Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Nghiên Cứu Định Tính Biểu Tượng Xã Hội Về Nhà Tâm Lý Học Và Nhu Cầu Tìm Kiếm Sự Giúp Đỡ Từ Nhà Tâm Lý Học Của Sinh Viên Thành Phố Hồ Chí Minh .Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 64 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM NGỌC LONG

NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH BIỂU TƯỢNG XÃ HỘI VỀ
“NHÀ TÂM LÝ HỌC” VÀ NHU CẦU TÌM KIẾM SỰ GIÚP ĐỠ TỪ
NHÀ TÂM LÝ HỌC CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ LÂM SÀNG

Ngành đào tạo: Tâm Lý Lâm Sàng

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2022


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM NGỌC LONG

NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH BIỂU TƯỢNG XÃ HỘI VỀ
“NHÀ TÂM LÝ HỌC” VÀ NHU CẦU TÌM KIẾM SỰ GIÚP ĐỠ TỪ
NHÀ TÂM LÝ HỌC CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ LÂM SÀNG

Ngành đào tạo: Tâm Lý Lâm Sàng
Mã số: 8.31.04.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:



T.S LÊ HỒNG THẾ HUY

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2022


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Khoa Tâm lý học vì đã cung cấp những kiến thức bổ ích trong suốt
q trình học tập của tơi trong khóa học thạc sĩ Tâm lý học lâm sàng. Đặc biệt, tôi muốn gửi lời
cảm ơn và sự biết ơn sâu sắc đến T.S Lê Hoàng Thế Huy với sự hướng dẫn tận tâm và rất nhiều
sự góp ý giúp tơi có thể hoàn thành được bài nghiên cứu này. Cuối cùng, tơi xin cảm ơn gia đình,
đồng nghiệp, những người đã động viên và hỗ trợ tinh thần trong suốt quá trình nghiên cứu này.

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.............................................................................................................................................. 1
TÓM TẮT .................................................................................................................................................... 4
DẪN NHẬP.................................................................................................................................................. 5
Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................................... 5
Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................................................. 8
NỀN TẢNG LÝ THUYẾT ......................................................................................................................... 9
Lý thuyết về biểu tƣợng xã hội .............................................................................................................. 9
Định nghĩa về nhà tâm lý học (psychologist) ...................................................................................... 14
Các nghiên cứu trƣớc đây về biểu tƣợng xã hội “nhà tâm lý học”................................................... 15
Lý thuyết về nhu cầu............................................................................................................................. 16
Các nghiên cứu trƣớc đây về nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ từ nhà tâm lý học ............................... 17

Đặc điểm tâm lý của sinh viên.............................................................................................................. 18
Ý nghĩa đề tài......................................................................................................................................... 20
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................................................ 21
Phƣơng pháp luận ................................................................................................................................. 21
Mẫu ........................................................................................................................................................ 21
Công cụ nghiên cứu .............................................................................................................................. 23
Phƣơng pháp liên tƣởng từ ngữ ....................................................................................................... 23
Phỏng vấn bán cấu trúc .................................................................................................................... 24
Thiết kế nghiên cứu .............................................................................................................................. 25
Phân tích kết quả .................................................................................................................................. 25
Phƣơng pháp quản lý chất lƣợng ........................................................................................................ 26
Đạo đức nghiên cứu .............................................................................................................................. 26
KẾT QUẢ .................................................................................................................................................. 28
Cấu trúc biểu tƣợng xã hội về nhà tâm lý học.................................................................................... 28
Phân tích chủ đề (thematic analysis) về hình dung xã hội về “nhà tâm lý học” .............................. 33
Tổng quan các chủ đề ....................................................................................................................... 33
Tổng hợp chủ đề trong vùng cốt lõi ................................................................................................. 36
Tổng hợp kết quả nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ................................................................................. 37
Nhóm cốt lõi ....................................................................................................................................... 37
Nhóm ngoại vi .................................................................................................................................... 43
Tổng kết ............................................................................................................................................. 49
Kết luận .............................................................................................................................................. 49
BÀN LUẬN ................................................................................................................................................ 51

2


Bàn luận về kết quả nghiên cứu ........................................................................................................... 51
Hạn chế và dự tính nghiên cứu trong tƣơng lai ................................................................................. 55
Hạn chế .................................................................................................................................................. 55

Dự tính nghiên cứu trong tƣơng lai ..................................................................................................... 57
Đóng góp lâm sàng ................................................................................................................................ 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................................ 58
PHỤ LỤC................................................................................................................................................... 61
Phụ lục A................................................................................................................................................ 61
Phụ lục B ................................................................................................................................................ 62

3


TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng phương pháp liên tưởng từ ngữ và phỏng vấn sâu bán cấu trúc trên
60 khách thể là sinh viên đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm hiểu đặc điểm cấu
trúc của biểu tượng xã hội “nhà tâm lý học” và nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ của sinh viên đối
với nhà tâm lý học. Kết quả cho thấy có 34 yếu tố cốt lõi được ghi nhận và trải rộng trong 5 chủ
đề chính gồm: Phẩm chất và năng lực; thiết lập trong công việc; đối tượng làm việc; các hoạt
động trong nghề nghiệp; lĩnh vực làm việc. Nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ của sinh viên đối với
nhà tâm lý học trải rộng trong 11 chủ đề, trong đó có 8 chủ đề chung cho cả hai nhóm cốt lõi và
ngoại vi: Vấn đề tâm lý; lắng nghe; chia sẻ; cung cấp lời khuyên, giải pháp, cách thức, kinh
nghiệm; đào sâu tìm hiểu vấn đề; bầu khơng khí tích cực; hoạt động ngồi khung làm việc; thay
đổi. Chủ đề “Cung cấp góc nhìn” chỉ có ở nhóm cốt lõi, bên cạnh đó nhóm ngoại vi cũng có hai
chủ đề riêng đó là “giúp hiểu” và “trị liệu”. Kết quả cũng cho thấy khơng có sự khác nhau về nhu
cầu tìm kiếm sự giúp đỡ dựa trên hình dung về biểu tượng xã hội của khách thể nghiên cứu. Bên
cạnh đó bài nghiên cứu cũng ghi nhận được sự ảnh hưởng của truyền thơng lên sự hình thành
biểu tượng xã hội, hình tượng tồn năng của nhà tâm lý học trong hình dung, và nhu cầu có một
người đồng hành lý tưởng của khách thể nghiên cứu là sinh viên.
Từ khóa: biểu tượng xã hội, nhà tâm lý học, nhu cầu, sinh viên.

