử dụng trong
sáng tác của Bảo Ninh, Nguyễn Phương Bình, Tạ Duy Anh; Những thủ pháp kì
ảo trong sáng tác của Hồ Anh Thái, Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh; Những
cách thức làm mờ hóa nhân vật, biến mất nhân vật trong tác phẩm của Thuận,
Nguyễn Phương Bình
Trong những đổi mới về quan niệm nghệ thuật, đổi mới quan niệm về
con người được xem là vấn đề trọng tâm. Mọi biến đổi của văn học xét đến
cùng là khám phá về đời sống con người bởi “văn học là nhân học”. Những sự
thật về con người mãi mãi là đòi hỏi khe khắt của văn học.
1.3. Quan niệm của nhà văn Dƣơng Hƣớng về con ngƣời.
1.3.1. Đôi nét về cuộc đời và sáng tác của nhà văn Dƣơng Hƣớng
Dương hướng tên thật là Dương Văn Hướng sinh ngày 8 tháng 7 năm
1944, tại làng An Lệch, xã Thụy Liên, tỉnh Thái Binh. Năm 16 tuổi cũng là lúc
đế quốc Mỹ bắt đầu mở rộng ra miền Bắc, Dương Hướng đã xung phong đi
công nhân quốc phòng làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa, lương thực trên
tuyến Khu 4 phục vụ cho chiến trường miền Nam. Năm 1967, Dương Hướng
được cử đi học tại trường kỹ thuật Tàu Thủy. Năm 1969, Dương Hướng ra
trường và được điều về công tác tại công ty vận tải Đường Sông 204-208. Năm
1971, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam chống lại đế quốc Mỹ
đang vào giai đoạn đầy khốc liệt, Dương Hướng xung phong đi bộ đội. Ông vào
chiến đấu tại chiến trường Khu IV rồi sau đó chuyển vào công tác tại đơn vị
E573 thuộc khu V ở chiến trường miền Nam. Sau khi miền Nam được giải
phóng, đất nước thống nhất thì năm 1976 Dương Hướng ra quân chuyển ngành
về cục Hải Quan Quảng Ninh và đã nghỉ hưu năm 2008. Hiện làm biên tập viên
báo Hạ Long của Hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh, hội viên hội nhà văn

Việt Nam. Sau bao năm lăn lộn ở chiến trường với những trải nghiệm ở nhiều
môi trường sống khác nhau là nguồn tư liệu quý giá, cộng với niềm đam mê

24
văn chương và cái tâm của người cầm bút đã tạo nên ngòi bút Dương Hướng
đầy thăng hoa.
Là người có duyên nợ với văn chương, ở tuổi tứ tuần Dương Hướng mới
bắt đầu sự nghiệp cầm bút. Năm 1989 ông cho xuất bản tập truyện ngắn đầu tay
Gót Son. Chỉ một năm sau, năm 1990 với tiểu thuyết Bến không chồng, cái tên
Dương Hướng đã trở nên quen thuộc đối với độc giả Việt Nam, đặc biệt bộ ba
tác phẩm đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam là: Bến không chồng cùng
với tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn khắc Trường và Nỗi
buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã tạo nên một đợt sóng mới về cách tiếp cận
lịch sử nói chung và chiến tranh nói riêng trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại. Sau thành công của Bến không chồng, nhà văn Dương Hướng tiếp tục cho
xuất bản cuốn tiểu thuyết Trần gian đời người (1991) (Sau đó đổi tên thành
Bóng đêm và mặt trời). Tác phẩm được tác giả và đồng nghiệp của ông rất tâm
đắc, tuy nhiên do cái bóng của Bến không chồng quá lớn mà tác phẩm này
không được nhiều bạn đọc chú ý. Do công việc ở cơ quan quá nhiều nên nhà
văn không có thời gian để sáng tác tiểu thuyết mà chỉ tranh thủ viết truyện
ngắn. Đến năm 1995, tập truyện ngắn Người đàn bà trên bãi tắm được xuất
bản. Sau một thời gian dài dường như im hơi lặng tiếng trên văn đàn, Dương
Hướng đã làm cho độc giả ngỡ ngàng bởi sự bứt phá ngoạn mục với tiểu thuyết
Dưới chín tầng trời. Tác phẩm xuất bản năm 2007 sau mười lăm năm thai
nghén mang nhiều tâm huyết của nhà văn. Một lần nữa, tiểu thuyết của nhà văn
Dương Hướng lại gây xôn xao trong giới nghiên cứu, phê bình văn học cũng
như những ai quan tâm đến đời sống văn học nước nhà. Vẫn tiếp tục khai thác
đề tài lịch sử nhưng tác phẩm cho thấy tài năng bao quát lịch sử cũng như bút
lực sung sức của nhà văn. “Dưới chín tầng trời đó là toàn cảnh nhân gian; và
với cái tên sách đó, Dương Hướng dẫn dắt người đọc đi gần trọn một thế kỷ của

