Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

tham vấn là một nghề giúp người khác giúp đỡ chính họ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.88 KB, 143 trang )

Phần mở đầu
I. Đặt vấn đề
Ngày nay, con người phải chịu nhiều sức ép của xã hội phát triển, với những
mâu thuẫn ngày càng nhiều giữa sự gia tăng nhu cầu với mức độ thoả mãn chúng,
giữa những biến đổi nhanh chóng của xã hội với khả năng thích nghi của cá nhân…
Không phải lúc nào mọi việc đều diễn ra một cách suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió
như người ta mong muốn và sắp đặt. Có những tình huống cần những cách giải
quyết đúng đắn những mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí, giữa điều kiện và khả
năng, giữa mong muốn và kết quả. Những lúc ấy, không ít người không thể quyết
định được là họ phải làm gì, giải quyết ra sao, đặc biệt là với những khó khăn về
tâm lý. Họ cần được trợ giúp để có thể thích nghi tốt hơn với hoàn cảnh sống của
riêng mình.
Là một sinh viên được đào tạo chính quy về tham vấn, chuẩn bị bước vào
nghề trong điều kiện tài liệu về tham vấn còn rất ít ỏi, tôi muốn tìm hiểu từ góc độ
lý luận những phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn nhằm làm sáng tỏ các
cách thức trợ giúp khách hàng đang được tiến hành có hiệu quả bởi các nhà tham
vấn ở các nước phát triển. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Phương pháp tiếp cận
thân chủ trong tham vấn” để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
Tham vấn với tư cách là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn đã ra
đời nhằm đáp ứng nhu cầu cần trợ giúp những vấn đề tâm lý của con người. Tham
vấn hiện nay đã rất phát triển trên thế giới nhưng vẫn còn là một ngành nghề khá
mới mẻ ở Việt Nam.
Trong mươi năm trở lại đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền
kinh tế do chính sách mở cửa của nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của
người dân đều được nâng cao. Nhiều trung tâm, dịch vụ tham vấn (ở nước ta thường
gọi là tư vấn) đã được thành lập và đi vào hoạt động, mang đến một dịch vụ trợ giúp
mới mẻ cho người dân. Tuy nhiên hoạt động của những trung tâm này còn mang giá
- 1 -
trị tự phát, chủ yếu phát triển ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Hải Phòng… Do đó tham vấn chưa được coi là một nghề chuyên môn với
những ý nghĩa đích thực của nó.


II. Quan điểm nghiên cứu của đề tài.
Với tính chất vô cùng quan trọng của nghề tham vấn là trợ giúp thân chủ
(những người có vấn đề về tâm lý) thích ứng tốt hơn với hoàn cảnh sống của mình,
NTV buộc phải có hiểu biết sâu sắc về nghề nghiệp, phải tuyệt đối tuân thủ những
nguyên tắc đạo đức cơ bản của nghề để “không gây hại cho thân chủ”. Thân chủ tìm
đến các trung tâm, dịch vụ tham vấn với mong muốn có thể giải quyết những vấn đề
của mình. Mỗi người trong số họ lại là một con người vô cùng phong phú, phức tạp
với kinh nghiệm, trình độ, lối sống, văn hoá… riêng. Vấn đề của họ cũng muôn
hình muôn vẻ. Chính vì vậy, cả NTV và thân chủ cần phải hiểu bản chất của tham
vấn, chức năng, nhiệm vụ của các dịch vụ tham vấn, từ đó tạo lập nên một mối quan
hệ trợ giúp hiệu quả.Trong đó, cán bộ tham vấn dùng những kỹ năng nghề nghiệp
giúp thân chủ hiểu đúng đắn, chính xác vấn đề của mình, nhận thấy những tiềm
năng và tự giải quyết chúng, nghĩa là các cán bộ tham vấn đã “giúp thân chủ tự giúp
(tự giải quyết) vấn đề của mình (self -help).
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm “Tham vấn là một nghề giúp
người khác giúp đỡ chính họ”.
III. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các phương pháp tiếp cận thân chủ trong
tham vấn.
2. Khách thể nghiên cứu:
- Các tài liệu, sách kèm theo các ca tham vấn điển hình đối với từng phương
pháp tiếp cận thân chủ trên thế giới.
- Một số ca tham vấn ở Việt Nam.
- 2 -
3. Phạm vi nghiên cứu:
Do những hạn chế về thời gian, đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu tổ hợp các
phương pháp tiếp cận tham vấn hiệu quả ở các nước Châu Âu và Mỹ. Đồng thời
phân tích 2 ca tham vấn lấy từ báo, trực tiếp từ điện thoại ở Việt Nam.
IV. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:

1. Mục đích nghiên cứu:
Phân tích các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn nhằm chỉ ra một
cách có hệ thống các lý thuyết đặc trưng trong từng phương pháp và đánh giá ưu
nhược điểm của chúng.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Nghiên cứu lý luận:
- Xác định một số khái niệm cơ bản của tham vấn với tư cách là một ngành
khoa học, một nghề chuyên môn.
- Phân tích các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn.
- Phân tích một số ca tham vấn dựa trên các phương pháp tiếp cận TC trong
tham vấn.
2.2. Kết luận và khuyến nghị.
Kết luận ưu nhược điểm của các phương pháp, đưa ra những khuyến nghị
cho việc lựa chọn phương pháp nhằm tạo điều kiện phát triển nghề tham vấn trong
tương lai ở Việt Nam.
V. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu duy
nhất là thu thập phân tích tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã thu thập, tra cứu và sử dụng
một số tài liệu có liên quan, cụ thể là:
- Tài liệu lý luận liên quan đến tham vấn
- 3 -
- Tài liệu sách báo, tạp chí, công trình nghiên cứu về tham vấn.
- Tài liệu về các ca tham vấn từ sách, báo, đài trực tiếp.
Việc nghiên cứu tài liệu đã góp phần làm sáng tỏ lịch sử nghiên cứu của vấn
đề, các khái niệm cơ bản của đề tài phục vụ cho phần lý luận và cung cấp những ca
tham vấn dùng để làm ví dụ minh hoạ cho phần lý luận.
- 4 -
Phần nội dung
I. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu.

Tham vấn là một chuyên ngành vốn xuất phát từ tâm lý học ứng dụng. Đây
là một lĩnh vực mới và có nhiều tiềm năng phát triển. Trong lịch sử ra đời và tồn tại
của mình, tham vấn nói riêng và tâm lý học nói chung có rất nhiều phương pháp
tiếp cận khác nhau. Nghiên cứu phương pháp tiếp cận thân chủ của các cán bộ tham
vấn là một việc quan trọng và cần thiết đối với ngành khoa học và nghề nghiệp
chuyên môn tham vấn nhất là ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1. Lịch sử phát triển các phương pháp tiếp cận TC trong tham vấn trên
thế giới.
1.1. Những tiền đề:
Mặc dù tham vấn là ngành khoa học mới được chính thức ra đời từ thế kỷ
XX nhưng những tiền đề của nó đã xuất hiện từ rất xa xưa.
Trong phần nghiên cứu lịch sử tham vấn( chủ yếu về các phương pháp tiếp
cận TC), chúng tôi dựa vào chương II cuốn sách “Thế giới của những nhà tham
vấn” (The world of the counselors) nguyên bản tiếng Anh của tiến sĩ tham vấn
người Mỹ E.D.Neukrug, do Công ty xuất bản Brooks/Cole Mỹ (1999) và bổ sung
thêm vào phần II cuốn sách Công tác tham vấn trẻ em của Kathryn Geldard và
David Geldard (do Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc dịch, NXB ĐH Mở Thành phố
Hồ Chí Minh). Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo một số tài liệu có liên quan đến
tham vấn như Tâm lý trị liệu, TLH xã hội, TLH phát triển…
Con người ngay từ thời nguyên thuỷ đã có nhu cầu giao tiếp, bộc lộ những
tâm tư tình cảm của mình. Nhu cầu đó cùng với sự phát triển của xã hội đã thúc đẩy
sự ra đời của những người làm công tác tham vấn. Có thể coi: “những nhà tham vấn
đầu tiên là những người lãnh đạo cộng đồng, họ cố gắng đem lại nguồn cảm hứng,
nâng đỡ tinh thần cho những người khác thông qua việc giảng dạy của họ. Họ là
những người sáng lập ra các tôn giáo như Moses (năm 100 trước công nguyên).
- 5 -
Buddha (Phật – năm 500 trước công nguyên) và Mohammed (năm 600). Họ là
những nhà triết học như Lão Tử (Năm 600 trước công nguyên); Khổng Tử (năm
500 trước công nguyên); Aristole (350 trước công nguyên) {35, 25}. Họ là những
người đặt nền móng về tư tưởng cho sự ra đời của tâm lý học nói chung và tham