4



DẪN NHẬP
Lý do chọn đề tài
Ngành tâm lý học ở Việt Nam là một ngành mới và còn rất non trẻ. Theo Nguyễn (2006)
thì trước năm 1954, tâm lý học ban đầu xuất hiện ở Việt Nam với tư cách là những môn học
trong các trường phổ thông trung học hoặc trường cao đẳng sư phạm với tiếp cận quan điểm
hành vi và phân tâm. Sau đó tổ tâm lý học đầu tiên ra đời vào năm 1958 tại Đại học Sư phạm Hà
Nội với các nguồn cán bộ có trình độ chun mơn được đào tạo tại Liên xơ. Chương trình và tài
liệu giảng dạy lúc này được tham khảo từ các tài liệu và sách giáo khoa của Liên xơ. Giáo trình
đầu tiên được xuất bản năm 1959, nhà xuất bản Giáo dục do Nguyễn Đức Minh, Phạm Cốc, và
Đỗ Thị Xuân biên soạn. Tiếp nối với sự phát triển của ngành là sự xuất hiện của các chuyên
ngành tâm lý học của các trường đại học, các viện nghiên cứu và các tổ chức hội nghề nghiệp
trên cả nước. Đầu tiên có thể kể đến Khoa tâm lý học - giáo dục quân sự của học viện Chính trị
Qn sự, bộ quốc phịng thành lập năm 1976. Cùng thời điểm đó là sự thành lập của Khoa tâm lý
của đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó vào năm 1989, trung tâm nghiên cứu trẻ
em N-T của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện được thành lập. Tiếp đó là sự thành lập của Hội khoa học
tâm lý Giáo dục Việt Nam vào năm 1990 và Khoa Tâm lý, đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Hà Nội vào năm 1997. Năm 1999 ghi nhận sự thành lập của Khoa Tâm lý, đại học Văn Hiến và
Viện nghiên cứu con người thuộc viện khoa học xã hội Việt Nam. Tiếp theo sự phát triển của
ngành là sự thành lập Bộ môn Tâm lý Giáo dục, đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố
Hồ Chí Minh năm 2000 và Bộ mơn Tâm lý học, đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố
Hồ Chí Minh năm 2007.
Trong khoảng mười năm trở lại đây, ngành tâm lý học đã ngày càng phát triển và thâm
nhập vào đời sống của người dân ở xã hội Việt Nam. Các chương trình đào tạo cử nhân và thạc

5


sĩ tâm lý học xuất hiện nhiều hơn ở các trường đại học. Các trung tâm tư vấn tâm lý cũng được
mở ra ngày càng nhiều. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần cũng ngày càng lớn mạnh và

được đầu tư. Các kiến thức tâm lý được xuất hiện ngày càng nhiều trên các kênh khác nhau như
mạng xã hội, buổi sinh hoạt chuyên đề ở trường học, cơ quan, sách kỹ năng được dịch thuật và
xuất bản, các bộ phim tâm lý được công chiếu. Bên cạnh sự phát triển và thâm nhập của ngành,
đó là sự gia tăng xuất hiện của các nhà tâm lý học. Nhà tâm lý học xuất hiện ở trường học với
những buổi dạy kỹ năng sống và công tác tư vấn học đường. Nhà tâm lý học ở bệnh viện với
công tác chăm sóc sức khỏe tâm thần cho bệnh nhân. Nhà tâm lý trên các show truyền hình diễn
giải về cuộc sống và đưa góc nhìn quan điểm. Nhà tâm lý trong các tác phẩm nghệ thuật như
phim ảnh, truyện, tiểu thuyết. Chưa dừng lại ở đó, theo quyết định số 34/2020/QĐ -TT ngày
26/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Danh mục nghề nghiệp Việt Nam, chức danh
“Nhà tâm lý học” đã được ban hành. Với vị thế là một nhà tâm lý và chứng kiến sự xuất hiện đa
dạng của nhiều nhà tâm lý học khác nhau trên nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như việc chức danh
nghề nghiệp được cơng nhận từ phía chính phủ. Nhà nghiên cứu có sự tị mị về việc: trong tâm
trí của người dân Việt Nam, nhà tâm lý học là một người như thế nào?
Bên cạnh sự phát triển của ngành tâm lý học thì là sự xuất hiện nhiều hơn của các vấn đề
tâm lý, đặc biệt là vấn đề tâm lý ở học sinh và sinh viên tại Việt Nam. Một số nghiên cứu đã
được thực hiện và chỉ ra sự phát triển các vấn đề tâm lý ở sinh viên Việt Nam. Theo tác giả Trần
(2012) trong nghiên cứu về stress, lo âu, và trầm cảm trên 483 sinh viên đại học Y dược thành
phố Hồ Chí Minh thì tỉ lệ sinh viên bị stress, trầm cảm và lo âu lần lượt là 71,4%, 28,8%, 22,4%, đa
số ở mức độ nhẹ và vừa. 52,8% sinh viên có cùng 3 dạng rối loạn trên. Khơng có khác biệt giữa các
mức độ stress, lo âu, trầm cảm theo nguồn cư trú và giới tính, ngoại trừ trầm cảm - nhất là ở mức độ
nặng và rất nặng thì nam nhiều hơn nữ. Theo tác giả Bủi (2018) trong nghiên cứu của mình về khó

6


khăn tâm lý trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học thì sinh viên ở
Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lý. Những khó khăn tâm lý này được thể
hiện khá đa dạng, chủ yếu tập trung ở các mặt nhận thức, cảm xúc, thái độ/hành vi, và kỹ năng.
Tác giả cũng nhận định những khó khăn tâm lý này là “lực cản bản thân” khiến sinh viên không
thể thành công trong cuộc sống. Theo tác giả Nguyễn (2021) trong bài nghiên cứu của mình về

