Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học việt nam ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 173 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

HỒ LÊ PHÁP

TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM
Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 8229020

Người hướng dẫn : PGS. TS. Nguyễn Thị Vân Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đề tài: Tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học Việt
Nam ở trường Trung học phổ thơng là một cơng trình nghiên cứu của cá nhân
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Thị Vân Anh.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực, hồn tồn
khơng sao chép hoặc sử dụng kết quả nghiên cứu của những đề tài tương tự.
Nếu phát hiện có sự sao chép kết quả nghiên cứu của đề tài khác, tơi xin hồn
tồn chịu trách nhiệm.
Bình Định, ngày 13, tháng 9, năm 2021.
Tác giả đề tài

Hồ Lê Pháp


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu................................................................ 3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 5
6. Đóng góp luận văn .................................................................................... 6
7. Bố cục luận văn ......................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 7
1.1. Tín hiệu, tín hiệu ngơn ngữ, tín hiệu thẩm mĩ ....................................... 7
1.1.1. Tín hiệu ........................................................................................... 7
1.1.2. Tín hiệu ngơn ngữ ........................................................................... 9
1.1.3. Tín hiệu thẩm mĩ ........................................................................... 13
1.2. Những vấn đề cơ bản của trường nghĩa ............................................... 20
1.2.1. Khái niệm trường nghĩa ................................................................ 20
1.2.2. Các loại trường nghĩa .................................................................... 22
1.2.3. Ngữ nghĩa của trường nghĩa.......................................................... 26
1.3. Một số vấn đề về ngữ cảnh của các tín hiệu thẩm mĩ .......................... 27
Tiểu kết chương 1........................................................................................ 28


CHƢƠNG 2. BIỂU HIỆN HÌNH THỨC CỦA TÍN HIỆU THẨM MĨ
TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG....................................................................... 29
2.1 Dẫn nhập ............................................................................................... 29
2.2. Biểu hiện hình thức các tín hiệu thẩm mĩ điển hình qua trường nghĩa 31
2.2.1. Biểu hiện hình thức của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc

trường nghĩa hiện tượng tự nhiên............................................................ 31
2.2.2. Biểu hiện hình thức của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc
trường nghĩa vật thể nhân tạo.................................................................. 38
2.2.3. Biểu hiện hình thức của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc
trường nghĩa thực vật .............................................................................. 46
2.2.4. Biểu hiện hình thức của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc
trường nghĩa động vật ............................................................................. 51
Tiểu kết chương 2........................................................................................ 54
CHƢƠNG 3. BIỂU HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC TÍN HIỆU THẨM
MỸ TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM Ở TRƢỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG....................................................................... 56
3.1. Ý nghĩa – cái được biểu đạt của tín hiệu thẩm mĩ ............................... 56
3.2. Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình trong tác phẩm văn học .. 58
3.2.1. Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc trường nghĩa
hiện tượng tự nhiên ................................................................................. 58
3.2.2. Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc trường nghĩa
vật thể nhân tạo ....................................................................................... 70
3.2.3. Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc trường
nghĩa thực vật ................................................................................ 78
3.2.4. Ý nghĩa của các tín hiệu thẩm mĩ điển hình thuộc trường
nghĩa động vật ................................................................................ 88


3.3. Ứng dụng nguyên lí tín hiệu học vào phân tích bài thơ Đàn ghi ta của
Lor-ca .......................................................................................................... 93
Tiểu kết chương 3...................................................................................... 100
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ (bản sao)



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BTKH

Biến thể kết hợp

BTQH

Biến thể quan hệ

BTTV

Biến thể từ vựng

CBĐ

Cái biểu đạt

CĐBĐ

Cái được biểu đạt

ĐV

Động vật

HTTN


Hiện tượng tự nhiên

TH

Tín hiệu

THNN

Tín hiệu ngơn ngữ

THPT

Trung học phổ thơng

THTM

Tín hiệu thẩm mĩ

TV

Thực vật


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng thống kê các THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự
nhiên .............................................................................................. 32
Bảng 2.2: Bảng thống kê tần suất của THTM trời, nước, đất trong các
BTTV ............................................................................................ 35
Bảng 2.3: Bảng thống kê tần suất của THTM trời, nước, đất trong các
BTKH ............................................................................................ 36

Bảng 2.4: Bảng thống kê các THTM thuộc trường nghĩa vật thể nhân tạo .... 39
Bảng 2.5: Bảng thống kê tần suất của THTM thuyền, đèn, áo trong các
BTTV ............................................................................................ 43
Bảng 2.6: Bảng thống kê tần suất của THTM thuyền, đèn, áo trong các
BTKH ............................................................................................ 44
Bảng 2.7: Bảng thống kê các THTM thuộc trường nghĩa thực vật ................ 46
Bảng 2.8: Bảng thống kê các THTM thuộc trường nghĩa động vật ............... 51


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Tỉ lệ xuất hiện của THTM thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên . 33
Biểu đồ 2.2. Tỉ lệ xuất hiện của THTM thuộc trường nghĩa vật thể nhân tạo ....... 41
Biểu đồ 2.3. Tỉ lệ xuất hiện của THTM thuộc trường nghĩa thực vật..................... 48