vấn nói riêng về sau.
Nói đến sự ra đời của tham vấn không thể không nói đến vai trò của các
ngành hỗ trợ cho nó như công tác xã hội, tâm lý học, tâm thần học. Lịch sử của các
ngành này có ý nghĩa quyết định đến tham vấn.
Công tác xã hội là một nghề nảy sinh từ những năm 1500, xuất phát từ việc
giúp đỡ người nghèo và những người khốn cùng ở Mỹ, Anh. Công tác xã hội nhấn
mạnh sự thấu hiểu, đã cung cấp cho NTV một cách hiểu các cá nhân từ trong gia
đình và trong các lĩnh vực xã hội. NTV gia đình đầu tiên đã bắt đầu công việc là
nhân viên công tác xã hội. Những nhà tham vấn phải học cách thể hiện sự chấp
nhận của họ đối với thân chủ thông qua hoạt động thực tế của công tác xã hội. Công
tác xã hội đã gợi ý cho những nhà tham vấn về sự khác biệt của các thân chủ về văn
hoá, trình độ phát triển xã hội nơi họ sống và luôn nhắc nhở các nhà tham vấn phải
tiếp tục phục vụ cho thân chủ dựa trên những chuẩn mực của địa phương, bang và
quốc gia.
Tâm lý học có ảnh hướng lớn cả về chiều rộng và độ sâu đến tham vấn. ý
tưởng của ngành tham vấn hiện đại đã có từ rất lâu, thể hiện trong quan điểm của
những nhà triết học cổ tại phương Tây.
Plato (427 – 347 trước công nguyên) đã đưa ra quan điểm giống như quan
điểm tham vấn hiện đại: “Sự tự xem xét nội tâm và sự phản ánh là con đường dẫn
tới tri thức và sự hiểu biết hiện thực. Những giấc mơ và những hình ảnh tưởng
tượng là sự thoả mãn thay thế. Những vấn đề nảy sinh của con người là do những
yếu tố vật lý tâm lý, tinh thần gây ra.” [40]
Nhà triết học duy tâm lỗi lạc cổ Hy Lạp Socrate (469 –399 trước công
nguyên) với châm ngôn “hãy tự biết mình” đã đặt vấn đề tự nhận thức bản thân lên
- 6 -
vị trí cao nhất. Ông quan niệm tự nhận thức bắt đầu từ chỗ con người nghi ngờ sự
hiểu biết của bản thân: “Tôi biết là tôi chẳng biết gì cả”{9, 15}. Cái “chẳng biết gì”
của Socrate là nguồn gốc của “cái biết”. Socrate còn nổi tiếng với việc xây dựng
phương pháp trò chuyện: dùng trò chuyện tay đôi hai người tranh luận với nhau mà
tìm ra chân lý. Phương pháp này ảnh hưởng nhiều đến các phương pháp tham vấn

cho thân chủ. Điều lý thú của phương pháp trò chuyện của Socrate là đưa người học
đến chỗ tự mình phát hiện được cái mình chưa biết và tự đi đến cái cần biết. Và
trong tham vấn, NTV cũng giúp TC tự hiểu và tự tìm ra cách giải quyết tốt nhất với
vấn đề của mình.
Thế kỷ XIX đánh dấu sự phát triển vượt bậc và nhanh chóng của tâm lý
học. Cùng với sự phát triển của các phòng thực nghiệm tâm lý, là sự phát triển của
các trắc nghiệm tâm lý – giáo dục cuối thế kỷ XIX. Alfred Binet (1857 – 1911) đã
phát triển trắc nghiệm trí tuệ cá nhân đầu tiên được Bộ giáo dục Pháp sử dụng để
phân biệt trẻ bình thường và không bình thường. Đầu thế kỷ XX, trắc nghiệm khả
năng (năng lực) nhân cách lần lượt ra đời và có ứng dụng rộng dãi trong việc nhận
xét đánh giá cá nhân. Các trắc nghiệm tâm lý này đã giúp cho NTV có công cụ hiểu
hơn về TC một cách khách quan.
Thời gian này cũng đánh dấu sự ra đời và phát triển của phân tâm học, hệ
thống tâm lý trị liệu toàn diện đầu tiên đánh giá nguồn gốc tâm lý của hành vi.
Sigmund Freud (1856 – 1939) là người sáng lập ra phân tâm học chịu ảnh hưởng rất
lớn của các cá nhân như Anton Mesmer (1734 – 1851) và Jean Martin Charcot
(1825 – 1893) những người điều trị bệnh tâm trí theo một phương pháp mới: thôi
miên. Những nhà thôi miên tiên phong này đã chứng minh rằng sự ám thị có thể tác
động mạnh mẽ đến trạng thái tâm lý của các cá nhân. Nhận thấy thôi miên đem lại
hiệu quả nhất định cho người bệnh, Freud và những cộng sự cũng đã dùng thôi
miên như một công cụ quan trọng để giải toả những ấn tượng sâu sắc và những ký
ức đau buồn của bệnh nhân tâm thần. Tuy nhiên, sau một thời gian, cũng đã phát
hiện ra rằng “việc chữa trị bằng thôi miên cũng đem lại những kết quả rất hạn chế,
không triệt để, chỉ có tính chất tạm thời vì nó chỉ đánh vào triệu chứng bên ngoài
- 7 -
mà không đụng chạm đến cái nguồn gốc sâu xa làm phát sinh ra bệnh” {14,11}. Do
đó ông từ bỏ phương pháp chữa trị bằng môn thôi miên và thay thế bằng phương
pháp mới, đặt tên là “tự do liên tưởng”.
Học thuyết của Freud nhằm tìm hiểu nguồn gốc của hành vi con người xuất
phát từ những khám phá của ông về các quá trình vô thức và của các cơ chế phòng