khó khăn tâm lý và nhu cầu sử dụng dịch vụ tham vấn tâm lý của sinh viên trường đại học thủ đơ
Hà Nội thì có 73.3% sinh viên của trườn có nhu cầu tham vấn tâm lý. Những trích dẫn trên cho
thấy vấn đề tâm lý ở sinh viên Việt Nam là vấn đề cần được quan tâm và việc chăm sóc sức khỏe
tinh thần cho sinh viên đặc biệt là lĩnh vực tham vấn tâm lý là điều cần được chú trọng.
Trong công tác tham vấn tâm lý thì quá trình thiết lập tương quan và tìm hiểu nhu cầu là
những quá trình cực kỳ quan trọng và có thể ảnh hưởng đến cả tiến trình làm việc. Trong quá
trình thực hành lâm sàng của mình với đối tượng là sinh viên, nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng
bên cạnh nhu cầu được nói ra bằng lời thì có thêm một vài đặc điểm chung của các bạn sinh viên
về những mong đợi và nhu cầu ngầm ẩn đối với một nhà tâm lý học. Đó là nhu cầu có một kết
nối thân cận, gắn bó đối với nhà tâm lý. Sự gắn bó và thân cận này vượt quá mối quan hệ làm
việc giữa nhà tâm lý và thân chủ như theo khung làm việc và có thể tạo nên những rắc rối mang
tính đạo đức nghề nghiệp (mối quan hệ kép) với nhà lâm sàng cũng như những trắc trở trong q
trình làm việc lâm sàng. Nhà nghiên cứu có mong muốn xác nhận xem điều nhận ra mang tính
cảm quan lâm sàng này có đúng hay khơng, cũng như tìm hiểu rõ hơn nhu cầu tìm kiếm sự giúp
đỡ của sinh viên đối với một nhà tâm lý học là như thế nào để có thể gia tăng sự hiểu quả trong
làm việc lâm sàng với đối tượng là sinh viên.
Kết hợp ba yếu tố gồm: Sự tò mò về hình dung của người dân Việt Nam về một nhà tâm
lý học trên nền tảng ngành tâm lý học đang phát triển rất nhanh và có mã nghề nghiệp; Sự phát

7


triển các vấn đề tâm lý ở đối tượng sinh viên và tính cấp thiết của việc chăm sóc sức khỏe tinh
thần cho sinh viên Việt Nam; Nhu cầu tìm hiểu và xác nhận những nhu cầu và mong đợi của sinh
viên đối với nhà tâm lý học nhằm cải thiện quá trình làm việc lâm sàng với đối tượng là sinh viên.
Nhà nghiên cứu quyết định thực hiện đề tài: “Nghiên cứu định tính biểu tượng xã hội về “nhà
tâm lý học” và nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ từ nhà tâm lý học của sinh viên thành phố Hồ Chí
Minh”.
Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài được đưa ra với ba câu hỏi nghiên cứu: “Biểu tượng xã hội về “nhà tâm lý học”

của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh là như thế nào?”; “Nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ từ nhà
tâm lý của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh là như thế nào?” và “Sự khác biệt về nhu cầu tìm
kiếm sự giúp đỡ từ nhà tâm lý học dựa trên hình dung về biểu tượng xã hội “nhà tâm lý học” của
sinh viên là như thế nào?”

8


NỀN TẢNG LÝ THUYẾT
Lý thuyết về biểu tƣợng xã hội
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên lý thuyết biểu tượng xã hội – thuyết được khởi đầu
bởi Moscovici vào năm 1961 và thuyết trung tâm cốt lõi – lý thuyết được khởi đầu và phát triển
bởi Abric từ năm 1976. Theo lý thuyết biểu tượng xã hội, vì con người sống trong một thế giới
đầy hỗn loạn, họ phải luôn nỗ lực để ứng phó, dự đốn và làm chủ thế giới. Chính vì lẽ đó, con
người ln có nhu cầu tái cấu trúc lại thế giới theo cách của riêng mình. Quá trình tái cấu trúc
này được hình thành chủ yếu thông qua sự tiếp xúc xã hội, trao đổi, giao tiếp với người khác.
Thông qua tiếp xúc xã hội, con người tiếp nhận những kiến thức, niềm tin, giá trị và từ đó dần
hình thành những khái niệm chung giữa các nhóm người (Abric et al., 2012). Biểu tượng xã hội
được hiểu như là một dạng nhận thức chung, những suy nghĩ và ý tưởng thường thức của một hệ
thống xã hội hoặc một nhóm người về một đối tượng nào đó (Hưijer, 2011). Moscovici trong các
bài viết của mình đã đưa ra và nhiều lần bổ sung định nghĩa về biểu tượng xã hội.
Đầu tiên, theo tác giả Moscovici (1973) thì biểu tượng xã hội được định nghĩa là hệ thống
các giá trị, ý tưởng, hành động xung quanh một khái niệm xã hội được chia sẻ và có 2 chức năng:
cung cấp sự tổ chức và giúp con người định hướng bản thân trong thế giới vật chất và tinh thần;
và giúp các thành viên trong một cộng đồng có thể định danh và phân loại các khía cạnh của thế
giới, của cá nhân và của lịch sử nhóm một cách gần giống nhau, tạo điều kiện để quá trình giao
tiếp liên cá nhân trở nên thuận lợi, thơng suốt hơn.
Sau đó, trong một nghiên cứu bổ sung, Moscovici (1988) bổ sung thêm rằng biểu tượng
xã hội là nội dung của những suy nghĩ hằng ngày, là tập hợp những ý tưởng mà giúp tạo ra sự
vững trãi của niềm tin tơn giáo, ý tưởng chính trị và những liên kết mà chúng ta tạo ra tức thì.

Chúng giúp ta có thể phân loại con người, đồ vật; có thể so sánh, giải thích hành vi và đối tượng

9


hóa chúng như một phần của xã hội. Như vậy, so với định nghĩa ban đầu, Moscovici đã bổ sung
thêm các chức năng khác của biểu tượng xã hội trong lĩnh vực nhận thức của con người.
Tiếp nối những lý thuyết của mình về biểu tượng xã hội, Moscovici (2000) đưa ra thêm
một định nghĩa là “biểu tượng xã hội như là một mạng lưới của những ý tưởng, ẩn dụ, hình ảnh
nhiều hoặc ít dính chặt với nhau” (p.153).
Nói đến ý nghĩa của hình dung xã hội, Moscovici cho rằng việc tìm ra được khái niệm cốt
lõi (core concept) từ hình dung tập thể (collective representation) trong cộng đồng sẽ giúp liên
kết lại những ý niệm đã được rèn giũa và đúc kết, từ đó hiểu được điều kiện quyết định hành
động của con người sống trong cộng đồng (Moscovici, 1988). Ý tưởng này đã mở đường cho
nhiều nghiên cứu và lý thuyết mới về biểu tượng xã hội tập trung vào các yếu tố cốt lõi và cấu
trúc của một biểu tượng xã hội. Nổi bật trong số đó lý thuyết trung tâm cốt lõi của Abric.
Lý thuyết trung tâm cốt lõi (Abric, 1976, 1987, 1994) là một lý thuyết cấu trúc về biểu
tượng xã hội. Lý thuyết dựa trên tiền đề rằng, mọi biểu tượng xã hội đều được tổ chức trong một
hệ thống nhị nguyên gồm yếu tố cốt lõi và yếu tố ngoại vi. Hệ thống này giúp duy trì sự bền
vững của biểu tượng trong nhóm mà nó xuất hiện. Lý thuyết cho rằng biểu tượng xã hội là một
tập hợp có thứ bậc, trong đó các yếu tố ngoại vi được tổ chức xung quanh yếu tố cốt lõi. Yếu tố
cốt lõi được tạo dựng bởi số lượng nhỏ các niềm tin mà được đồng thuận đáng kể trong nhóm và
cực kì bền vững theo thời gian. Ngược lại yếu tố ngoại vi thì có rất nhiều, được chia sẻ khơng
đồng đều trong nhóm và thay đổi theo thời gian. Yếu tố cốt lõi có tầm ảnh hưởng to lớn đến ý
nghĩa của một biểu tượng xã hội, nó quyết định cách ta gán thêm, hoặc liên tưởng thêm ý nghĩa,
thành tố cho biểu tượng xã hội. Nó tương tự như khi chúng ta có ấn tượng một người là tốt, ta sẽ
gán thêm những thành tố tốt cho người đó trong quá trình tương tác và đánh giá (Asch, 1946).
Với mức độ quan trọng của yếu tố cốt lõi, bất kì sự thay đổi nào trong yếu tố cốt lõi cũng dẫn