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
“Văn học là nghệ thuật ngôn từ”, tác phẩm văn chương là sản phẩm của
một loại hình nghệ thuật lấy ngơn ngữ làm chất liệu vừa để phản ánh hiện
thực khách quan của đời sống, vừa gửi gắm, giải bày tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn của chủ thể trữ tình. Cho nên, tiếp nhận tác phẩm văn học từ các yếu tố
ngơn ngữ có thể xem là chiếc chìa khóa để mở cánh cửa đi vào khám phá thế
giới nghệ thuật của tác phẩm, tìm hiểu tâm tư, tình cảm của nhà văn được
biểu hiện trong đó.
Trong thực tế, việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn học trong nhà
trường có rất nhiều quan điểm, hướng đi. Song, trong những năm gần đây,
nhiều vấn đề của văn học đang được soi rọi dưới cái nhìn của ngơn ngữ học
hiện đại, trong đó lí thuyết về tín hiệu tỏ ra rất có ưu thế.

Ngơn ngữ đi vào trong văn chương sẽ được chuyển hóa thành một tín
hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ (THTM), có chức năng tác động sâu sắc đến
nhận thức và tình cảm con người, khơi gợi, bồi dưỡng những cảm xúc thẩm
mĩ, hướng đến những giá trị nhân văn cao đẹp.
Đã có nhiều luận án, luận văn, báo cáo khoa học thể hiện sự quan tâm
sâu sắc trong việc nghiên cứu THTM nói chung và sự biểu hiện THTM trong
các tác phẩm văn chương nói riêng. Tuy nhiên, về hệ thống THTM trong các
tác phẩm văn học ở trường trung học phổ thơng (THPT), cho đến nay vẫn cịn
ít các cơng trình nghiên cứu.
Với những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài: Tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm văn học Việt Nam ở trường Trung học phổ thông để tiến hành nghiên
cứu. Với những kết quả đạt được, chúng tơi muốn góp thêm một cách tiếp
nhận văn học từ góc nhìn tín hiệu học trong q trình khám phá cái hay, cái


2

đẹp của tác phẩm nghệ thuật ngơn từ. Việc tìm ra bản chất, quá trình ra đời và
tồn tại cũng như sự biểu hiện của các THTM giúp cho việc khám phá, cảm
thụ tác phẩm văn học trong nhà trường trở nên thấu đáo và sâu sắc hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Thuật ngữ THTM ra đời gắn với khuynh hướng cấu trúc trong nghiên
cứu mĩ học và nghệ thuật những năm giữa thế kỉ XX, được đưa vào sử dụng ở
nước ta từ những năm 70 của thế kỉ trước bởi những cơng trình dịch của Iu.
A. Philipiep, M.B. Khrapchenkơ. Ở nước ta, tiếp cận tác phẩm văn học dưới
góc độ tín hiệu học đang thu hút nhiều nhà nghiên cứu, trong đó vấn đề
THTM tỏ ra rất có ưu thế. Cũng đã có khơng ít những cơng trình nghiên cứu
về vấn đề này, trong đó có thể kể đến các tác giả như: Đỗ Hữu Châu, Hoàng
Trinh, Hoàng Tuệ, Trần Đình Sử, Nguyễn Lai, Đái Xuân Ninh, …
Đáng chú ý nhất là bài viết Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ

học các sự kiện văn học của Đỗ Hữu Châu. Đây được xem là cơng trình đầu
tiên của nước ta cung cấp một cách nhìn tương đối tồn diện, đầy đủ và có hệ
thống về khái niệm, đặc trưng của THTM, về quan hệ giữa THTM với ngôn
ngữ và cách tiếp cận ngôn ngữ - THTM trong tác phẩm văn học.
Trong những năm gần đây, đã có nhiều luận án, luận văn triển khai theo
hướng nghiên cứu này cho thấy ý nghĩa thực tiễn của hướng nghiên cứu văn
học từ góc độ tín hiệu ngơn ngữ thẩm mĩ đang chiếm được nhiều sự quan tâm.
Việc vận dụng lí thuyết THTM vào việc phân tích, cảm thụ vẻ đẹp của các
hình tượng nghệ thuật trong các tác phẩm văn chương phát triển nhanh với
các cơng trình nghiên cứu của các tác giả như:
- Nguyễn Thị Vân Anh (Chủ biên), (2021), Tín hiệu thẩm mĩ trong tác
phẩm thơ ca ở trường trung học phổ thông, NXB Đà Nẵng.
- Trương Thị Nhàn (1995), Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ khơng gian trong ca dao, Luận án phó tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.