lịch sử dân tộc, với những chuyển động, những biến đổi, những bước ngoặt…,
có thể nói là đã lâu lắm, văn xuôi mới có được một tác phẩm có sức chứa lớn
đến như thế” [2]. Từ thành công đầu tiên với tác phẩm Bến không chồng, nhà
văn Dương Hướng đã lao động không mệt mỏi để tích lũy vốn sống cũng như

25
những kinh nghiệm trong nghề để rồi cho ra đời “Một cuốn tiểu thuyết ngồn
ngộn sức sống và đời sống nóng hổi những tư tưởng của thời đại và những vấn
đề thời sự của đất nước” [10].
Như vậy từ làng Đoài, Dương Hướng ra đi bước chân trải dọc theo chiều
dài đất nước. Từ một thanh niên nông dân thành chiến sỹ xung phong rồi anh
bộ đội giải phóng quân và chuyển ngành sang làm cán bộ ngành hải quan của
miền Đông Bắc tổ quốc. Những miền đất đã đi qua, những sự việc xảy ra xung
quanh, những công việc đã từng trải nghiệm… tất cả đều được Dương Hướng
khắc họa dưới ngòi bút tài hoa diệu nghệ. Trong mấy chục năm cầm bút, so với
những người bạn cùng thời số lượng tác phẩm của nhà văn Dương Hướng
không phải là nhiều nhưng ông đã để lại tiếng vang lớn trên văn đàn. Người
xưa có nói “Quý hồ tinh bất quý hồ đa” có lẽ Dương Hướng thuộc lớp nhà văn
này. Ông đã từng tâm sự “Một đời cầm bút viết một cái hay còn hơn viết mười
cái dở” [32]. Trong sự nghiệp sáng tác, Dương Hướng đã để lại những tác phẩm
mà cho tới nay giá trị đích thực của nó vẫn là cái mốc sừng sững trong làng văn
Việt Nam.
1.3.2. Quan niệm của nhà văn Dƣơng Hƣớng về con ngƣời
Quan niệm nghệ thuật là vấn đề rất quan trọng của sáng tạo nghệ thuật,
nếu không có quan niệm nghệ thuật về con người thì sẽ không có tác phẩm
nghệ thuật. Để sáng tạo ra một tác phẩm văn học, nhà văn phải có quan niệm về
con người và cuộc sống qua góc nhìn nghệ thuật như một điều kiện không thể
thiếu. Quan niệm nghệ thuật về con người chính là cơ sở chi phối những
nguyên tắc chiếm lĩnh, cắt nghĩa hiện thực đời sống của nhà văn. Quan niệm
nghệ thuật về con người luôn hướng con người vào trong mọi chiều sâu của nó,

cho nên đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có
của văn học. Nghệ sĩ là người suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra
những tư tưởng mới để hiểu về con người. Do đó càng khám phá nhiều quan
niệm nghệ thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ,
càng đánh giá đúng giá trị của họ.

×