vệ được những người lớn có những xáo trộn xúc cảm sử dụng nhằm tự che chở cho
bản thân trước những kinh nhiệm đau buồn và hoặc không chịu nổi mà họ không đủ
sức đối phó. Ngoài ra Freud còn đưa ra những ý kiến có tính khái niệm về sự hình
thành nhân cách (các quan niệm về bản năng, xung động, bản ngã và siêu ngã; nhân
cách; về sự phát triển tâm lý tình dục) {30,46}
Quan điểm mới của Freud trong lĩnh vực sức khoẻ tâm thần và bệnh tâm
thần là một cuộc cách mạng và tiếp tục ảnh hưởng một cách sâu sắc đến cách thức
mà chúng ta tiếp cận vấn đề của thân chủ. Mặc dù được đào tạo là một bác sỹ nhưng
những quan điểm nêu trên của ông nhanh chóng được chấp nhận trong tâm lý học
và đưa Freud trở thành một trong những nhà tâm lý học lỗi lạc nhất thế giới.
Bên cạnh phân tâm học truyền thống của Freud, cuối thế kỷ XIX xuất hiện
một trường phái tâm lý học khác đó là trường phái TLH hành vi. Trường phái này
nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự đánh giá, đi sâu nghiên cứu “kích thích – phản
ứng” do nhà sinh lý học Nga Anton Pavlov (1849 – 1936) dẫn đầu và những ảnh
hưởng của môi trường đối với tâm lý của con người. Cùng thời gian này, TLH hiện
tượng, TLH hiện sinh, TLH cấu trúc (Gestalt) cũng bắt đầu phát triển. Tất cả các
trường phái tâm lý nêu trên đều có ảnh hưởng đến phương pháp tiếp cận TC của các
NTV sau này.
Nhìn chung, TLH đóng một vai trò to lớn trong sự nghiệp ra đời và phát
triển của ngành, nghề tham vấn không chỉ với những tri thức nền tảng cơ bản mà
còn với các trắc nghiệm trợ giúp đánh giá vấn đề của TC, các phương pháp tiếp cận
TC chủ yếu… Có thể khẳng định tâm lý học thực sự là “người anh cả của tham
vấn”. {40,29}.
- 8 -
Sẽ thật thiếu sót nếu chúng ta bỏ qua vai trò của chuyên ngành tâm thần học.
Cho đến cuối những năm 1700 bệnh tâm thần vẫn được coi là bí ẩn, ma quỷ và nhìn
chung là không thể chữa trị được. Tại Pháp, Philippe Pinel (1745 – 1826) được coi
là người sáng lập ra ngành tâm thần học khoa học với những nỗ lực chữa trị cho
bệnh nhân tâm thần bằng những phương pháp nhân đạo, không cách ly họ ra khỏi
cộng đồng. Những năm 1800 đánh dấu những thành tựu to lớn trong nhận thức,

chẩn đoán và điều trị bệnh tâm trí. Emil Kraepelin (1855 – 1926) đã phát triển một
trong những bảng phân loại bệnh tâm trí đầu tiên trên thế giới. Jean Martin Charcot
(1825 – 1893) và Piese Janet (1859 – 1974) đồng thời phát hiện ra mối quan hệ hữu
cơ giữa trạng thái tâm lý và những rối nhiễu hành vi. ở Mỹ, tác giả Benjamin Rush
(1743 – 1813) , nhà vật lý học được coi là người sáng lập ra ngành tâm thần học
Mỹ, đã vận động cho việc áp dụng những biện pháp chữa trị nhân đạo cho người
nghèo và những người mắc bệnh tâm trí.
Như vậy, ngành tâm thần học với những thành tựu trong chẩn đoán về
những trạng thái rối loạn tâm thần đã giúp cho các nhà tham vấn phân biệt sự khác
biệt của các bệnh tâm trí khác nhau thuộc lĩnh vực sức khoẻ tâm thần, từ đó định ra
những lĩnh vực mà họ có thể cộng tác cùng điều trị với các nhà tâm thần học. Các
bảng phân loại bệnh tâm trí của tâm thần học giúp cho các NTV và những nhà
chuyên môn khác trong việc chẩn đoán và phát triển kế hoạch trị liệu cho TC.
Ngoài ra, căn cứ vào bảng phân loại này, NTV còn xác định được những TC nào
cần được chuyển đến những chuyên gia tâm thần học hoặc thần kinh học để được
chữa trị.
1.2. Sự ra đời và phát triển của tham vấn.
Sau khi xem xét lịch sử của các chuyên ngành hỗ trợ tham vấn chúng ta bắt
đầu đi sâu tìm hiểu lịch sử của Tham vấn, bởi vì lịch sử phát triển của ngành tham
vấn gắn với sự ra đời của các phương pháp tiếp cận thân chủ trong tham vấn.
Tham vấn là một ngành nghề đại diện cho sự hợp nhất lại của nhiều ảnh
hưởng như phong trào đấu tranh để có được những biện pháp điều trị nhân đạo cho
- 9 -
bệnh nhân tâm thần từ thế kỷ XIX ở Pháp, phân tâm học- Freud; những khảo cứu
khoa học và phương pháp tiếp cận hành vi; chất lượng khoa học các trắc nghiệm
tâm lý; tâm lý học hiện sinh; tâm lý học nhân văn và những thành tựu rõ ràng của
lĩnh vực hướng dẫn tư vấn nghề.
Tham vấn được ra đời và phát triển theo các giai đoạn sau {30}
- Từ 1900 đến 1950: Những tiền đề cho sự ra đời của ngành, nghề tham vấn.
Tiền đề đầu tiên phải kể đến là sự phát triển của công tác hướng dẫn tư vấn

nghề và sự ra đời của những NTV nghề đầu tiên.
Từ đầu thế kỷ XX, công tác xã hội đã mang lại quan tâm và những thay đổi
trong công tác giáo dục; tâm thần học làm biến đổi về chất các phương pháp chữa
trị cho bệnh nhân tâm thần; phân tâm học và những liệu pháp liên quan được ứng
dụng rộng rãi; hiệu quả của các trắc nghiệm và cuộc cách mạng công nghiệp đối với
sự phát triển xã hội nâng cao vật chất tinh thần cho con người. Nhìn một cách tinh
tế, mỗi một sự kiện này đều ảnh hưởng đến công tác hướng dẫn tư vấn nghề và sự
ra đời của tham vấn.
Frank Parsons (1854 – 1908), người sáng lập ra ngành hướng dẫn tư vấn
nghề ở Mỹ. Bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một nhân viên công tác xã hội ở
Boston, được sự hậu thuẫn của những quan chức lãnh đạo cộng đồng ở đây, đã xuất
bản cuốn sách “Cẩm nang hướng nghiệp” (Vocational Bureau) nhằm trợ giúp các cá
nhân trong việc lựa chọn nghề nghiệp, tìm ra cách bắt đầu và xây dựng một nghề
nghiệp thành công và hiệu quả” {40,33} . Ông thực sự mong muốn công tác hướng
dẫn tư vấn nghề nghiệp được đưa vào trường học.
Năm 1909, sau khi ông qua đời một năm, cuốn sách “chọn nghề” (Choosing
a Vocation) được xuất bản và ngay lập tức nó được coi là sự cống hiến lớn lao cho
công tác hướng dẫn tư vấn nghề. Boston trở thành địa điểm tổ chức Hội nghị công
tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp đầu tiên. kết quả của hội nghị này đánh dấu sự ra
đời của Hiệp hội tư vấn hướng nghiệp quốc gia Mỹ (NVGA) năm 1913, tổ chức tiền
nhiệm của Hiệp hội tham vấn Mỹ sau này. Frank Parsons là người có tầm nhìn xa.
- 10 -
Ông đã hình dung ra công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp có hệ thống trong
trường học, hình dung ra sự phát triển của công tác này trong nước. Ông cũng thấy
trước được tầm quan trọng của công tác tham vấn cá nhân và ông đã hi vọng có một
xã hội trong đó sự hợp tác quan trọng hơn sự cạnh tranh. Nguyên tắc của Parsons
trong công tác hướng dẫn tư vấn nghề đã ảnh hưởng sâu sắc đến những lĩnh vực
rộng lớn hơn của công tác tham vấn. Mục đích chính của Parsons đối với công tác
hướng dẫn tư vấn nghề luôn được thể hiện trong “3 quá trình”sau:
Một là: sự thấu hiểu một cách rõ ràng về bản thân, về khả năng, sở thích