3

- Phạm Văn Lợi (2014), Trường nghĩa mặt trời và các tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ ca Việt Nam từ 1945 đến hết thế kỉ XX, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Bích (2008), Tìm hiểu tín hiệu thẩm mĩ “hoa” trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du trên ba bình diện: Kết học, nghĩa học, dụng học,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Đỗ Ngọc Thư (2008), Khảo sát tín hiệu thẩm mĩ “Mùa xuân” và “Trái
tim” trong thơ Xuân Diệu, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
Nghiên cứu về các THTM trong các tác phẩm văn học Việt Nam ở
trường THPT đã có bài báo của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh và Nguyễn Thị
Thùy Trang “Tín hiệu thẩm mĩ thuộc trường nghĩa hiện tượng tự nhiên trong
tác phẩm thơ ca ở trường Trung học phổ thông” Các tác giả đã nghiên cứu
trên một thể loại – thơ ca, khảo sát và phân loại dựa trên trường nghĩa hiện

tượng tự nhiên.
Với đề tài Tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn học Việt Nam ở trường
Trung học phổ thơng, chúng tơi sẽ phác họa một bức tranh tồn diện về hệ
thống THTM, cung cấp một sự đánh giá tổng quan những biểu hiện hình thức
và ý nghĩa của các THTM trong các tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở
trường THPT.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Chúng tơi nghiên cứu cách tiếp cận tác phẩm văn học Việt Nam ở trường
THPT dựa trên những cơ sở lí thuyết về THTM, tiến hành khảo sát, phân loại
hệ thống THTM theo các trường nghĩa, sau đó tìm hiểu biểu hiện hình thức và
biểu hiện ý nghĩa thẩm mĩ của chúng đặt trong tương quan với nội dung, chủ
đề, đề tài của tác phẩm. Từ đó, chúng tơi mong muốn đóng góp một hướng
tiếp cận mới trong việc phân tích, luận giải các hình tượng nghệ thuật văn học
nói riêng và cảm thụ tác phẩm văn học nói chung.


4

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn tập trung ở ba nhiệm vụ cụ thể như sau:
Trước hết, chúng tôi hệ thống hóa những vấn đề lí thuyết về tín hiệu, tín
hiệu ngơn ngữ (THNN), THTM, vấn đề trường nghĩa, ngữ cảnh.
Tiếp đến, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống THTM ở phương diện
biểu hiện hình thức trong các văn bản văn học Việt Nam dựa trên các tiêu chí
về trường nghĩa.
Dựa vào những biểu hiện hình thức của các THTM đã khảo sát và phân
tích ở bước hai, chúng tơi tìm hiểu những biểu hiện ý nghĩa của các THTM để
xem chúng vận hành và biến đổi như thế nào thông qua những tác phẩm văn
học văn học khác nhau. Từ đó, có cái nhìn và sự đánh giá khái quát về giá trị
thẩm mĩ của các hình tượng văn học được đưa vào giảng dạy ở bậc THPT.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là hệ thống THTM trong các tác phẩm
văn học Việt Nam ở trường THPT. Dựa trên cơ sở lí thuyết về THTM, chúng
tơi tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn lớp
10, 11, 12 hiện nay theo chương trình chuẩn (đã được dạy học từ năm học
2006 – 2007 đến nay).
Việc lí giải, phân tích các THTM trong các văn bản thuộc văn học nước
ngoài, văn học chữ Hán, văn học các dân tộc khác cần được cân nhắc đó là
ngơn từ của tác giả hay của người phiên dịch. Bởi vì, khi dịch sang tiếng Việt,
những văn bản này ít nhiều có sự gia cơng, xử lí theo chủ quan người dịch.
Cho nên, những văn bản ấy sẽ nằm ngoài phạm vi khảo sát của chúng tôi.
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khảo sát 68 văn bản văn học Việt
Nam trong chương trình hiện hành. Cụ thể là các văn bản sau:
- Chương trình Ngữ văn lớp 10: Truyện An Dương Vương và Mị Châu –
Trọng Thủy; Tấm Cám; Tam đại con gà; Nhưng nó phải bằng hai mày; Ca dao
than thân, yêu thương, tình nghĩa; Ca dao hài hước; Cảnh ngày hè; Nhàn; Truyện


5

Kiều (Trao dun; Nỗi thương mình; Chí khí anh hùng; Thề nguyền).
- Chương trình Ngữ văn lớp 11: Tự tình; Câu cá mùa thu; Thương vợ;
Khóc Dương Khuê; Vịnh khoa Thi Hương; Bài ca ngất ngưởng; Lẽ ghét thương;
Chạy giặc; Bài ca phong cảnh Hương Sơn; Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc; Chiếu
cầu hiền; Xin lập khoa luật; Hai đứa trẻ; Chữ người tử tù; Hạnh phúc của một
tang gia; Chí Phèo; Cha con nghĩa nặng; Vi hành; Tinh thần thể dục; Vĩnh biệt
Cửu Trùng đài; Hầu trời; Vội vàng; Tràng giang; Đây thôn Vĩ Dạ; Từ ấy; Nhớ
đồng; Tương tư; Chiều xuân; Về luân lí xã hội nước ta; Tiếng mẹ đẻ - nguồn
giải phóng các dân tộc bị áp bức; Một thời đại trong thi ca.
- Chương trình Ngữ văn lớp 12: Tun ngơn độc lập; Giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt; Nguyễn Đình Chiểu, ngơi sao sáng trong văn nghệ của