10



đến sự thay đổi về ý nghĩa của biểu tượng xã hội. Ở mức độ tâm lý xã hội, thay đổi có thể dẫn
đến nguy cơ cho sự đồng thuận, đồn kết của nhóm và có khả năng làm tổn hại đến sự liên kết xã
hội. Yếu tố cốt lõi cịn thể hiện tầm quan trọng của nó khi nó có một liên kết mang tính biểu
tượng với biểu tượng xã hội. Điều này có nghĩa là khi ta nhắc đến một biểu tượng xã hội, ta đang
ngầm ẩn hoặc cơng khai có ý nhắc đến yếu tố cốt lõi của biểu tượng đó. Ngược lại khi ta nhắc
đến yếu tố cốt lõi của một biểu tượng xã hội thì ta cũng đang có ý nhắc đến chính biểu tượng xã
hội đó (Moliner, 1988, 1999). Yếu tố ngoại vi mặc dù bị phụ thuộc vào yếu tố cốt lõi trong q
trình hình thành, tuy nhiên nó lại phản ánh được kinh nghiệm cá nhân trong nhóm. Nó cũng thể
hiện sự khơng đồng đều trong chia sẻ khái niệm trong nhóm khi một số thành tố thuộc yếu tố
ngoại vi lại được chia sẻ giữa các thành viên nhiều hơn một số khác. Trên thực tế, khơng thể
hình thành vai trị ổn định của yếu tố cốt lõi nếu khơng có vai trò bảo vệ của yếu tố ngoại vi. Yếu
tố ngoại vi cho phép tích hợp tính mới, điểm kỳ dị hoặc mâu thuẫn vào trong biểu tượng xã hội.
Hai yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Chúng hoạt động tốt như một thực thể trong đó mỗi bộ phận có
một vai trị cụ thể, ln bổ sung cho nhau. Abric có đề cập rằng các đại diện xã hội vừa ổn định
và không ổn định, cứng nhắc và linh hoạt, đồng thời nhất trí nhưng cũng được đánh dấu bởi sự
khác biệt giữa các cá nhân mạnh mẽ (Abric, 1994) .
Từ các nền tảng lý luận nói trên, có ba hướng tiếp cận nghiên cứu chính đối với biểu
tượng xã hội. Đầu tiên, đó là tiếp cận tìm hiểu vai trò, sự tác động của biểu tượng xã hội lên các
tương tác xã hội. Thứ hai, đó là tiếp cận tìm hiểu sự tác động của tương tác xã hội lên sự hình
thành biểu tượng xã hội. Thứ ba, đó là tiếp cận tìm hiểu cấu trúc, đặc điểm của một biểu tượng
xã hội (Abric et al., 2012). Bài nghiên cứu này tập trung chủ yếu và hướng tiếp cận thứ nhất và
thứ ba. Phương pháp nghiên cứu cụ thể sẽ được trình bày rõ ràng hơn ở phần sau.

11


Dựa trên tiền đề của thuyết trung tâm cốt lõi, hai phương pháp nghiên cứu nhằm phục vụ
cho hương tiếp cận thứ ba là tìm hiểu về đặc điểm, cấu trúc đã được hình thành và phát triển theo

thời gian: phương pháp thăm dò và phương pháp chứng thực. Cả hai phương pháp đều hướng tới
đối tượng là yếu tố cốt lõi của biểu tượng xã hội (Moliner & Abric, 2016).
Phương pháp thăm dò được giới thiệu bởi Verges vào năm 1992 về việc sử dụng phép
liên tưởng từ ngữ để tập hợp nội dung của biểu tượng xã hội và tìm ra cấu trúc cốt lõi – ngoại vi
của biểu tượng đó. Phương pháp được được bắt đầu bằng việc cho các cá nhân gọi tên tất cả từ
và biểu lộ xuất hiện trong đầu của họ khi nghe nhà nghiên cứu gọi tên biểu tượng xã hội đang
nghiên cứu. Kho dữ liệu từ ngữ thu thập được sẽ được phân tích và tìm ra đặc điểm của kho dữ
liệu này (có bao nhiêu từ, tần suất xuất hiện ra sao, thứ hạng các từ như thế nào, có các chủ đề
gì,...). Hai yếu tố quan trọng nhất khi phân tích kho dữ liệu từ ngữ của phương pháp này là tần
suất và độ quan trọng (thứ hạng trung bình) của một từ. Những từ có tần suất cao và độ quan
trọng cao (thứ hạng trung bình thấp) được xem như là yếu tố cốt lõi của biểu tượng xã hội đang
nghiên cứu. Phương pháp mặc dù giúp tìm ra cấu trúc của một biểu tượng xã hội nhưng nó chỉ
dừng lại ở đó. Nó khơng giúp nhà nghiên cứu tìm ra thêm các đặc điểm, tính chất của biểu tượng
xã hội này. Do vậy phương pháp này được đặt tên là phương pháp thăm dò và thường dùng cho
những nghiên cứu mở đầu trong những chuỗi nghiên cứu về biểu tượng xã hội. Một ví dụ cho
phương pháp nghiên cứu này là nghiên cứu về biểu tượng xã hội về sức khỏe và bệnh tật của
Sandra Jovchelovitch và Marie-Claude Gervais (Jovchelovitch & Gervais, 1999). Nghiên cứu
được thực hiện trên nhóm khách thể người Hoa đang sinh sống ở Anh. Kết quả nghiên cứu là yếu
tố cốt lõi của sự khỏe mạnh là cân bằng, hài hòa, âm và dương. Còn yếu tố cốt lõi của bệnh tật là
sự mất cân bằng.