hoài bão, nguồn lực cũng như những hạn chế của bạn đối với nghề; động lực thúc
đẩy bạn chọn nghề.
Hai là: kiến thức về những yêu cầu, điều kiện của thành công, những thuận
lợi và khó khăn; sự đền bù; những cơ hội và những triển vọng phát triển trong các
giới hạn khác nhau của công việc
Ba là: nguyên nhân thực sự trong mối liên hệ của hai nhóm trong thực tế”.
{37,33}
Tuy nhiên, những xem xét sâu sắc, tỉ mỉ của Parson trong công việc của ông
đã chỉ ra cho chúng ta thấy nhiều điểm trong các nguyên tắc này thực sự trở thành
nguyên lý của nghề Tham vấn. Ví dụ, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phải
có một người hướng dẫn chuyên nghiệp và gợi ý rằng một người hướng dẫn tốt
không thể đưa ra các quyết định cho người khác, những người mà một cách cơ bản
phải quyết định điều gì tốt nhất cho anh ta hoặc cô ta. Ông cũng cho rằng một NTV
nên thân tình, cởi mở, trung thực và tốt bụng với TC. Điều đó có ý nghĩa quyết định
đối với các NTV trong sự nỗ lực giúp đỡ TC phát triển những tiềm năng riêng của
họ. Với những tư tưởng nêu trên, Parsons không những xứng đáng với danh hiệu là
người sáng lập ra công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp mà còn xứng đáng với
danh hiệu người sáng lập của tham vấn.
Sau này, mặc dù công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp trong trường học
được phát triển, song nhiều người đã tán thành việc cần có một cách tiếp cận rộng
- 11 -
hơn với tham vấn trong trường học. Những người này cho rằng những chuyên gia tư
vấn hướng nghiệp không nên chỉ tập trung quan tâm về ngành nghề mà còn nên chú
ý đến sự khác biệt lớn trong những nhu cầu về tâm lý và giáo dục của học sinh. Nói
cách khác những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp phải là những NTV.
Công tác hướng dẫn tư vấn nghề nghiệp tồn tại và phát triển được nhờ sự trợ
giúp của các trắc nghiệm về khả năng nhận thức, hứng thú, trí thông minh, nhân
cách… Những trắc nghiệm này càng được chuẩn hoá và hoàn thiện, đóng góp một
cách tích cực cho tất cả các loại hình thực hành tham vấn. Sự mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của ngành tâm lý trị liệu cùng với nỗ lực đấu tranh cho những hình thức

chữa trị nhân đạo đối với bệnh nhân tâm thần, những bệnh viện điều trị tâm thần
được xây dựng khiến cho nhu cầu cần người trợ giúp được đào tạo, chuyên nghiệp
cũng gia tăng. Ban đầu, những nhân viên công tác xã hội, những nhà tâm lý trị liệu
được đào tạo về những kỹ năng tham vấn để có thể đáp ứng nhu cầu này.
Tham vấn chính thức ra đời vào những năm 1930 do công của E.G
Williamson (1900-1979). Lần đầu tiên trong lịch sử một lý thuyết hoàn chỉnh của
tham vấn được đưa ra, phân biệt rõ rệt với thuyết phân tâm học đang thịnh hành của
Freud.
Cách tiếp cận của Williamson bước đầu đã vượt qua những ý tưởng của
Frank Parsons. Mặc dù có nguồn gốc từ công tác hướng dẫn tư vấn nghề nhưng
hướng tiếp cận này đã được thay đổi và được xem như là một hướng tiếp cận hữu
cơ với tham vấn và tâm lý trị liệu. Nét đặc trưng và những nhân tố chính của nó liên
quan đến một chuỗi hoạt động 5 bước, bao gồm:
1.Phân tích đánh giá vấn đề và đạt được hồ sơ về sự tiếp xúc và những trắc
nghiệm đối với thân chủ.
2. Tổng hợp, tóm tắt và sắp xếp thông tin để hiểu vấn đề.
3. Chẩn đoán, làm sáng tỏ vấn đề.
4. Tham vấn, trợ giúp cá nhân tìm cách giải quyết
- 12 -
5. Theo dõi, đảm bảo sự theo dõi đích thực ,sát xao với TC.
Do hậu quả của chủ nghĩa phát xít, trong những năm 30-40, nhiều nhà triết
học, tâm thần học, tâm lý học nhân văn đã chạy từ Châu Âu sang Mỹ và ngay lập
tức những tư tưởng của họ đã ảnh hưởng đến tâm lý trị liệu và giáo dục ở đây.
Carl Rogers (1902 – 1987), người ban đầu bước vào TLH với việc phụ trách
phân khoa nghiên cứu tâm lý trẻ em tại Đại học Rochester- Mỹ, là nhà tâm lý học
chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa nhân văn. Ông đã thay đổi công việc thực hành
tham vấn theo hướng thân chủ- trọng tâm (Clients – Centered), sử dụng phương
pháp tiếp cận gián tiếp khi làm việc với các cá nhân; “đặt trọng tâm nơi TC”, “tin
tưởng ở sức bật dậy nơi con người và cung cấp mọi điều kiện để giúp TC đối diện
với chính mình nhằm giải toả sự bế tắc của bản thân {36,27}. Phương pháp của Carl

Rogers được xem là một quá trình ngắn hơn, nhân văn hơn, trung thực hơn và hiệu
quả hơn đối với phần lớn TC . Đầu năm 1942, Rogers xuất bản tập sách “tham vấn
và tâm lý trị liệu” (Counseling and Psychotherapy) , ghi lại những nét chính trong
phương pháp của ông hình thành sau mười năm kinh nghiệm làm việc trong công
tác trị liệu cho cả trẻ em và người lớn. Cuốn sách này có ảnh hưởng lớn lao đến
ngành, nghề tham vấn, đánh dấu sự ra đời của tham vấn hiện đại.
- Từ 1950-2000: Sự ra đời và phát triển của tham vấn hiện đại Những năm
50 của thế kỷ XX Tham vấn hiện đại được ra đời gắn liền với tên tuổi của Carl
Rogers, nhà Tâm lý học Mỹ theo trường phải tâm lý học nhân văn. Cuốn sách thứ
hai của ông có tựa đề “Thân chủ - Trọng tâm trị liệu” (Client – Centered Therapy)
xuất bản năm 1951 để khẳng định “một cách tiếp cận trị liệu mới nhấn mạnh đến
các giá trị nhân văn và nhấn mạnh đến sự trắc nghiệm có ý thức của từng cá nhân”
{12, 83}.
Thập kỷ này cũng in dấu sự phát triển của các thuyết khác trong lĩnh vực
tham vấn như Jean Piaget (1896-1980), nhà Tâm lý học Thuỵ Sĩ với những nghiên
cứu về sự phát triển của trẻ1954 cho rằng “trẻ em đạt được những hành vi và kỹ
- 13 -
năng riêng biệt ở những giai đoạn phát triển riêng biệt và nhìn nhận các giai đoạn
phát triển nhận thức” {27,61}.
Khác với học thuyết về nhận thức của J. Piaget, Erick Erickson (1902-1994)
với quan niệm “cá nhân có tiềm năng giải quyết các vấn đề riêng của mình”
{30,81}. Erickson chia cuộc sống con người thành hệ thống “8 cơn khủng hoảng
tâm lý xã hội đặc trưng cho mỗi lứa tuổi của cuộc đời, mà hậu quả thuận lợi và
không thuận lợi, sẽ có tính quyết định đến sự phát triển nảy nở về sau của mỗi
người” {31,38}. Erickson tin rằng “sức mạnh – bản ngã đạt được nhờ giải quyết
thành công các đợt khủng hoảng về phát triển” {30,61}, cơn khủng hoảng 1 là lòng
tin cậy hoặc ngờ vực; cơn khủng hoảng 2 là tự trị hoặc hổ thẹn hoặc hoài nghi; cơn
khủng hoảng 3 là óc sáng kiến hoặc mặc cảm tội lỗi; cơn khủng hoảng 4 là việc làm
hoặc sự kém cỏi; cơn khủng hoảng 5 là bản sắc hoặc lẫn lột vai trò; cơn khủng
hoảng 6 là thân mật hoặc cách ly; cơn khủng hoảng 7 là sinh sản hay trì trệ và cơn