dân tộc; Mấy ý nghĩ về thơ; Tây Tiến; Việt Bắc; Đất Nước; Tiếng hát con tàu;
Đị Lèn; Sóng; Đàn ghi ta của Lor – ca; Bác ơi!; Người lái đị Sơng Đà; Ai
đã đặt tên cho dịng sơng?; Những ngày đầu của nước Việt Nam mới; Vợ
chồng A Phủ; Vợ nhặt; Rừng xà nu; Bắt sấu rừng U Minh Hạ; Những đứa
con trong gia đình; Chiếc thuyền ngoài xa; Mùa lá rụng trong vườn; Một
người Hà Nội; Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Nhìn về vốn văn hóa dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tơi sử dụng phương pháp phân tích và miêu tả
ngôn ngữ học là chủ yếu. Trên cơ sở những tư liệu thu thập và xử lí, trên nền
tảng số liệu khảo sát, chúng tôi miêu tả các hình thức ngơn ngữ, các bình diện
nghĩa; phân tích ngữ nghĩa, ngữ cảnh; phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
các mặt của từng đơn vị, giữa các bình diện, đặc biệt tìm sự đồng nhất và đối
lập giữa các nghĩa trong hệ thống của các THTM đang nghiên cứu.
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng thủ pháp thông kê, phân loại nhằm thống kê
tần số xuất hiện của các THTM thuộc các trường nghĩa khác nhau trong các
tác phẩm văn học Việt Nam được đưa vào giảng dạy; từ đó, sắp xếp chúng


6

vào nhóm tín hiệu có chung đặc điểm.
6. Đóng góp luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ thêm lý thuyết về THTM, lý thuyết trường nghĩa,
khẳng định sự tối ưu khi phân tích tác phẩm văn học dưới ánh sáng tín hiệu học.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tư liệu bổ ích trong
hoạt động dạy học môn Ngữ văn trong các trường THPT, làm tài liệu tham
khảo cho quý thầy cô và học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng
dạy học.
7. Bố cục luận văn
Luận văn chúng tôi chia thành 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và

phần kết luận. Phần nội dung của luận văn chúng tôi được chia thành 3
chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chúng tơi sẽ hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết như: lí thuyết về bộ ba
Tín hiệu - THNN - THTM, lí thuyết về trường nghĩa của từ và vấn đề ngữ
cảnh của THTM. Đây là cơ sở để chúng tơi tiến hành khảo sát, phân tích biểu
hiện hình thức và ý nghĩa của các THTM ở hai chương tiếp theo.
Chương 2: Biểu hiện hình thức của tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn
học Việt Nam ở trường trung học phổ thông.
Dựa vào cơ sở lý thuyết ở chương 1, chúng tơi khảo sát, thống kê biểu
hiện hình thức của các THTM theo các trường nghĩa, nghiên cứu chúng trong
các biến thể.
Chương 3: Biểu hiện ý nghĩa của tín hiệu thẩm mĩ trong tác phẩm văn
học Việt Nam ở trường trung học phổ thông.
Chúng tôi tập trung vào biểu hiện ý nghĩa của các THTM trong thực tiễn
hành chức của văn chương, khám phá những nét nghĩa phái sinh đặc sắc trong
từng ngữ cảnh của tác phẩm.


7

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tín hiệu, tín hiệu ngơn ngữ, tín hiệu thẩm mĩ
1.1.1. Tín hiệu
1.1.1.1. Khái niệm tín hiệu
Trong đời sống, để đạt hiệu quả giao tiếp, để trao đổi thông tin với nhau,
người ta thường sử dụng các tín hiệu (TH). Do đó, một chun ngành khoa
học ra đời mang tên Tín hiệu học để nghiên cứu chun sâu về TH. Vậy, TH
là gì?

Đã có nhiều quan niệm khác nhau về TH. Để thuận tiện trong quá trình
nghiên cứu, chúng tơi chọn định nghĩa của nhóm tác giả Mai Ngọc Chừ,
Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Tốn trong cuốn giáo trình
Nhập mơn ngơn ngữ học. TH được định nghĩa như sau:
“Tín hiệu là dấu hiệu quy ước để truyền đạt thơng tin. Đó là một sự vật,
một hiện tượng kích thích vào giác quan của ta, làm cho ta tri giác được, lí
giải và nghĩ tới một cái gì đó ngồi sự vật, hiện tượng ấy” [10, 34].
TH là một dạng vật chất tồn tại trong tự nhiên hoặc do con người sáng
tạo ra, mang tính quy ước nhất định và được tập thể xã hội thừa nhận. TH tự
nhiên là những sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan trong tự nhiên, độc lập
với ý muốn con người, ví dụ: mây đen, sấm chớp, trời ráng mỡ gà, đêm trời
nhiều sao, chuồn chuồn bay thấp, hoa phượng nở…TH nhân tạo là một dạng
hình thức vật chất do con người tạo ra hoặc mượn để truyền tải một nội dung
thông tin, biểu hiện một ý niệm nào đó, ví dụ: tiếng cịi tàu, trống trường,
chuông nhà thờ, biển báo giao thông, …
Như vậy, một TH nhân tạo sẽ thường bao gồm 2 thuộc tính như sau:


8

Phải là một dạng vật chất
Tín hiệu
nhân tạo
Phải gợi ra một ý niệm khác, khơng
phải là chính nó
Một tín hiệu thường có hai mặt: cái biểu đạt (signifiant) (CBĐ) và cái
được biểu đạt (signifie) (CĐBĐ) kết hợp với nhau theo quan hệ võ đốn. Sự
gắn bó giữa CBĐ và CĐBĐ giống như hai mặt của một tờ giấy, hễ có một là
có cả hai, khơng thể tách rời được. Có thể hình dung như sau:
CBĐ

TH =
++=+=

CĐBĐ

Đèn đỏ
hay
Dừng lại

Cấm hút thuốc

1.1.1.2. Phân loại tín hiệu
Các nhà nghiên cứu TH học đã phân các TH thành những phạm trù khác
nhau. K.Buhler chia các TH thành: symbole (TH chỉ ra sự vật, đối tượng);
symptome (TH bộc lộ trạng thái tâm sinh lý, tư tưởng, tình cảm của người
nói); signal (TH gây tác động tâm sinh lý cho người nghe).
Ch.S. Pierce phân chia TH thành ba loại chính: hình hiệu (icones), chỉ
hiệu (index) và ước hiệu (symbol) dựa theo tiêu chuẩn quan hệ giữa CBĐ và
CĐBĐ mà F. de Saussure đã đưa ra. Theo đó, đại đa số TH ngơn ngữ là thuộc
loại ước hiệu, loại TH mà mối quan hệ CBĐ và CĐBĐ là hồn tồn võ đốn,
khơng giải thích được.
Morris dựa vào mối quan hệ giữa TH với các loại sự vật mà chúng biểu
thị để chia TH thành hai loại: chỉ hiệu (singel indexes) và định hiệu (singnes
caracterisant). Tiếp theo, ông lại phân chia các định hiệu ra thành hình hiệu và
biểu trưng (symbole).


9

P. Guiraud từ năm 1950 đã đưa ra bảng phân loại TH. Ông phân chia TH

dựa trên mối quan hệ giữa thực tế với nhận thức của con người. Trong đó, tác
giả quan tâm tới những TH biểu hiện (TH không giao tiếp). Những TH biểu
hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng khơng phải là công
cụ giao tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả thực tế khách quan. Chúng là
sản phẩm của các loại hình nghệ thuật và thuộc đối tượng nghiên cứu của
Nghệ thuật học.
P. Guiraud tiếp tục phân chia TH thành TH tự nhiên và TH nhân tạo.
Trong TH nhân tạo, ơng lại phân tích thành TH giao tiếp và TH khơng giao
tiếp. Ơng cịn dựa theo đặc tính thể chất của TH mà phân chia các TH thành
TH thị giác, TH thính giác, TH xúc giác. Theo đặc tính chuyển mã hay chưa
chuyển mã, ơng chia các TH thành TH thứ cấp (còn gọi là ký hiệu) và TH sơ
cấp... P. Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn nhau của các loại TH.
Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đã đưa ra bảng phân loại TH theo quan điểm
riêng của mình. Theo ơng, TH là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các
phương diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau. Mỗi
lần vận dụng một tiêu chí phân loại là có một kết quả phân loại. Những tiêu
chí phân loại mà tác giả Đỗ Hữu Châu đưa ra là: 1) Dựa vào đặc tính thể chất
của cái biểu hiện, 2) Dựa vào nguồn gốc của TH, 3) Dựa vào mối quan hệ
giữa các biểu hiện và cái được biểu hiện, 4) Căn cứ vào chức năng xã hội của
TH [3, 715-718].
1.1.2. Tín hiệu ngơn ngữ
Ngơn ngữ có hai chức năng cơ bản nhất và quan trọng nhất, đó là chức
năng tư duy và chức năng giao tiếp. Để thực hiện hai chức năng này, ngôn
ngữ được tổ chức theo hai nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc tín hiệu và ngun
tắc hệ thống. Nói cách khác ngơn ngữ là một hệ thống tín hiệu.
Dựa trên lí thuyết TH học, mỗi TH ln có hai mặt là CBĐ (hình thức)


10


và CĐBĐ (nội dung), F. de Saussure xác định THNN như sau: “THNN kết
liền thành một không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với
một hình ảnh âm thanh. Hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có
cái này sẽ có cái kia. Trong đó khái niệm được gọi là cái được biểu đạt và
hình ảnh âm thanh được gọi là cái biểu đạt” [27, 121]. Bản chất của THNN
luôn có tính hai mặt, quan hệ khăng khít, gắn bó, khơng thể tách rời.

CBĐ

TH

NHÀ

=
CĐBĐ

Từ đó, F. de Saussure đã chỉ ra hai đặc tính của THNN, đó là tính võ
đốn và tính hình tuyến. Tính võ đốn là quan hệ khơng có lí do, khơng giải
thích được giữa CBĐ và CĐBĐ của THNN. Ví dụ, khái niệm “sự vật do con
người tạo ra, có mái, tường, nền, cửa ra vào và dùng để ở, sinh hoạt”; trong
tiếng Việt gọi là “nhà”, tiếng Anh là “house”, còn tiếng Trung Quốc được
biểu thị bằng chữ “家” (âm jia),…Khái niệm ấy được biểu diễn bằng hình
thức âm thanh và chữ viết như thế nào hoàn toàn do sự quy ước lâu đời của
dân tộc ấy, quốc gia ấy, khơng thể giải thích xác đáng.
THNN có tính hình tuyến. Khơng như những TH khác có thể xuất hiện
đồng thời trong cùng khơng gian, thời gian; THNN lần lượt xuất hiện, lần
lượt được lĩnh hội theo trật tự tuyết tính. Người ta khơng thể cùng một lúc
nói được nhiều tiếng mà phải phát âm lần lược từng tiếng theo dòng ngữ
lưu, hết cái này rồi tới cái khác; điều này hoàn toàn tương tự khi viết. Tính
hình tuyến tạo nhiều ưu thế trong sáng tạo văn chương. Nhờ đó, nhà văn