12


Phương pháp chứng thực dựa trên lý luận rằng các yếu tố trung tâm của một biểu tượng
là các đặc điểm mà cá nhân coi như không thể tách rời khỏi biểu tượng đó. Do đó, khơng thể
xem một đối tượng là biểu tượng xã hội nếu một trong các đặc trưng của nó khơng nhất qn với
yếu tố trung tâm của biểu tượng. Ví dụ ta khơng xem một động vật khơng có lơng vũ là lồi chim.
Phương pháp này được thực hiện theo hai bước, đầu tiên là nhà nghiên cứu sẽ tự tạo ra một list
danh sách các từ, đặc điểm, yếu tố mà nhà nghiên cứu cho rằng chúng có thể là yếu tố cốt lõi của

biểu tượng xã hội đang nghiên cứu. Bước hai là bước xác định xem trong danh sách, từ nào
thuộc yếu tố cốt lõi bằng cách cho khách thể nghiên cứu xác định xem một đối tượng có phải là
biểu tượng xã hội đang nghiên cứu nếu như nó khơng có đặc điểm/yếu tố được liệt kê trong danh
sách. Hai trường hợp có thể xảy ra, nếu khách thể đưa ra câu trả lời là “Có là”, yếu tố được nêu
ra trong danh sách được xem là yếu tố ngoại vi. Nếu khách thể đưa ra câu trả lời là “Không”, yếu
tố được đưa ra được xem là yếu tố cốt lõi. Phương pháp này dựa nhiều vào khả năng lên danh
sách các yếu tố của nhà nghiên cứu và có nguy cơ nhà nghiên cứu sẽ bị bỏ sót các yếu tố tiềm
năng. Vì thế phương pháp này ít được áp dụng trong các nghiên cứu về cấu trúc của biểu tượng
xã hội.
Tóm lại, biểu tượng xã hội là những nhận thức, suy nghĩ, ý tưởng chung của một tập thể
thể xã hội đối với một đối tượng xã hội nào đó. Biểu tượng xã hội có hai yếu tố chính là yếu tốt
cốt lõi và yếu tố ngoại vi. Trong đó yếu tố cốt lõi đong vai trị quan trọng trong việc hình thành ý
nghĩa của một biểu tượng xã hội. Có nhiều phương pháp nghiên cứu về biểu tượng xã hội trong
đó nổi bật là phương pháp nghiên cứu về cấu trúc của một biểu tượng xã hội. Phương pháp này
tập trung vào việc tìm ra yếu tố cốt lõi của biểu tượng xã hội được nghiên cứu. Đây là cũng là
phương pháp nhà nghiên cứu sử dụng cho bài nghiên cứu này.

13


Định nghĩa về nhà tâm lý học (psychologist)
Nhà nghiên cứu sử dụng định nghĩa của hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ - APA (American
Psychological Association) về nhà tâm lý học (psychologist). Theo từ điển APA được biên soạn
bởi VandenBos (2007) thì nhà tâm lý học là một người được đào tạo về một trong nhiều lĩnh vực
của tâm lý học. Nhà tâm lý học hoạt động trong nhiều thiết lập bao gồm: phịng thí nghiệm,
trường học (ví dụ như trường cấp ba, cao đẳng, đại học), cơ quan xã hội, bệnh viện, phịng khám,
qn đội, cơng nghiệp và kinh doanh, nhà tù, chính phủ, và hành nghề tư nhân. Các hoạt động
chuyên môn của nhà tâm lý học cũng rất đa dạng nhưng có thể bao gồm tư vấn tâm lý, tham gia
vào các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần khác, kiểm tra và đánh giá giáo dục, nghiên cứu,
giảng dạy, tư vấn kinh doanh và tổ chức.

Nhà nghiên cứu cũng ghi nhận một số bài viết khoa học về những đặc điểm và phẩm chất
mà một nhà tâm lý học cần có. Wampold trong bài viết của mình vào năm 2015 đã đưa ra những
đặc điểm của một nhà trị liệu tâm lý tốt (effective therapist) như sau: Giỏi những kỹ năng giao
tiếp liên cá nhân, đáng tin cậy, sẵn sàng thành lập liên minh với thân chủ, cung cấp một định
hình trường hợp chính xác và có cập nhật, có một kế hoạch làm việc chấp nhận được và có tính
ổn định, tin tưởng vào điều trị mà bản thân đang sử dụng, thường xuyên kiểm tra tiến độ của thân
chủ, thích ứng với đặc điểm của thân chủ, lan tỏa hi vọng và sự lạc quan cho thân chủ, nhạy cảm
với những nền văn hóa khác nhau, khả năng tự ý thức bản thân, thực hành dựa trên chứng cứ,
liên tục tham gia các chương trình giúp phát triển nghề nghiệp (Wampold, 2015). Norcross trong
bài viết của mình vào năm 2011 cũng đưa ra 7 đặc điểm của một nhà tâm lý học cần có, gồm:
khả năng kiểm sốt cảm xúc bản thân, sự thấu cảm, tâm trí cởi mở, sự xem xét nội tâm, kiên trì,
sự ngay thẳng, kỹ năng tương tác (Norcross, 2011).