khủng hoảng 8 là toàn vẹn cá nhân hay thất vọng. {31,38}. Tham vấn chính thức trở
thành một ngành khoa học độc lập và một ngành nghề chuyên môn trên thế giới.
Tham vấn phát triển mạnh mẽ vào những năm 60 của thế kỷ XX. Bên cạnh 3
hướng tiếp cận chính là tiếp cận Phân tâm (Freud); tiếp cận trực tiếp (Williamson);
tiếp cận thân chủ trọng tâm (Rogers), thập kỷ 60 đánh dấu sự ra đời của vô số
những cách tiếp cận mới như tiếp cận xúc cảm thuần lý (nhận thức) của Albert Ellis
(1961). Tiếp cận hành vi Bandura (1969), Wope (1958) và Krumbeltz (1966); phép
trị liệu hiện thực của William Glasser (1961- 1965); Tiếp cận cấu trúc (Gestalt) của
Fritz Perls (1969). Tiếp cận ứng xử học của Bern (1964) và tiếp cận hiện sinh của
Arbuckle (1968); Frankl (1963), May (1956) và những người khác… Tất cả các
hướng tiếp cận tham vấn này đã giúp ích cho sự phát triển rực rỡ của tham vấn
trong suốt giai đoạn đó.
Những năm 70 ghi dấu ấn sự tiếp tục phát triển của tham vấn trong các lĩnh
vực tham vấn sức khoẻ tâm trí cộng đồng, tham vấn học đường, tham vấn cho
những người khuyết tật… Sự đào tạo những nhà tham vấn cũng có quy mô hơn, chú
- 14 -
trọng đến các kỹ thuật như thấu cảm, lắng nghe đặt câu hỏi, phản hồi… nhằm phát
triển một mối quan hệ có hiệu quả giữa nhà tham vấn và thân chủ. Tham vấn đã trở
thành một nghề khẳng định được vị trí vững chắc trong xã hội.
- Giai đoạn từ 1980-2000, ngành tham vấn tiếp tục được mở rộng và lớn
mạnh trong tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Một trong những thay
đổi lớn nhất của tham vấn trong giai đoạn này là tham vấn tập trung vào lĩnh vực
văn hoá hay còn gọi là tham vấn xuyên văn hoá( cross-culture counseling).
Giai đoạn này nhấn mạnh tầm quan trọng của những nguyên tắc đạo đức,
chuyên môn trong tham vấn được đúc kết từ những lĩnh vực khác nhau như cố vấn,
giáo dục… Năm 1995 Hiệp hội tham vấn Mỹ ACA (American couseling
Association) đã sửa đổi những tiêu chuẩn đạo đức và những tiêu chuẩn hành nghề
của tham vấn nhằm làm tăng hiệu quả mối quan hệ trợ giúp giữa người tham vấn và
thân chủ, mối quan hệ dựa trên sự thấu cảm, chấp nhận, quan tâm, của người tham
vấn đối với từng thân chủ có những đặc trưng về lứa tuổi, giới tính, kinh nghiệm,

trình độ văn hoá khác nhau{20},{40}.
Tóm lại nghiên cứu lịch sử của tham vấn là vô cùng quan trọng để tìm hiểu
từng bước phát triển và lớn mạnh của ngành này. Từ đó chúng tôi mạnh dạn đối
chiếu, so sánh với tham vấn ở Việt Nam và nghiên cứu các phương pháp tiếp cận
thân chủ của các nhà tham vấn qua từng giai đoạn lịch sử ,đánh giá một cách khách
quan ưu và nhược điểm của từng phương pháp để có thể áp dụng linh hoạt vào công
tác tham vấn của nước ta, xây dựng và phát triển tham vấn thực sự trở thành một
nghề chuyên môn, một ngành khoa học được công nhận.
2. Lịch sử tham vấn Việt Nam.
Tham vấn ở Việt Nam chưa có một lịch sử nghề nghiệp bền dày như tham
vấn trên thế giới, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở hình thức tự phát của việc ra đời các
dịch vụ tư vấn tình yêu, hôn nhân, gia đình, sức khoẻ sinh sản… trên khía cạnh thực
hành và một số bài báo, tác phẩm ít ỏi về lý thuyết.
- 15 -
Về lý thuyết tham vấn, chúng tôi chỉ tìm kiếm được một số lượng sách báo
khá khiêm tốn chủ yếu được dịch của các tác giả nước ngoài đang tồn tại ở phía
Bắc. Giới thiệu tổng quát về tham vấn, lịch sử, các kỹ năng tham vấn có tác phẩm
“Công tác tham vấn trẻ em, Giới thiệu thực hành” của Kathryn Geldard và David
Geldard (Nguyễn Xuân Nghĩa và Lê Lộc dịch, Nxb Đại học Mở – Bán công công
thành phố Hồ Chí Minh ); trình bày các kỹ năng tham vấn ứng dụng linh hoạt trong
kinh doanh là tác phẩm “Bạn có hấp dẫn không” của TS.Tâm lý học Jesse
S.Nirenberg (nhóm ánh Dương biên soạn, Nxb trẻ); cung cấp một quan điểm, một
cách tiếp cận hiệu quả trong tham vấn theo trường phái tâm lý học nhân văn với tác
phẩm “Tiến hình thành nhân” của nhà TLH lỗi lạc trên thế giới Carl Rogers
(Ts.Tâm lý học Tô Thị ánh và Vũ Trọng ứng dịch, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh);
tài liệu của UNICEF về tập huấn “ Công tác tham vấn trẻ em” cho các giảng viên;
tài liệu về các ca tham vấn thành công dùng để tham khảo cho những người thực
hành tham vấn cá nhân là tác phẩm “Hãy để lớp trẻ tự lựa chọn hay nghệ thuật yêu
thương” của Barry Neil Kaufman (Đoàn Doãn biên dịch, Nxb Thanh niên), “Để có
một cuộc hôn nhân hoàn hảo” của TS. Har Vielle Hendrix (Phan Linh Lan và Phan

