Tải bản đầy đủ (.ppt) (25 trang)

tâm lý trẻ em có hoàn cảnh khó khăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.63 KB, 25 trang )


Tâm lý trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn
ThS Nguyễn Ngọc Lâm
2008

MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU
Mục đích khóa học:

Hiểu và có thể nhận diện được vấn đề của trẻ thông qua các
biểu hiện tâm lý
Mục tiêu khóa học:

Khi kết thúc buổi học, học viên có thể :

Hiểu được tâm lý của trẻ trong hoàn cảnh khó khăn

Giúp học viên có thể nhận diện được các vấn đề của trẻ

Tìm ra phương cách hỗ trợ và đáp ứng nhu cầu của trẻ

NỘI DUNG
1. Khái niệm Hoàn cảnh khó
khăn
2. Các yếu tố gây khó khăn
3. Các dạng trẻ trong HCKK
4. Các ảnh hưởng của sự lạm
dụng
5. Các đặc điểm tâm lý của Trẻ
trong HCKK
6. Tâm trạng của trẻ trong


HCKK
7. Kết luận

1. Khái niệm Hoàn cảnh khó khăn

Phức tạp và do nhiều nguyên
nhân

Hoàn cảnh gây tổn thương trẻ
hoặc khiến trẻ có nguy cơ bị
tổn thương.

Khi có sự tương phản quá lớn
giũa thực trạng và những
mong đợi hợp lý của trẻ.

Các yếu tố tiêu cực : bị bỏ bê,
thiếu ăn, bệnh tật, thất học, bị
lạm dụng…bị hành hạ về mặt
thể xác và tinh thần.

Không đủ các yếu tố tích cực :
Yêu thương, cơ hội

1. Khái niệm Hoàn cảnh khó khăn
Khái niệm khó khăn :
Mức độ khó khăn nào mới gây
sự chú ý của quần chúng để
được bảo vệ, can thiệp.
Thường không có sẳn tài

nguyên hỗ trợ, chỉ khi nào một
số lớn trẻ rơi vào hoàn cảnh
khó khăn thì mới được huy
động.

2. Các yếu tố gây “khó khăn”

Thiếu ăn thiếu mặc

Thiếu chổ trú thân

Thiếu sự chăm sóc y tế

Thiếu tình thương và quan tâm hỗ trợ

Thiếu cơ hội học hành, vui chơi, giải trí

Người có trách nhiệm thiếu kiến thức về nhu
cầu của trẻ

Người có trách nhiệm thiếu phương tiện đáp
ứng nhu cầu của trẻ

Thiếu sự bảo vệ

Quá nhiều cám dỗ và thử thách

Quá nhiều trách nhiệm trước tuổi.

2. Các yếu tố gây “khó khăn”

Các nguyên nhân gây ra hoàn cảnh khó khăn.

Thiên tai, chiến tranh

Nguyên nhân không do đột biến, từng bước một, tạo sự
thử thách sức chịu đựng của trẻ, bề ngoài không nhìn
thấy sự tác động. Nếu mạng lưới hỗ trợ của công đồng
yếu kém thì không ai thấy và không ai chịu trách nhiệm.
Chỉ khi nào có trường hợp thương tâm, gây xúc động cho
dư luận xã hội thì xã hội mới quan tâm đến.

Nghèo đói

Cha mẹ có vấn đề : cơ chế giận cá chém thớt.

3. Các dạng trẻ trong hoàn cảnh khó khăn.

Trẻ mồ côi

Trẻ em đường phố

Trẻ khuyết tật

Trẻ nghiện ma túy

Trẻ mại dâm

Trẻ làm trái pháp luật

Trẻ lao động


Trẻ bị bỏ rơi, bị bạo hành

Trẻ bị nhiểm chất độc màu da
cam.

Trẻ tị nạn
Các dạng hoàn cảnh khó
khăn ít được đề cập đến :

Trẻ có trách nhiệm quá
nặng nề như nuôi cha mẹ

Trẻ bị lạm dụng trong
gia đình, âm thầm chịu
đựng

Trẻ bị bỏ rơi và đưa
vào các trường trại.