14


Như vậy, bên cạnh định nghĩa của APA về nhà tâm lý học, cụ thể là về những thiết lập và
những hoạt động chun mơn. Nhà tâm lý học cịn có một số đặc điểm như giỏi trong tương tác
giao tiếp, cởi mở, và có những phẩm chất mang tính chuyên môn như khả năng xem xét nội tâm,
khả năng kiểm soát cảm xúc bản thân, sự thấu cảm, đáng tin cậy, sự ngay thẳng.
Các nghiên cứu trƣớc đây về biểu tƣợng xã hội “nhà tâm lý học”
Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu biểu tượng “nhà tâm lý học” (từ
tiếng Anh là “psychologist”) của một số nhóm xã hội nhất định trên thế giới. Plata (2013) đã
nghiên cứu biểu tượng “nhà tâm lý học” ở 16 giảng viên của trường University of Magdalena và
cho kết quả là hai đặc điểm trong yếu tố cốt lõi của một “nhà tâm lý học” là sự hướng dẫn và sự
hỗ trợ. More et al. (2001) đã nghiên cứu biểu tượng “nhà tâm lý học” và “hoạt động của nhà tâm
lý học” trong bối cảnh cộng đồng của 38 nghiệm thể gồm nhân viên, kỹ thuật viên và bệnh nhân
tìm đến hỗ trợ tâm lý tại trung tâm sức khỏe của Florianópolis (Brazil). Kết quả của nghiên cứu
cho thấy “nhà tâm lý học” được hình dung là những chuyên gia trong giúp đỡ, định hướng, nói
chuyện và xử lý những vấn đề cảm xúc. Yếu tố cốt lõi của biểu tượng “nhà tâm lý học” được xác

định trong nghiên cứu là: xử lý vấn đề cảm xúc, hiểu về con người, giúp đỡ và định hướng, đồng
hành. Các nghiên cứu trên đều dừng lại ở việc tìm ra đặc điểm của biểu tượng “nhà tâm lý học”
của một nhóm xã hội nhất định mà khơng tiếp tục tìm hiểu đặc điểm những tương tác xã hội có
liên quan đến biểu tượng đó của nhóm ví dụ như sự mong đợi giúp đỡ, cách thể hiện cảm xúc,
cách thức tương tác, cách tìm kiếm sự trợ giúp đối với nhà tâm lý học.
Tại Việt Nam, khái niệm biểu tượng xã hội vẫn còn là một khái niệm mới mẻ, chưa được
đề cập và nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu biểu tượng xã hội cũng chưa được sử dụng trên
bất cứ khái niệm xã hội nào. Do đó nghiên cứu về biểu tượng xã hội “nhà tâm lý học” tại Việt
Nam đáp ứng được tính mới về cả đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Nghiên

15


cứu này được thực hiện với hi vọng cung cấp thêm dữ liệu khoa học liên quan đến biểu tượng xã
hội của “nhà tâm lý học” ở Việt Nam, đồng thời tìm hiểu thêm những đặc điểm tương tác xã hội
có liên quan đến biểu tượng “nhà tâm lý học”, cụ thể là nhu cầu tìm kiếm sự trợ giúp, trong một
nhóm xã hội nhất định là như thế nào.
Lý thuyết về nhu cầu:
Trong tâm lý học, nhu cầu là một đối tượng được nhiều tác giả tìm hiểu và nghiên cứu.
Trong đó khơng thể khơng kể đến những tác giả của các trường phái tâm lý nối bật như Freud,
Maslow.
Freud trong hệ thống lý thuyết phân tâm học của mình đã phân loại nhu cầu con người
thành hai loại bản năng gồm bản năng sống và bản năng chết. Trong đó bản năng sống hướng
con người thỏa mãn bản thân như ăn uống, tình yêu, tình dục. Bản năng chết thì lại hướng con
người đến việc tránh đi những sự khó chịu và xem cái chết như một trạng thái khơng khó chịu tối
cao. (Freud, 1961).
Maslow trong thuyết thứ bật nhu cầu của mình vào năm 1954 đã đưa ra lý luận rằng con
người có 5 nhu cầu gốc mang tính bấm sinh và được sắp xếp thành thứ bậc từ thấp lên cao theo
hình tháp. Việc sắp xếp này nhằm nhấn mạnh việc thỏa mãn những nhu cầu ở cấp bật cao thì cần
phải đảm bảo nhu cầu ở cấp bậc thấp được thỏa mãn. Tháp nhu cầu của Maslow gồm 5 bậc theo

thứ tự là: (1) Nhu cầu sinh lý; (2) Nhu cầu an toàn; (3) Nhu cầu được chấp nhận và yêu thương;
(4) Nhu cầu được tơn trọng; (5) Nhu cầu hồn thiện bản thân. (Maslow, 1954).
Các nhà tâm lý học Liên Xô khi nghiên cứu về nhu cầu khẳng định nhu cầu là yếu tố bên
trong con người và thức đẩy con người hoạt động. Ý tưởng này được Nguyễn Quang Uẩn trình
bày lại một cách rõ ràng hơn trong định nghĩa của mình về nhu cầu: “nhu cầu là trạng thái tâm lý
của con người, biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hồn cảnh, là sự địi hỏi tất

16


yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển với tư cách là một nhân cách.”
(Nguyễn, 2006).
Như vậy, nhu cầu có thể được hiểu là một yếu tố bên trong của con người, yếu tố này phụ
thuộc vào hoàn cảnh mà con người đang ở trong và có chức năng thúc đẩy con người hành động.
Nhu cầu của con người cũng được phân chia theo cấp bậc cao thấp và những nhu cầu cấp thấp
cần được thỏa mãn phần nào trước khi tiến đến thỏa mãn các nhu cầu bậc cao.
Các nghiên cứu trƣớc đây về nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ từ nhà tâm lý học
Nhà nghiên cứu ghi nhận được những bài viết khoa học và nghiên cứu về việc gia tăng
nhu cầu tìm đến nhà tâm lý học ở cả Việt Nam và thế giới. Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ - APA
(2021) đã có những khảo sát và ghi nhận được sự gia tăng đáng kể số lượng thân chủ tìm đến nhà
tâm lý học trong năm 2021 so với năm 2020. Cụ thể số liệu về nhu cầu điều trị vấn đề trầm cảm
là 70% so với 58% của năm 2020. Số liệu về nhu cầu điều trị vấn đề rối loạn lo âu là 82% so với
72% của năm 2020. Số liệu về nhu cầu điều trị vấn đề sang chấn sau khủng hoảng là 58% so với
46% của năm 2020. APA cũng đưa ra nhận định dựa trên khảo sát của mình rằng ngày càng có
nhiều người tìm đến sự giúp đỡ của dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần, nhu cầu tìm đến các
nhà thực hành tâm lý ngày càng gia tăng.
Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về nhu cầu tham vấn tâm lý được thực hiện. Tác
giả Nguyễn (2007) nghiên cứu về nhu cầu tham vấn của học sinh một số trường trung học cơ sở
và trung học phổ thông trên 371 khách thể đưa ra kết quả rằng 90% khách thể nghiên cứu có khó
khăn trong học tập, quan hệ với cha mẹ, thầy cô, và bạn bè. Tác giả Bùi (2004) với nghiên cứu

về thực trạng nhu cầu tham vấn của học sinh, sinh viên hiện nay đưa ra kết quả là khách thể
nghiên cứu là học sinh cần sự tham vấn tâm lý trên vấn đề học tập (76%). Khách thể nghiên cứu
là sinh viên cần sự tham vấn trên vấn đề tình yêu (78%) và hướng nghiệp (80%). Tác giả Nguyễn
17