Lưu Ly dịch, Nxb Phụ nữ), “Đoạn kết của cuộc sống lứa đôi” của Ts.Julian Hafner
(Nguyễn Thanh Vân, Nxb Phụ nữ).
Còn các tác giả Việt Nam, những người có công đầu trong việc thực hành và
phát triển nghề tham vấn phải kể đến bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (lĩnh vực tham vấn
trẻ em gia đình); Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc; GS. PTS Lê Diên Hồng, Bùi Đại, Bác sĩ
Phan Văn Trường, Ngô Thị Khánh, Nguyễn Văn Kính (lĩnh vực tham vấn
HIV/AIDS – Các tài liệu tập huấn).
Lý thuyết về tham vấn chưa được biên soạn thành hệ thống, giáo trình bài
bản như các ngành khoa học khác mà chỉ được đề cập rải rác ở các bài báo( ở phía
bắc). Đáng kể đến là bài “Về tâm lý học tư vấn” của TS. Nguyễn Thị Phương Hoa,
viên Dư luận xã hội, Ban TTVHTƯ đăng trên tạp trí Tâm lý học số 2/ 1999 giới
thiệu về tâm lý học tư vấn và triển vọng phát triển tâm lý học tư vấn ở nước ta; bài
“Quan niệm về tư vấn tâm lý” của PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, ĐHKHXH & NV
- 16 -
Hà Nội đăng trên tạp trí ĐH&GDCN số 6/2000 đưa ra khái niệm tham vấn tâm lý
với tư cách là một ngành khoa học, một nghề chuyên môn; bài " Tư vấn hay tham
vấn – Thuật ngữ và cách tiếp cận" của PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, ĐHKHXH &
NV Hà Nội đăng trên Kỷ yếu hội nghị Tâm lý học, tháng 2/2003 bàn về sự khác
nhau của tư vấn và tham vấn và các cách tiếp cận khác nhau khi giúp đỡ thân chủ;
bài “Tư vấn tâm lý - Một nhu cầu xã hội cần được đáp ứng” của TS. Vũ Kim Thanh
– Khoa Tâm lý – Giáo dục học, ĐHSP Hà Nội về nhu cầu Tư vấn tâm lý, Tạp chí
Tâm lý học số 2-2001. Ngoài ra còn có những bài báo giới thiệu phương pháp tham
vấn như “Các phản ứng tư vấn cơ bản” của Đỗ Ngọc Khanh CBNC, Viện Tâm lý
học, Tạp chí Tâm lý học số 8,9/2002, “Về kỹ năng tìm hiểu trong tham vấn tâm lý
trực tiếp” của Mai Thanh Thế, CBNC, Viện Tâm lý học, Tạp chí Tâm lý học số
1/2000; những bài báo hỗ trợ tham vấn chuyên môn như “Một số cảm xúc tiêu cực
ở người nhiễm HIV/AIDS và cách thức hỗ trợ” của TS. Trần Thị Minh Đức và cử
nhân Tâm lý học Trương Phúc Hưng, Tạp chí Tâm lý học số 6/2000; đánh giá thực
trạng tham vấn Việt Nam như “Bàn về hiệu quả của Tư vấn trên báo”, PGS.TS.
Trần Thị Minh Đức, Tạp chí Tâm lý học số 7, 2002; “Thực trạng tham vấn ở Việt

Nam: Từ lý thuyết đến thực tế”, PGS. TS Trần Thị Minh Đức, Tạp chí Tâm lý học
số 2/2003.
Về thực hành tham vấn, sự ra đời của các trung tâm, dịch vụ hỗ trợ giúp tâm
lý, xã hội tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh trong khoảng
10 năm lại đây đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển nghề tham vấn thực
hành. Đó là các trung tâm: Tư vấn tình cảm linh tâm (1088-Hà Nội); Trung tâm tư
vấn tâm lý (số 1 Tăng Bạt Hổ Hà Nội); Chương trình “Cửa sổ Tình yêu”. Chuyên
mục phát thanh thanh niên, đài tiếng nói Việt Nam; Trung tâm tư vấn tâm lý (số 9
Ngọc Khánh Hà Nội); Trung tâm tư vấn tâm lý giáo dục và Tình yêu – Hôn nhân –
gia đình (43 Nguyễn Thông – 93 – Thành phố Hồ Chí Minh); Tư vấn 1088 – Thành
phố Hồ Chí Minh và các chuyên mục tư vấn trên báo như Nỗi niềm biết tỏ cùng ai
(Báo thế giới phụ nữ); Nỗi niềm ai tỏ (Báo gia đình và xã hội); với các tên như
- 17 -
Hạnh Dung (Báo phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh); Tâm giao (Báo phụ nữ thủ đô),
Thanh Thảo( tạp chí kiến thức gia đình)…{2},{4},{6},{23}.
Điểm qua lịch sử phát triển vô cùng khiêm tốn của tham vấn Việt Nam,
chúng tôi thấy còn đó bề bộn những công việc phải làm cho những nhà chuyên
môn, các ban ngành có liên quan để đưa ngành tham vấn nước ta thực sự trở thành
một ngành khoa học, một nghề chuyên môn đóng góp tích cực cho sự phát triển của
con người và xã hội.
Trong phần lịch sử các phương pháp tiếp cận TC, vì tài liệu tham khảo rất
hạn chế nên chúng tôi chỉ có thể giới thiệu tóm lược những phương pháp tiếp cận
chính như phân tâm, nhân văn, hiện sinh, cấu trúc, nhận thức, hành vi. Cụ thể về
từng phương pháp này sẽ được trình bày trong mục III của phần nội dung.
II/ Các khái niệm liên quan của đề tài.
1. Khái niệm tham vấn.
1.1.Thế nào là tham vấn?
Thuật ngữ “Tham vấn” (Counseling) là thuật ngữ chuyên môn thuộc ngành
tâm lý học. Nó đồng nghĩa với cụm từ “Tư vấn tâm lý”, thích hợp để mô tả nghề
tham vấn. Theo tài liệu tập huấn về công tác tham vấn cho trẻ em của UNICEF:

“Tham vấn không giống như một cuộc nói chuyện Tham vấn là một mối quan hệ,
một quá trình trong đó NTV giúp TC cải thiện cuộc sống của họ bằng cách khai
thác, hiểu và nhìn nhận được nội dung, ý nghĩa, cảm giác và hành vi của họ. NTV
tạo động lực cho thân chủ tự giải quyết các vấn đề trong cuộc sống của họ. NTV
không giải quyết vấn đề cho thân chủ” {17,17}, cụ thể là “NTV giúp đỡ TC cải
thiện ‘trạng thái tâm lý’ của họ”. Việc này được xem như một quá trình giúp thân
chủ “nghĩ, cảm giác và hành động khác với trước, và để từ đó họ có thể đương đầu
với những khó khăn trong cuộc sống của họ một cách có hiệu quả hơn” {17,17}.
Một tài liệu tập huấn khác lại cho rằng tham vấn là “giúp cho thân chủ tự
giúp chính mình”, là “tiến trình đôi bên tương tác nhằm khơi lên sức mạnh tiềm
năng của thân chủ để họ tự quyết vấn đề của họ” {19}.
- 18 -
Sơ Trần Thị Giồng, một NTV của Việt Nam được đào tạo chính quy ở Mỹ
đã đưa ra khái niệm tham vấn gói gọn trong 4 chữ ‘T’. Khái niệm này sau đó được
mở rộng và phát triển lên bởi quá trình đào tạo, tập huấn của các giảng viên dạy
môn này:
Tham vấn là một tiến trình, có mở đầu, diễn biến và kết thúc. Nó diễn ra
trong suốt khoảng thời gian để TC cảm nhận được vấn đề của họ như nó chính như
vậy. Đó là một tiến trình hướng tới kiến thức và hướng đến đạo lý làm người (mở ra
các tiềm năng của con người) và đòi hỏi một sự lớn lên (trưởng thành) không chỉ ở
các thân chủ mà cả ở NTV.
Tham vấn là một sự tương tác (chia sẻ – trợ giúp). Đó là quá trình trò
chuyện, chia sẻ, làm việc tay đôi giữa NTV và TC một cách tích cực, có hợp tác,
nghĩa là TC phải nói sự thật vấn đề và bộc lộ bản chất của mình. NTV phải có sự
kết hợp về bằng cấp và bản năng tự nhiên. Sự tương tác này phải dựa trên quan
niệm tâm linh và các quan điểm nghề nghiệp, đòi hỏi sự tiến tới trung thực ở cả hai
phía và kết quả là phải giúp cho thân chủ hiểu rõ hơn về sự kiện, hoàn cảnh và chấp
nhận bản thân mình.
Tham vấn là một quá trình Tìm tiềm năng. NTV phải luôn coi TC là người
có đầy sức mạnh và có vai trò khơi gợi được mặt mạnh, những cái ẩn trong vô thức