thỏa sức đi sâu vào tâm lí nhân vật mà khơng lo bị giới hạn về thời gian.
Tuy nhiên, vì tính hình tuyến mà ngơn ngữ bị hạn chế khi muốn diễn tả


11

những sự kiện hay trạng thái tình cảm, cảm xúc diễn ra đồng thời ở cùng
thời điểm và không gian khác nhau.
THNN không riêng lẻ, rời rạc mà nằm trong hệ thống nhất định. F. de
Saussure cho rằng: “Thường người ta khơng nói bằng tín hiệu riêng lẻ, mà
bằng từng nhóm tín hiệu, từng khối có tổ chức, vốn cũng là tín hiệu.” [27,
221]. Chẳng hạn trong văn chương, một số TH đi theo từng cặp như: mận –
đào, thuyền – bến, hoa – bướm,…
Thuyền đi để bến đợi chờ
Tình đi, nghĩa ở bao giờ quên nhau
Chẳng nên tình trước nghĩa sau
Bến này dãi bóng, trăng thâu đợi thuyền.
(Ca dao)
Trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Đỗ Hữu Châu coi ngơn ngữ là hệ
thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật chất.
Ơng lưu ý về đặc tính đa chức năng của các THNN so với các TH khác nói
chung và TH mang chức năng giao tiếp nói riêng. Nếu các TH khác trong hệ
thống chỉ mang chức năng TH học thì THNN không thuần túy là chức năng
giao tiếp, đồng thời cịn là cơng cụ tư duy, để tổ chức xã hội, để thỏa mãn
những nhu cầu thẩm mĩ,…Vì vậy, THNN vừa là phương tiện giao tiếp, công
cụ để nhận thức, biểu hiện, …
Từ các phương diện, chức năng khác nhau của ngơn ngữ có thể xác định
ý nghĩa TH của chúng trên tất cả những đơn vị mang ý nghĩa (tức đơn vị có
hai mặt): từ, cụm từ, câu, đoạn, văn bản. Mỗi một THNN vừa mang những
thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ những đặc điểm về

địa phương, lối sống, sinh hoạt, trạng thái tâm lí của con người. Chẳng hạn,
khi đọc những câu ca dao sau:
Cây đa, bến nước, con đò


12

Biết rằng bạn cũ cịn chờ ta khơng
Ví dù hết đợi hết trơng
Cây đa cịn đó, tấm lịng cịn đây
Cây đa, bến nước, con đị đã trở thành những hình ảnh thân thuộc của
mỗi làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Ngồi ý nghĩa sự vật, hình ảnh cây đa – bến
nước còn mang ý nghĩa biểu tượng. Ý nghĩa biểu tượng đầu tiên của cây đa là
sự trường tồn, sức sống dẻo dai. Cùng với sự trường tồn ấy, cây đa – bến
nước thường là không gian sinh hoạt văn hóa văn nghệ của người dân làng, là
nơi chuyện trị, tâm tình của những đơi trai gái u nhau, …
Mỗi THNN đều bao hàm một hình thức ngữ âm và một nội dung ngữ
nghĩa tương ứng. Giá trị của THNN do những mối quan hệ thuộc hệ thống
ngôn ngữ quy định. Tuy nhiên, ngôn ngữ là một hệ thống TH phức tạp bao
gồm nhiều yếu tố đồng loại và không đồng loại, số lượng khơng xác định. Do
đó, nó sẽ tạo ra những hệ thống lớn và nhiều hệ thống con khác nhau. Mỗi hệ
thống con sẽ bao gồm các yếu tố tương đối đồng loại. Chẳng hạn:

Cấu tạo

Từ phức
Biểu vật

Từ
Ngôn ngữ


Từ đơn

Ngữ âm

Nghĩa

Biểu niệm

Từ vựng

...