(2021) nghiên cứu về một số khó khăn tâm lý và nhu cầu sử dụng dịch vụ tham vấn tâm lý của
sinh viên trường Đại học Thủ Đô Hà Nội đưa ra kết quả là sinh viên gặp khó khăn nhiều nhất
trong mối quan hệ với bố mẹ (điểm trung bình 10.5). Khó khăn kết tiếp mà sinh viên gặp phải là
khó khăn về mặt cảm xúc (điểm trung bình 8.72). Có 73.3% khách thể nghiên cứu cho thấy có
nhu cầu tham vấn tâm lý cho các vấn đề mình gặp phải.
Nhìn vào những nghiên cứu được kể ở trên, nhà nghiên cứu nhận thấy các nghiên cứu
mặc dù tập trung vào nhu cầu tham vấn tâm lý nhưng chỉ dừng lại ở mức độ thống kê và mô tả
thực trạng chứ chưa đi sâu tìm hiểu rõ nhu cầu cụ thể khi tham vấn tâm lý của khách thể nghiên
cứu là như thế nào. Vì vậy, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu rõ ràng hơn nhu cầu
của khách thể là sinh viên đối với một nhà tâm lý là như thế nào.
Đặc điểm tâm lý của sinh viên
Độ tuổi sinh viên (18 – 24) tuổi là độ tuổi khởi đầu cho giai đoạn trưởng thành. Những
giới hạn về độ tuổi có thể khơng chính xác khi nói về đối tượng sinh viên, tuy nhiên sự giới hạn
này nhấn mạnh tính chất mới trưởng thành của người trẻ ở Việt Nam. Jeffrey Arnett (2015) đã
định nghĩa độ tuổi mới trưởng thành này qua những yếu tố chủ chốt sau:
- Là độ tuổi khám phá bản thân, thử nghiệm nhiều cơ hội khác nhau, đặc biệt là trong
tình yêu và công việc.
- Độ tuổi của sự bất ổn định.
- Độ tuổi tập trung vào bản thân nhất trong suốt cuộc đời.
- Độ tuổi ở giữa chừng của sự chuyển giao, khơng cịn là vị thành niên, nhưng chưa
phải là người trưởng thành.

18



- Độ tuổi của những điều khả thi, hy vọng nảy nở, khi mỗi cá nhân gặp những cơ hội
đổi đời vô giá.
Độ tuổi sinh viên cũng là độ tuổi khởi đầu cho một giai đoạn cuộc đời theo thuyết
tâm lý xã hội của Erik Erikson. Theo thuyết tâm lý xã hội của Erik Erikson thì con người
phát triển theo từng giai đoạn mà các giai đoạn trước có vai trò đắp nền cho các giai đoạn
sau này. Mỗi giai đoạn đều có một mâu thuẫn mà con người trải qua và cần phải xử lý. Nếu
con người ta xử lý thành công mâu thuẫn thành công, họ sẽ bước vào giai đoạn mới với các
sức mạnh tâm lý hữu ích. Nếu họ thất bại trong việc xử lý hiệu quả những xung đột này, họ
khơng thể hình thành những kỹ năng thiết yếu cần có để hiểu rõ chính mình (Erikson, 1993).
Thuyết tâm lý xã hội liệt kê ra 8 giai đoạn cuộc đời, trong đó giai đoạn thứ 6 là giai đoạn
ứng với độ tuổi trưởng thành (18 đến 40 tuổi). Mâu thuẫn mà con người cần xử lý trong giai
đoạn này là sự gắn bó (intimacy) và sự cô lập (isolation). Cụ thể, người trưởng thành trong độ
tuổi này dành phần lớn thời gian tìm kiếm sự thân mật từ tình bạn cho đến tình yêu và tình dục.
Họ khơng những phải cố gắng tìm những mối quan hệ bạn bè và tình cảm khi bản thân mình vẫn
đang hình thành mà cịn phải cân bằng những thử thách đó với nhiệm vụ định hình cá tính và vai
trò xã hội còn đang dang dở từ giai đoạn vị thành niên (12-18 tuổi). Sự phát triển thành cơng
trong giai đoạn này sẽ khiến một người có khả năng mở lòng chia sẻ với người khác, chấp nhận
sự khác biệt của họ mà vẫn giữ được ý thức về bản thân mình, biết cách thể hiện quan tâm thấu
cảm, và gần gũi với người khác nhưng vẫn thoải mái khi ở một mình . Ngược lại, chiều hướng
tiêu cực thu mình cơ lập sẽ khiến một người khơng định hình được giá trị, niềm tin, sở thích,
kinh nghiệm cá nhân, không chấp nhận hay thấu cảm được cho sự khác biệt của người khác,
không dám dấn thân vào những mối quan hệ thân mật vì sợ đánh mất bản thân.

19


Như vậy, độ tuổi sinh viên là độ tuổi bắt đầu của giai đoạn trưởng thành. Đây là độ tuổi
của sự chuyển giao giữa vị thành niên và hoàn toàn trưởng thành. Đây cũng là độ tuổi của sự
khám phá và sự không ổn định. Là giai đoạn khởi đầu cho độ tuổi trưởng thành nên sinh viên

phải trải qua mâu thuẫn của lứa tuổi giữa sự gắn bó và sự cô lập.
Ý nghĩa đề tài
Về mặt khoa học: Kết quả nghiên cứu cung cấp đặc điểm về biểu tượng “Nhà tâm lý học”
ở nhóm đối tượng sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh và đặc điểm về nhu cầu tìm kiếm sự giúp
đỡ của nhóm đối tượng này đối với nhà tâm lý học. Điều này đóng góp dữ liệu khoa học cho
công cuộc nghiên cứu về biểu tượng xã hội, mở ra các hướng nghiên cứu khác về biểu tượng xã
hội nói chung và biểu tượng “Nhà tâm lý học” nói riêng ở Việt Nam.
Về mặt xã hội: Theo quyết định số 34/2020/QĐ -TTg ngày 26/11/2020 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành Danh mục nghề nghiệp Việt Nam, chức danh “Nhà tâm lý học” đã được
ban hành. Nghiên cứu giúp người trong ngành và những nhà chức trách biết được hình dung và
nhu cầu của đối tượng là sinh viên đối với chức danh “Nhà tâm lý học” mới được ban hành là
như thế nào. Bên cạnh đó, trong hoạt động thăm khám tâm lý lâm sàng, sự mường tượng của
thân chủ về nhà tâm lý và nhu cầu của thân chủ đối với việc thăm khám ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả làm việc lâm sàng. Việc tìm hiểu ra biểu tượng xã hội và nhu cầu tìm kiếm giúp đỡ của
sinh viên thành phố Hồ Chí Minh về “nhà tâm lý học” giúp nhà tâm lý có thể hình dung, dự đốn,
thích ứng, và đạt hiệu quả tốt hơn trong khi làm việc với nhóm đối tượng là sinh viên này.
Ngược lại, sinh viên và các đối tượng khác khi tiếp cận với kết quả nghiên cứu cũng sẽ hiểu và
thích ứng ngược lại với biểu tượng xã hội nhà tâm lý học.