của TC. Để làm được điều đó, NTV phải chấp nhận thân chủ, chấp nhận cảm xúc
mà họ đang có ngay bây giờ và tại đây; phải động viên khuyến khích thân chủ thậm
chí thỉnh thoảng phải hoạch định rõ tiềm năng của thân chủ để giúp học tin vào bản
thân bởi một khi thân chủ tự tìm đến người tham vấn để giúp đỡ chia sẻ thì chính
bản thân họ đã có tiềm năng, tự bản thân họ đã biết họ đang có vấn đề và mong
muốn được giúp đỡ giải quyết vấn đề của mình.
Tham vấn là tôn trọng quyền tự quyết của thân chủ. Có nghĩa là trong quá
trình tham vấn, Người tham vấn phải để cho thân chủ tự giải quyết vấn đề (tự chịu
trách nhiệm) với vấn đề của họ. NTV chỉ soi sáng, giúp đỡ về mặt thông tin chứ
không đưa ra lời khuyên, cách thức giải quyết vấn đề cho TC. Tham vấn là một quá
- 19 -
trình giúp đỡ mà NTV không làm hộ hoặc chỉ bảo. Tự quyết đòi hỏi TC phải biết
đến hành động hiện tại, những vấn đề hiện nay và ngay bây giờ của mình. Quá trình
tự quyết giúp TC mạnh lên, dám nghĩ, dám làm, dám đối đầu với thực tế của mình.
{7}
Tham vấn là “tạo ra những triển vọng và khả năng mới cho TC để họ thay
đổi cuộc sống của mình” trong đó NTV đóng vai trò chủ động thiết lập nên mối
quan hệ hợp tác giữa NTV và TC, trợ giúp TC” hiểu hoàn cảnh của mình một cách
rõ ràng hơn; nhận diện vấn đề để cải thiện tình huống; lựa chọn những cách thức
phù hợp với giá trị,tình cảm và nhu cầu của mình; tự quyết định và hành động theo
những quyết định đó; có khả năng đương đầu tốt hơn với vấn đề”{41,2}.
NTV lỗi lạc Carl Rogers đã đưa ra triết lý của tham vấn là “giúp thân chủ tự
giúp ( tự giải quyết) vấn đề của mình”.{36}
Qua việc phân tích những khái niệm khác nhau về tham vấn, chúng tôi đồng
ý với khái niệm tham vấn như sau: “Tham vấn hiểu theo nghĩa khoa học với tư cách
là một nghề là một quá trình tương tác giữa NTV ( người có chuyên môn, kỹ năng
tham vấn , có các phẩm chất đạo đức của nghề được pháp luật thừa nhận) với
khách hàng hay còn gọi là TC ( những người đang có khó khăn về tâm lý cần được
giúp đỡ). Thông qua sự trao đổi, chia sẻ thân mật, tâm tình (dựa trên nguyên tắc đạo
đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp), NTV giúp TC hiểu và chấp nhận được

thực tế của mình, tự tìm thấy những tiềm năng của bản thân để giải quyết vấn đề
của chính mình”{3},{4}.
Như vậy, vấn đề của TC không phải được bày vẽ, chỉ bảo theo ý của NTV,
mà trong quá trình tham vấn( thông qua những thông tin từ TC), NTV khơi gợi
những yếu tố nội sinh để họ tự chịu trách nhiệm về hành động của họ và đưa ra
được giải pháp thích hợp trong hoàn cảnh đó.
1.2. Phân biệt tham vấn với tư vấn (Consultant), cố vấn.
1.2.1. Tham vấn và tư vấn
- 20 -
Tư vấn là một quá trình giao tiếp giữa người với người khi có tình huống
xảy ra. Tại đó người này giúp người kia phân tích tình huống để tìm ra hướng xử lý
với nhiều lựa chọn khác nhau. Cuối cùng, chính người kia sẽ tự quyết định hành
động theo lựa chọn của chính mình {18,6}. Tư vấn có nội dung hẹp hơn tham vấn.
Tư vấn mang nặng khía cạnh hỏi đáp thông tin, trong khi đó tham vấn chứa đựng
nhiều “chất tâm lý”. Nó đòi hỏi TC phải tự giải quyết “ vấn đề tâm lý” của mình.
Nói khác đi tham vấn là một hình thái mở rộng giới hạn của tư vấn và ở mức độ cao
hơn tư vấn, theo sự phân biệt sau đây.
a.Hoạt động tư vấn thực hiện mục đích từ A đến B, tại đó nhà tư vấn giúp
cho thân chủ điều chỉnh từ một vài chi tiết trong cách hành xử của mình, chỉ để đạt
tới mục đích B (và dứt khoát phải đến B) theo đường thẳng:
Trong hoạt động tham vấn thì thoáng hơn, không đi thẳng tới đích, cũng
không chỉ đạt tới một mục đích (mà cũng có khi không cần đạt tới mục đích) theo
hình xoắn ốc:
Từ A có thể hướng tới không chỉ B, mà còn có thể C, D, E… tạo nên một sự
thay đổi tổng quát trong tâm tính hoặc toàn bộ cách xử sự của TC
- 21 -
A B
x
b. Bằng hình thức tham vấn (tư vấn mở rộng và nâng cao) năng lực tự giải
quyết vấn đề cho chính thân chủ, đồng thời tạo ra sự triển nở trong những mối quan

hệ hợp tác và đồng hành lâu dài giữa người tham vấn và thân chủ.
Nói một cách hình tượng, khi tư vấn, nhà tư vấn là người chỉ đường cho TC
còn khi tham vấn, NTV là bạn đồng hành với thân chủ.Tư vấn để phân tích và giới
thiệu cách xử lý, tựa như đưa ra một loạt phao cấp cứu để thân chủ chọn lấy phao
phù hợp của mình. Còn tham vấn là giúp thân chủ nâng cao năng lực tự giải quyết
vấn đề ở một tầm nhìn chiến lược (thay vì sửa về chiến thuật) để thân chủ tự tạo cho
mình một con thuyền (thay vì chiếc phao) trên đường cập bến {18,50}
1.2.2. Tham vấn và cố vấn: Cố vấn tiếng Anh đôi khi cũng đồng nghĩa với
Tư vấn, còn trong tiếng Việt nó được hiểu là “người thường xuyên được hỏi ý kiến
để tham khảo giải quyết công việc” {16,205}
Sự khác nhau giữa tham vấn và cố vấn được thể hiện rất rõ trong bảng so
sánh sau{17,18}:
Tham vấn Cố vấn
Là một cuộc nói chuyện mang tính cá nhân
giữa NTV với một hoặc vài người đang cần
sự hỗ trợ để đối mặt với khó khăn hoặc
thách thức trong cuộc sống. Tham vấn khác
nói chuyện ở chỗ trọng tâm của cuộc tham
vấn nhằm vào người nhận tham vấn.
Là một cuộc nói chuyện giữa một
“chuyên gia” về một lĩnh vực nhất
định với một hoặc nhiều người đang
cần lời khuyên hay chỉ dẫn về lĩnh
vực đó.
NTV hỗ trợ TC ra quyết định bằng cách
giúp họ xác định và làm sáng tỏ vấn đề,
xem xét tất cả các giải pháp khả thi và đưa
ra lựa chọn tối ưu nhất sau khi xem xét kỹ
lưỡng từng giải pháp.
Nhà cố vấn giúp TC ra quyết định