Trẻ không được đi học.

3. Các dạng trẻ trong hoàn cảnh khó khăn.
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là
trẻ em có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc tinh
thần, không đủ điều kiện để
thực hiện quyền cơ bản và hòa
nhập với gia đình, cộng đồng.
(Điều 3, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và

Giáo dục trẻ em 2004)

3. Các dạng trẻ trong hoàn cảnh khó khăn.
Ðiều 40. Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết
tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học;
trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng
nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em
phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em
bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma túy; trẻ em vi
phạm pháp luật.
(Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em 2004)

4. Ảnh hưởng của sự lạm dụng

Ảnh hưởng sự bỏ bê đối với trẻ em đã được tập trung chú ý
trong nhiều nghiên cứu. Nhiều trẻ em chịu nguy cơ bỏ bê xuất
thân từ môi trường kinh tế xã hội thấp và kém may mắn hoặc
các nhóm thiểu số bị thiệt thòi về văn hóa. Các em khác đến từ
những gia đình loạn chức năng ở đó có những vấn đề tâm lý,
lạm dụng ma túy và/hoặc rượu chè hoặc có những vấn đề về
tài chánh. Sự bỏ bê có thể dẫn tới những vấn đề về hành vi,
chuyên cần kém, điểm học tập thấp và nói chung là thành đạt
yếu. Trẻ em bị bỏ bê cho thấy mối nguy cơ cao có triệu chứng
sau này trong đời bị rối loạn nhân cách có tính chống xã hội.

4. Ảnh hưởng của sự lạm dụng

Các cha mẹ lạm dụng thân thể có đặc điểm chung là không

nhận trách nhiệm về hành vi của họ, đổ tội cho con, không
nhất quán nói một đàng làm một nẻo, dùng quyền lực đối với
con cái, không tin cậy các con, ích kỷ, và quá quan tâm tới nhu
cầu của chính họ.

Các trẻ em bị lạm dụng thân thể từ nhỏ và chịu đựng sự lạm
dụng đó kéo dài tới tuổi trẻ em thường phải ứng với sự lạm
dụng đó bằng một trong hai cách. Các em có thể bộc lộ cảm
nghĩ bằng hành động theo lối chống xã hội với mức độ gây
hấn cao, hoặc giữ lại các cảm nghĩ ở trong lòng với hậu quả
là phát triển tính trầm cảm và nảy sinh ý tưởng tự tử. Các em
giấu cảm nghĩ bên trong cũng có thể thu mình và cắt đứt các
giao tiếp xã hội chính thức của trẻ em và bị loại bỏ để rơi vào
các nhóm bạn cùng lứa tuổi tách rời khỏi xã hội (Schmidt,
1991).

4. Ảnh hưởng của sự lạm dụng

Các nghiên cứu ảnh hưởng lâu dài về lạm dụng tình dục trẻ em cho
thấy rằng, khi lớn lên, các nạn nhân của sự lạm dụng ấy có mức độ
cao về những vấn đề thuộc sức khỏe tâm thần, kể cả trầm cảm, rối
loạn lo lắng, lạm dụng ma túy, loạn chức năng tình dục và những
khó khăn trong giao tiếp với người khác.

Garnefski và Diekstra (1996) lưu ý rằng các em trai bị lạm dụng
tình dục bị xúc động rất nhiều và có những vấn đề về hành vi, bao
gồm hành vi tự tử nhiều hơn là các nạn nhân nữ. Nghiên cứu của
các vị ấy cho thấy hậu quả của sự lạm dụng tình dục đối với các bé
trai tệ hại và phức tạp hơn đối với các bé gái. Bé gái vị thành niên
bị lạm dụng tình dục thường có mặc cảm tự ti hoặc chán ghét nữ

tính và tình dục của mình. Rõ ràng là bị lạm dụng tình dục tuổi thiếu
nhi và xáo trộn về hình ảnh thân thể là có liên quan với nhau.