20


PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phƣơng pháp luận
Nhằm tìm hiểu một cách tỉ mỉ, rõ ràng, sâu sắc về cấu trúc của biểu tượng xã hội “nhà
tâm lý học” và nhu cầu tìm kiếm sự giúp đỡ của khách thể nghiên cứu đối với biểu tượng xã hội
này, nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính trong bài nghiên cứu này.
Mẫu
Số lượng mẫu trong nghiên cứu là 60 sinh viên đang theo học các trường đại học quốc
gia tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Số lượng mẫu 60 phù hợp với yêu cầu tối thiểu cho một

nghiên cứu định tính có ý nghĩa là 12 (Boddy, 2016).
Tiêu chí lựa chọn: Nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện để tiến
hành chọn mẫu. Khách thể được lựa chọn dựa trên ba tiêu chí: (1) Tự nguyện và sẵn sàng tham
gia, (2) là sinh viên và không phải sinh viên ngành tâm lý, (3) chưa từng trải nghiệm việc trị liệu
tâm lý. Lý do cho những tiêu chí lựa chọn mẫu này là để mẫu có sự đồng nhất. Việc là sinh viên
ngành tâm lý hoặc đã từng trải nghiệm trị liệu tâm lý sẽ có thể khiến khách thể khơng cịn hình
dung về biểu tượng nhà tâm lý một cách tự nhiên mà sẽ đưa ra câu trả lời dưới dạng kiến thức và
hiểu biết. Điều đó làm cho dữ liệu thu thập được khơng còn tự nhiên nữa.
Cách thức chọn mẫu: Nhà nghiên cứu đến các trường đại học trong địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh và tiếp cận với các sinh viên để tiến hành giới thiệu và hỏi về việc tham gia nghiên cứu,
những sinh viên đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ được đưa vào mẫu và tiến hành phỏng vấn tại
chỗ trong khuôn viên các trường đại học. Khách thể được giới thiệu rõ ràng về nhà nghiên cứu
và mục đích của việc phỏng vấn. Chủ đề nghiên cứu khơng được tiết lộ trong phần giới thiệu
nhầm đảm bảo dữ liệu thu thập từ khách thể là tự nhiên và khơng có chuẩn bị trước. Khách thể

21


cũng được giải thích về điều này và chủ đề nghiên cứu sẽ được nói sau khi buổi phỏng vấn kết
thúc.
Đặc điểm mẫu: các thông tin của mẫu bao gồm: nơi đào tạo, giới tính, và năm học.
- Về nơi đào tạo: nhà nghiên cứu chọn 6 trường đại học quốc gia để tìm kiếm khách thể
nhằm tăng cao độ hiệu lực bên trong của nghiên cứu. Trong đó mỗi trường lấy 10 khách thể
nhằm giảm sự ảnh hưởng của biến nhiễu về sự khác biệt nơi đào tạo của khách thể nghiên cứu.
- Về giới tính: theo bảng 1 (đặc điểm giới tính) bên dưới bên dưới thì có 32 khách thể
nam (chiếm 53.3%) và 28 khách thể nữ (chiếm 46.7%). Đây là thơng tin về giới tính sinh học
nên khơng có sự xuất hiện của biến “giới tính thứ ba”.

Giá
trị


Tần suất

Phần
trăm

Nam
Nữ

32
28

53.3
46.7

Phần trăm
hợp
lệ
(Valid
Percent)
53.3
46.7

Tổng

60

100.0

100.0


Phần
trăm
tích
lũy
(Cumulative
Percent)
53.3
100.0

Bảng 1. Đặc điểm giới tính

- Về năm học: theo bảng 2 (đặc điểm năm học) bên dưới thì ta thấy năm nhất chiếm số
lượng lớn gồm 26 khách thể (43.3% mẫu), sau đó đến năm hai gồm 16 khách thể (26.7% mẫu)
và năm ba gồm 14 khách thể (23.3% mẫu). Năm bốn có số lượng ít nhất gồm 4 khách thể (6.7%
mẫu).

22


Giá
trị

43.3
26.7
23.3

Phần trăm
hợp
lệ

(Valid
Percent)
43.3
26.7
23.3

Phần
trăm
tích
lũy
(Cumulative
Percent)
43.3
70.0
93.3

6.7
100.0

6.7
100.0

100.0

Tần
suất

Phần
trăm


Năm 1
Năm 2
Năm 3

26
16
14

Năm 4
Tổng

4
60

Bảng 2. Đặc điểm năm học

Công cụ nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng hai công cụ nghiên cứu khác nhau cho hai câu hỏi nghiên cứu.
Phương pháp liên tưởng từ ngữ được sử dụng để tìm hiểu cấu trúc của biểu tượng xã hội nhà
“tâm lý học” và phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc được sử dụng để tìm hiểu nhu cầu tìm
kiếm sự giúp đỡ của sinh viên đối với nhà tâm lý học.
Phƣơng pháp liên tƣởng từ ngữ
Phương pháp liên tưởng từ ngữ dựa trên phương pháp liên tưởng của Abric (1994).
Phương pháp được thực hiện bằng cách nhà nghiên cứu gọi tên biểu tượng xã hội đang nghiên
cứu cho khách thể nghe và khách thể sẽ nói ra những gì xuất hiện trong đầu mình sau khi nghe
thấy biểu tượng xã hội đó. Phương pháp gồm hai bước: luyện tập liên tưởng ban đầu (với hai
khái niệm không liên quan đến khái niệm đích “nhà tâm lý học”), và liên tưởng từ ngữ (với khái
niệm đích “nhà tâm lý học”). Cụ thể lời dẫn để bắt đầu phương pháp liên tưởng từ ngữ như sau:

23



×