bằng cách đưa ra những lời khuyên về
“mặt chuyên môn” cho TC.
Mối quan hệ tham vấn quyết định kết quả
đạt được của quá trình tham vấn. NTV phải
xây dựng lòng tin với TC và có thái độ
chấp nhận đồng cảm và không truy cứu.
Mối quan hệ giữa người cố vấn và TC
không quyết định kết quả cố vấn bằng
kiến thức và sự hiểu biết của người cố
vấn về lĩnh vực mà TC đang cần cố
vấn.
Tham vấn là một quá trình gồm nhiều cuộc
nói chuyện hoặc gặp gỡ liên tiếp (bởi vì
Quá trình cố vấn có thể chỉ diễn ra
trong một lần gặp gỡ giữa TC và
- 22 -
phải mất nhiều thời gian để một vấn đề nảy
sinh và phát triển, tương tự để giúp thân
chủ giải quyết vấn đề này cũng mất rất
nhiều thời gian).
người cố vấn.
NTV thể hiện sự tin tưởng vào khả năng tự
giải quyết vấn đề của TC, vai trò của người
tham vấn chỉ là để “hướng đạo” cho thân
chủ tới những hướng lành mạnh nhất.
Người cố vấn nói với TC về những
quyết định họ cho là phù hợp nhất đối
với tình huống của TC.
NTV có kiến thức về cách cư xử và phát
triển của con người. Họ có các kỹ năng

nghe và giao tiếp, có khả năng khai thác
vấn đề và cảm xúc của thân chủ .
Người cố vấn có kiến thức về những
lĩnh vực nhất định và có khả năng
truyền đạt những kiến thức đó đến
người cần hỗ trợ hay hướng dẫn trong
lĩnh vực đó.
NTV giúp TC nhận ra và sử dụng những
khả năng và thế mạnh của riêng họ.
Tập trung vào thế mạnh của thân chủ
không phải là xu hướng chung của cố
vấn
NTV phải đồng cảm với những cảm giác và
cảm xúc của TC với thái độ chấp nhận
tuyệt đối
Người cố vấn có thể đưa ra những lời
khuyên đối với TC nên làm thế nào để
cho tốt nhưng không quan tâm đến
việc chuyển tải sự đồng cảm hay chấp
nhận tới TC.
TC làm chủ cuộc nói chuyện; NTV lắng
nghe, phản hồi, tổng kết và đặt câu hỏi.
Sau khi TC trình bày vấn đề của anh/
chị ta, người cố vấn làm chủ cuộc nói
chuyện và đưa ra những lời khuyên.
Tóm lại:
1.Ta có thể kết luận tham vấn là một quá trình giúp đỡ dựa trên các kỹ năng,
trong đó NTV dành thời gian, sự quan tâm và sử dụng các kỹ năng của họ một cách
rõ ràng và có mục đích để giúp đỡ TC khai thác tình huống, chỉ ra và triển khai
những giải pháp khả thi trong giới hạn cho phép.

2. Tham vấn là một khoa học thực tiễn nhằm giúp đỡ mọi người vượt qua
những khó khăn của họ và đạt tới một mức nhất định về chức năng độc lập trong xã
hội.
3.Tham vấn là một “nghề giúp người khác giúp đỡ chính họ”.
- 23 -
4. Thực hành tham vấn có thể bao gồm: tham vấn nhóm, cá nhân hoặc gia
đình; giúp mọi người tiếp cận các dịch vụ.
5. Thực hành tham vấn đòi hỏi kiến thức về sự phát triển của con người và
hành vi, sử dụng các kỹ năng nghe, giao tiếp, định hướng mang tính lý thuyết”
{17,19}
2. Khái niệm nhà tham vấn (NTV):
Trong nhiều năm qua, thuật ngữ “nhà tham vấn” (Counselor) được hiểu đơn
giản là “những chuyên gia thực hành tham vấn” (professional who practices
counseling ) {40,5}. Trong những năm gần đây, NTV được hiểu là “người giúp đỡ
cho các TC khi họ gặp những vấn đề khó khăn bằng cách khơi gợi những tiềm năng
trong thân chủ để thân chủ tự giải quyết vấn đề của mình”. NTV khi thực hành tham
vấn cho TC phải đảm bảo là những người có đủ những phẩm chất nghề nghiệp,
không gây tổn thương cho TC, không đẩy TC đi đến đối đầu, không đi ngược lại lợi
ích của TC, khích lệ, cổ động họ tự tìm tiềm năng của bản thân; giúp họ nói ra
những vướng mắc trong lòng, giúp họ nhận thức tốt hơn về bản thân, làm cho họ
mạnh lên, yêu mình hơn. NTV không được phép bày vẽ cách giải quyết vấn đề cho
NTV.
Theo Carl Rogers, NTV phải làm cho TC nhận thức được mình là người
“đáng tin cậy, chắc chắn, trung kiên”, NTV phải diễn tả “đủ thông suốt” lời nói,
hành vi để bộc lộ được mình là rất trong sáng, NTV phải thể hiện được cảm giác,
cảm quan của mình để TC nhận ra họ “tích cực”; NTV phải có nhân cách đủ mạnh
để “biệt lập” với TC và đủ an tâm để cho phép TC “biệt lập” với mình; NTV phải
có những hành động với đầy đủ tinh tế để cho TC cảm thấy như là không bị đe doạ;
NTV phải luôn luôn coi TC là người đang trong “Tiến trình trở thành” chứ không bị
trói buộc vào quá khứ của anh ta. {36,79-90}.

3. Khái niệm thân chủ và vấn đề của thân chủ
Để hiểu về khái niệm thân chủ và vấn đề của họ, chúng ta cần hiểu thế nào là
con người cân bằng.{31,49-50}
- 24 -
3.1. Con người cân bằng .
Con người cân bằng, theo nhiều tác giả khác nhau mô tả trên nhiều bình diện
khác nhau. Trên bình diện thể chất, con người cân bằng có một cơ thể khoẻ mạnh có
một thể trạng tốt, thích thú cố gắng về thể xác và chịu đựng được mệt nhọc. Không
thể có sự cân bằng tâm trí trong một thể xác ốm yếu. Tác giả La Tris Juvenal đã nói
“Một tâm hồn lành mạnh trong một cơ thể lành mạnh”. Sức khoẻ tâm lý và sức
khoẻ cơ thể là hai trụ cột của sự tinh thông của con người.
Trên bình diện tình dục và cảm xúc: con người cân bằng là con người có thể
thiết lập một cách hài lòng mối quan hệ thân tình với những người khác. Trong khi
quan tâm không thái quá đến thoả mãn những nhu cầu của mình con người biết chú
ý và nhạy cảm với những nhu cầu của đối tác cùng với mình.
Trên bình diện trí năng, con người cân bằng là con người thông minh để có
thể suy nghĩ và hành động một cách hữu hiệu. Họ biết những năng lực và năng
khiếu của mình và sử dụng nguồn lực đó một cách tốt nhất cho những hoạt động
sinh lợi. Họ tiến bộ thường xuyên trong những luyện tập bằng cách cố gắng đạt
được mục đích đã ấn định trong một thời gian hợp lý. Họ có óc tưởng tượng và
thích đi tìm những giải pháp khác ngoài những giải pháp truyền thống đã được đề
xuất.
Trên bình diện đạo đức, con người cân bằng luôn luôn thắm đượm sâu xa
một sự quan tâm đến tính chất khách quan. Họ có khuynh hướng tin vào sự lý giải
của mình hơn những đánh giá của người khác hay của truyền thống đại chúng. Họ
luôn quyết định có tuân theo những chuẩn mực xã hội hay không một cách tự
nguyện . Mặc dù họ có một ý chí vững mạnh nhưng không phải vì thế mà họ trở nên
bướng bỉnh. Họ luôn sẵn sàng thừa nhận những sai lầm của mình.
Trên bình diện xã hội, con người cân bằng luôn cảm thấy dễ chịu khi đối
mặt với những người khác và cảm giác được họ chấp nhận. Những phản ứng của họ

ít khi có sự tính toán và sự tự nhiện này giúp họ chuẩn định được dễ dàng những
phản ứng của mình đối với người đồng cấp như đối với người trên, kẻ dưới.
- 25 -

×