4. Ảnh hưởng của sự lạm dụng

Giống như nạn lạm dụng
tình dục mà nạn nhân có
thể trở thành người lạm
dụng, các em phải nhận
chịu, hoặc chứng kiến,
cảnh bạo lực trong gia
đình có vẻ chính mình
cũng trở thành hung bạo.

5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn
5.1. Niềm tin huỷ hoại
Các trẻ em thường có một số niềm tin đưa các em tới chỗ cư
xử hoặc suy nghĩ, theo những hướng có hại cho các em. TS
Albert Ellis, người sáng lập phép trị liệu lý trí tình cảm, hiện
nay được mọi người biết đến như là phép trị liệu hành vi lý trí
tình cảm (REBT=Rational Emotive Behavior Therapy- 1955)
phép trị liệu này kéo sự chú ý tới yêu cầu là các nhà tham vấn
thách thức điều mà ông mô tả thân chủ là “những niềm tin vô
lý” của thân chủ.
Lý thuyết này đôi khi được mô tả theo khung ABC :

A : là sự kiện tác động (Activating event)

B : là niềm tin (Belief) chi phối phản ứng đối với sự kiện


C : là hậu quả (Consequence) của phản ứng

5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn
Những niềm tin tự hủy hoại khớp với các loại sau đây :

Những niềm tin “phải, buộc phải”: phải làm những điều người khác muốn trẻ
phải làm chứ không phải để đạt các nhu cầu của bản thân.

Những niềm tin gây thảm họa: không đưa đến một khả năng lựa chọn nào cho tương
lai và không tránh khỏi khiến trẻ cảm thấy thất vọng chán nản ( Em không bao giờ học nữa)

Những niềm tin “luôn luôn” và “không bao giờ”: Sự phóng đại sự
thật và khiến trẻ cảm thấy khó chịu vì có những lúc có điều tích cực xảy ra đều bị làm ngơ
hoặc phủ nhận. “Mọi người luôn luôn chỉ trích em”

Những niềm tin không khoan dung người khác: niềm tin cho rằng
người khác vốn hư hèn, xấu xa hoặc ác ý, không làm điều đáng ra họ phải làm và không đạt
tới kỳ vọng của trẻ đưa đến những cảm nghĩ tiêu cực và làm hỏng các mối quan hệ.

Những niềm tin đổ lỗi: kiếm cớ khước từ nhu cầu tự sửa đổi, và muốn ai khác phải
thay đổi.

Những niềm tin nhận thức tiêu cực về bản thân: “Em khó ưa, em là
người xấu”, niềm tin bị loại

5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn
5.2. Sự ứng phó với trầm cảm


Trầm cảm được biểu lộ bằng trạng thái suy kém rõ ràng với sự
mất quan tâm hoặc vui thú trong các hoạt động bình thường

Sự trầm cảm cũng có thể là kết quả của những ý nghĩa tiêu
cực. Những ý nghĩa này có thể bao gồm cái nhìn tiêu cực về
bản thân, những diễn dịch tiêu cực về các kinh nghiệm riêng
và những quan điểm tiêu cực về tương lai.

Trẻ em ứng phó với chứng trầm cảm bằng rất nhiều cách. Một
số trẻ em có thể trốn chạy khỏi gia đình. Một số, đặc biệt là
các em trai, biểu lộ cảm nghĩ bằng những hành vi hướng
ngoại và có thể hành động quá khích. Các em gái thường biểu
lộ sự trầm cảm theo cách hướng nội, băn khoăn và/hoặc trở
nên lo lắng.

5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn

Trẻ em trải qua rối loạn
lo lắng có thể cho thấy
các triệu chứng nôn
nóng, bất an, phiền
muộn, mất ngủ, kém tập
trung, đi tiểu thường,
trạng thái kích động, trí
tuệ yếu, choáng váng,
căng cơ bắp hoặc dễ bị
mệt.