Biểu thái

Ngữ pháp
Ngữ cố định

Thành ngữ
Quán ngữ

Hệ thống THNN tồn tại nhiều kiểu quan hệ tương đối phức tạp. F. de
Saussure đã nêu ra hai loại quan hệ chung nhất, đó là: 1) Quan hệ đồng nhất –
đối lập và quan hệ khác biệt; 2) Quan hệ hình tuyến và quan hệ trực tuyến.
Trong ngơn ngữ học hiện đại, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến các loại


13

quan hệ như: quan hệ tôn ti, quan hệ hiện thực hóa,…Chính các ngun tắc

đồng nhất và đối lập, kết hợp và liên tưởng, điển dạng và hiện dạng trong hệ
thống ngơn ngữ sẽ là những cơ sở lí thuyết để chúng ta lí giải về các THNN
trong giao tiếp đời sống và cả giao tiếp văn chương.
Đặc tính hai mặt của THNN đã được Đỗ Hữu Châu đặt trong chức năng
xã hội của ngôn ngữ, biểu hiện trong hoạt động của toàn bộ hệ thống, qua
những mối quan hệ ngang (tuyến tính, ngữ đoạn, cú đoạn, khả năng kết hợp
các đơn vị ngôn ngữ để tạo thành một đơn vị cao hơn) và mối quan hệ giữa
các cấp độ của hệ thống ngơn ngữ.
1.1.3. Tín hiệu thẩm mĩ
1.1.3.1. Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ
Thẩm mĩ (chữ Hán: 審美) nghĩa là “cái đẹp”. Mỗi loại hình nghệ thuật
tuy được tạo ra bằng những chất liệu và phương thức khác nhau nhưng nhìn
chung đều có chức năng thẩm mĩ, biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng
tình cảm, cảm xúc về cái đẹp.
Ngôn ngữ đi vào trong văn chương sẽ được chuyển hóa thành một TH
nghệ thuật, THTM, có chức năng tác động sâu sắc đến nhận thức và tình cảm
con người, khơi gợi, bồi dưỡng những cảm xúc thẩm mĩ, hướng đến những
giá trị nhân văn cao đẹp. Vậy THTM là gì?
Theo tác giả Bùi Minh Tốn: “Tín hiệu thẩm mĩ là loại tín hiệu có chức
năng thẩm mĩ: biểu hiện cái đẹp, truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp.
Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt và cái được biểu đạt, nhưng cái được
biểu đạt là ý nghĩa thẩm mĩ.” [30, 139].
Để thuận tiện trong q trình nghiên cứu, chúng tơi chọn khái niệm
THTM của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh làm cơ sở lí thuyết. Tác giả định
nghĩa như sau: “Tín hiệu thẩm mĩ là tín hiệu thuộc hệ thống các phương tiện
được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật nhằm biểu hiện nội


14


dung thẩm mĩ. Tính thẩm mĩ của các tín hiệu thẩm mĩ biểu hiện ở sự thống
nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức, giá trị nghệ thuật và giá trị tư
tưởng nằm ở cả nội dung và hình thức của tín hiệu.” [1, 20].
Cũng như mọi TH trong đời sống, THTM cũng có hai mặt là CBĐ và
CĐBĐ. Nhưng ở đây CĐBĐ của THTM chính là ý nghĩa thẩm mĩ. Nghĩa là
TH hai mặt của ngôn ngữ tự nhiên chỉ là CBĐ của THTM.
Mối quan hệ giữa THNN và THTM có thể hình dung như sau:
THTM
CBĐ

CĐBĐ

(Tổng thể hai mặt của tín hiệu ngơn ngữ)

(Ý nghĩa thẩm mĩ)

CBĐ (hình thức ngôn ngữ) CĐBĐ (ý nghĩa ngôn ngữ)
Từ sơ đồ này, có thể thấy tổng thể CBĐ và CĐBĐ trong của một THNN
tự nhiên đã trở thành CBĐ của THTM mà CĐBĐ tương ứng chính là những ý
nghĩa thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương. Chính vì thế, trong văn học không
được đồng nhất phương tiện văn học THTM và THNN thông thường được sử
dụng làm chất liệu của tác phẩm văn học. Sự khác biệt có tính vượt cấp này là
do vai trò trò quyết định của chủ thể sáng tạo. Bởi thế, nói theo Ch.Bally, giữa
cách dùng ngơn ngữ hàng ngày và ngơn ngữ của nhà văn có một vực thẳm
không vượt qua được.
Điều đáng chú ý ở đây là nếu mối quan hệ giữa CBĐ và CĐBĐ trong
ngơn ngữ tự nhiên là võ đốn thì mối quan hệ hai mặt này của THTM là có
thể giải thích được và thường là ý nghĩa lâm thời đặt trong ngữ cảnh cụ thể.
THNN tự nhiên muốn trở thành THTM trong tác phẩm nghệ thuật thì phải trải
qua một quá trình khái qt hóa nghệ thuật mang tính biểu trưng để đạt đến ý

nghĩa thẩm mĩ. Chẳng hạn, cùng là THTM hoa, nhưng qua cách sử dụng của
mỗi tác giả, ý nghĩa thẩm mĩ của chúng lại không như nhau: hoa có khi là
người con gái đẹp:


15

Hoa này bướm nỡ thờ ơ
Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng
(Cung oán ngâm khúc– Nguyễn Gia Thiều)
Hoa trong trường hợp dưới đây lại là những đấng trượng phu, quân tử:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi
(Tự thuật - Nguyễn Trãi)
1.1.3.2. Đặc tính của tín hiệu thẩm mĩ
- Đặc tính về nguồn gốc: THTM trong các tác phẩm văn chương, trước
hết có nguồn gốc từ thế giới tự nhiên và xã hội, bắt nguồn từ hiện thực cuộc
sống xung quanh con người. Những sự vật, hiện tượng trong thế giới tự nhiên
thì mn màu, muôn vẻ. Khi sáng tác, tác giả sẽ dùng nhiều giác quan để
quan sát, cảm nghiệm, phát hiện ra những ý nghĩa thẩm mĩ tiềm tàng trong đó.
Bắt nguồn từ một thực tế trong tự nhiên là những con sóng trên biển, lúc
cao, lúc thấp, lúc cuộn xốy, lúc lặng yên; Xuân Quỳnh đã tìm thấy sự tương
đồng giữa sóng và em trong tình u:
Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ơi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được
Lịng em nhớ đến anh
Cả trong mơ cịn thức…
(Sóng – Xn Quỳnh)

THTM cịn có thể được tạo nên bởi những chi tiết, sự kiện, điển tích,
điển cố hay những sản phẩm tinh thần thuộc đời sống văn hóa của từng dân
tộc hay toàn nhân loại. Trong các tác phẩm văn học thành văn (văn học viết),
ta bắt gặp vô vàn những THTM có nguồn gốc từ kho tàng văn học dân gian,


16

văn học cổ trong và ngồi nước,…; ví dụ, những hình ảnh như: con đị, bến
nước, sân đình vốn là những thi liệu quen thuộc trong thơ ca dân gian mang
đậm hồn quê Việt đã đi vào sáng tác của một nhà thơ hiện đại:
Bảo rằng cách trở đị giang
Khơng sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xơi mấy mà tình xa xơi…
(Tương tư – Nguyễn Bính)
THTM cịn có nguồn gốc từ những tưởng tượng logic hoặc phi logic của
người nghệ sĩ. Những cảm hứng bất chợt, những rung động tinh tế, những
giây phút thăng hoa nghệ thuật của nhà văn nghệ sĩ đã tạo ra những THTM kì
lạ, phi thường mà lí trí logic thì khó lịng lí giải được.
- Đặc tính cấp độ: Căn cứ vào sự tương ứng của THTM với các sự vật,
hiện tượng trong thế giới hiện thực, tác giả Đỗ Hữu Châu đề xuất phân biệt
THTM ở hai cấp độ cơ bản:
+ Cấp độ cơ sở: THTM ứng với một chi tiết, một yếu tố, một sự vật hiện
tượng thuộc thế giới khách quan: một con đò, một dịng sơng đó là những TH
đơn (TH cơ sở) có chức năng tham gia cấu tạo nên THTM ở bậc cao hơn
trong tác phẩm.
+ Cấp độ xây dựng: THTM ứng với nhiều sự vật, hiện tượng, được xây
dựng dựa trên những THTM đơn, nhưng ý nghĩa thẩm mĩ của nó không phải
là phép cộng đơn giản tất cả những THTM đơn. Chẳng hạn trong hai câu ca

dao sau:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
TH thuyền chỉ người đi đồng hiện với TH bến chỉ kẻ ở tạo thành cặp
THTM đôi thuyền – bến không những gợi sự chia li của người đi kẻ ở mà còn


17

biểu tượng cho tình u đơi lứa gắn bó, thủy chung. Đó là THTM phức
(THTM xây dựng).
THTM được xét đến trong cơng trình này là những THTM đơn. Mỗi TH
ứng với một yếu tố hiện thực (yếu tố của các hiện tượng tự nhiên như: trời,
nước, gió, mây,…; yếu tố của các vật thể nhân tạo như: khăn, áo, đèn,
thuyền,…) và được cụ thể, đa dạng hóa bằng những hình thức ngơn ngữ khác
nhau. Nghiên cứu các hình thức biểu đạt này sẽ là cách thức để phát hiện ra
các ý nghĩa thẩm mĩ của những THTM.
- Đặc tính tác động: Đặc tính này của THTM được hiểu trên 2 khía cạnh.
Khía cạnh thứ nhất lấy cơ sở từ bản chất của tín hiệu như ý kiến của P.
Guiraud: “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra
hình ảnh kí ức của một kích thích khác” [3, 706]. Hiệu quả của sự tác động
này trước hết ở sự hình thành nên những hình tượng nghệ thuật, cùng với đó
là sự mở rộng đến vô cùng những ý nghĩa thẩm mĩ tiềm tàng trong những
hình tượng nghệ thuật ấy. Nói cách khác, sự tác động này biến những hình
tượng “tự nó khơng được mở rộng” lại trở nên có ý nghĩa vơ cùng to lớn, sâu
xa, hơn hẳn giá trị thực tế của chúng. Chẳng hạn, bài thơ Cánh buồm nâu của
Nguyễn Bính:
Hơm nay dưới bến xi đị
Thương nhau qua cửa tị vị nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu ?

Cánh buồm nâu , cánh buồm nâu , cánh buồm...
Đoạn thơ trên đây chính là một “kích thích vật chất” có khả năng khơi
gợi cả một trường liên tưởng, không chỉ về cánh buồm nâu và người anh
thương đang xa dần mà còn là khung cảnh một biển lớn dạt dào sóng gió,
những bãi bờ xa vắng, cùng bao kỉ niệm yêu thương một đi khơng trở lại, bao
nỗi tiếc nhớ, xót xa của chủ thể trữ tình em,…


×