5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn
5.3. Mặc cảm có tội, tự trách
mình : Trẻ hổ thẹn vì
những gì đã xảy đến cho
mình như bị cưỡng dâm,
bị làm nhục hoặc các em
tự trách mình vì đã không
tự bảo vệ được.
5.4. Giận dữ và có ác cảm :
Một số trẻ tức giận người
lớn vì bị bạc đãi hoặc
không được chăm sóc
thích đáng hoặc có thể do
các em cứ đinh ninh sẽ bị
phê bình hoặc trừng phạt.

5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn
5.5. Hoài nghi, thiếu tin tưởng : Trẻ sống trong hoàn
cảnh khó khăn thường có đủ lý do để ngờ vực.
Những người lớn mà các em thường gặp thường có
vẻ xa cách với trẻ và không hiểu được những khó
khăn này.
5.6. Khó diễn tả cảm xúc bằng lời : Có thể do bị choáng
ngộp bởi chính tâm trạng của mình và muốn đè nén
những tâm trạng đó hoặc trẻ chưa bao giờ được
khuyến khích để tự nói về mình và không có đủ lời
để diễn tả tâm trạng.


5. Các đặc điểm tâm lý của trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn
5.7. Không nói thật : Vì trẻ ước
mơ một hoàn cảnh khác,
tránh né những đề tài đau
thương, sợ bị hậu quả xấu,
trẻ cố gắng muốn lấy lòng
người lớn ( cố gắng nói ra
những điều hay hoặc
những điều mà người lớn
muốn nghe), cố ý nói dối để
tránh câu chuyện, không
muốn tiếp xúc với người
khác hoặc để gây sự chú ý
của người nghe.

6. Tâm trạng của trẻ trong
hoàn cảnh khó khăn.
Trẻ trong hoàn cảnh khó khăn thường biểu lộ các tâm trạng như
sau :

Mất đi sự ham thích và sinh lực : Trẻ đau khổ, lo lắng hoặc sợ
sệt có thể ngồi yên một chổ suốt ngày, không ham thích một
hoạt động nào, mất hết cả sinh lực.

Ít tập trung và nhiều bức rứt : Trẻ buồn, lo lắng thường khó
tập trung tư tưởng. Đôi khi căng thẳng quá, trẻ trở nên hết sức
năng động, bức rứt : chạy nhảy khắp nơi, không thể ngồi yên
và có thái độ gàn dỡ, dễ bị kích động.


Hung hăng và phá phách : Trẻ dễ đâm ra hung hăng, phá
phách khi có cảm xúc mạnh. Vì không thể diễn tả tâm trạng
bằng lời nói, trẻ có thể đánh đập người khác khi chúng cảm
thấy căng thẳng, tức giận hoặc sợ hải. Trẻ bắt chước những
hành vi hung hăng vì trẻ đã từng là nạn nhân của những hành
vi bạo lực.

6. Tâm trạng của trẻ trong
hoàn cảnh khó khăn.

Không tin tưởng vào người lớn nếu trẻ đã từng bị
người lớn đối xử hung bạo. Tuy nhiên, những trẻ
mồ côi lại bám chặt lấy người lớn như sợ sẽ bị bỏ
rơi, có trẻ lại không muốn đem lòng thương mến ai.

Buồn bã và khó tính, rất dễ nổi cáu.

Trẻ không phải lúc nào cũng có thể nói về tâm
trạng của mình. Trẻ có thể vì quá bối rối hoặc sợ
hãi nên không xác định được tâm trạng của mình
hoặc không biết nói như thế nào để diễn tả tâm
trạng.

Kết luận
Hiểu được những đặc
điểm tâm lý của trẻ có
hoàn cảnh khó khăn và
các nguyên nhân đưa đến
hoàn cảnh đó sẽ giúp
chúng ta trong việc hỗ trợ

và đáp ứng các nhu cầu cơ
bản của trẻ, giúp trẻ thay
đổi tích cực để dễ dàng
hội nhập và phát triển một
cách bình thường trong
cuộc sống bình thường.

Cám ơn các
bạn đã cùng
tham gia phân
tích vấn đề

×