Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Điều kiện lao động trong doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.69 KB, 8 trang )

Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
Phần nội dung
Chương I:Cơ sở lý luận
1.1Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ(DNNVV)
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn,
lao động hay doanh thu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể chia thành ba loại cũng
căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và
doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu
nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số
lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300
lao động. Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở nước mình. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009
của Chính phủ, qui định số lượng lao động trung bình hàng năm từ 10 người trở
xuống được coi là doanh nghiệp siêu nhỏ, từ 10 đến dưới 200 người lao động được
coi là Doanh nghiệp nhỏ và từ 200 đến 300 người lao động thì được coi là Doanh
nghiệp vừa. [1].
1.2 Ý nghĩa của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường
chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp (Ở Việt Nam chỉ
xét các doanh nghiệp có đăng ký thì tỷ lệ này là trên 96%). Vì thế, đóng góp của họ
vào tổng sản lượng và tạo việc làm là rất đáng kể.
Giữ vai trò ổn định nền kinh tế: ở phần lớn các nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ
và vừa là những nhà thầu phụ cho các doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng
thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, doanh
nghiệp nhỏ và vừa được ví là thanh giảm sốc cho nền kinh tế.
Làm cho nền kinh tế năng động: vì doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, nên
dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động.
Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng: doanh nghiệp nhỏ và
vừa thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp
thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Sv : Lê Hữu Công Page 1


Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
Là trụ cột của kinh tế địa phương: nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở
những trung tâm kinh tế của đất nước, thì doanh nghiệp nhỏ và vừa lại có mặt ở
khắp các địa phương và là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách, vào sản
lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương.
1.3 Tình hình điều kiện lao động tại doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ
TP - Theo điều tra mới nhất của Cục An toàn lao động (Bộ LĐ-TB&XH) về cải
thiện điều kiện lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ 20% doanh nghiệp
có điều kiện lao động đạt yêu cầu; 80% doanh nghiệp có điều kiện lao động chưa
đạt yêu cầu.
Trong đó, có 8% doanh nghiệp có điều kiện ở tình trạng rất xấu. Hiện, có khoảng
90% doanh nghiệp nhỏ của tư nhân sử dụng máy, thiết bị cũ, lạc hậu từ 10-20 năm
trước.
Nhiều người lao động trong các doanh nghiệp trên phải làm việc trong môi trường
nặng nhọc - nguy hiểm - độc hại (30,7% trong điều kiện nóng bức; 24,3% trong độ
ồn cao và 16,5% trong bụi vượt quá tiêu chuẩn cho phép).
Bà Đoàn Minh Hòa - Cục trưởng An toàn lao động cho rằng, hầu hết các doanh
nghiệp nhỏ được hình thành và phát triển từ các hộ sản xuất với mức vốn thấp
(dưới 10 tỷ đồng) nên việc trang bị máy, thiết bị kỹ thuật công nghệ tiên tiến rất
hạn chế.
Chương II:Điều kiện lao động tại doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ
80% doanh nghiệp vừa và nhỏ không đảm bảo về điều kiện lao động
Trong khi đó, việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao
động chưa được nghiêm. Hàng năm, mới chỉ có khoảng từ 5-8% số doanh nghiệp
được thanh, kiểm tra.
2.1khai quat ve doanh nghiep….
2.1 thực trạng Điều kiện lao động tại doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ
Điều kiện và môi trường lao động còn nhiều hạn chế Về điều kiện và môi trường
lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta còn nhiều hạn chế, năm 2009 tại Hội
thảo quốc gia về “Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người lao động trong quá trình hội

nhập” do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Viện nghiên cứu KHKT Bảo hộ
Sv : Lê Hữu Công Page 2
Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
lao động tổ chức đã có nhiều báo cáo tham luận và ý kiến của các chuyên gia và
nhà khoa học về vấn đề này.
Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức về tăng trưởng kinh tế và bảo
vệ môi trường. Nền sản xuất công nghiệp còn mang nặng dấu ấn của một nền công
nghiệp lạc hậu về công nghệ và thiết bị. Đa số là các cơ sở sản xuất (CSSX) vừa và
nhỏ nằm rải rác trong các đô thị và khu dân cư, cơ cấu ngành công nghiệp không
hoàn chỉnh. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay nước ta có khoảng 200.000
doanh nghiệp với gần 10 triệu người lao động hoạt động trong mọi lĩnh vực sản
xuất. Trước sự gia tăng nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp, ngành nghề sản
xuất mà phần nhiều có công nghệ chắp vá, nhà xưởng chật chội cộng với việc phân
bố các cơ sở sản xuất thiếu qui hoạch đã đặt ra nhiều vấn đề phức tạp, ẩn chứa
nhiều nguy cơ gây tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
Kết quả điều tra, khảo sát trong 7 năm vừa qua của Viện NCKHKTBHLĐ đối với
2.000 cơ sở sản xuất vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề trên toàn quốc
với nhiều ngành sản xuất, nhiều loại hình doanh nghiệp (quốc doanh, ngoài quốc
doanh, liên doanh ) cho thấy, trừ một số ít các CSSX có môi trường lao động ở
mức hợp vệ sinh (có giá trị các yếu tố gây ô nhiễm nhỏ hơn hoặc bằng tiêu chuẩn
cho phép) đa số đều bị ô nhiễm từ mức độ ô nhiễm nhẹ đến ô nhiễm rất nhiều. Kết
quả đo đạc các yếu tố trong môi trường lao động từ năm 2005-2008 với tần suất là
100 CSSX/năm, yếu tố độc hại vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép chủ yếu là bụi,
tiếng ồn, ánh sáng, hơi khí độc, nhiệt ẩm, rung động và các bức xạ có hại.
Công nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là công nghệ lạc hậu, chỉ có rất ít CSSX có thiết
bị làm giảm bụi còn hầu như chưa có thiết bị xử lý khí thải độc hại. Các CSSX
thường phân tán, nhiều cơ sở lại nằm trong khu vực nội thành đông dân cư nên vấn
đề ô nhiễm môi trường là đáng lo ngại.
2.2 nguyên nhân Điều kiện lao động tại doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ
Trong đó nhấn mạnh đến các yếu tố nguy hiểm và có hại phát sinh trong sản xuất

chủ yếu là các yếu tố vật lý có hại như: nhiệt độ, độ ẩm, các bức xạ, bụi, rung
động, tiếng ồn, thiếu ánh sáng; các yếu tố hóa học có hại như: các chất độc, các
loại hơi, khí, bụi độc, các chất phóng xạ; các yếu tố sinh học có hại như: các loại vi
khuẩn, siêu vi khuẩn, nấm mốc, các loại ký sinh trùng, rắn; các yếu tố bất lợi về tư
thế lao động, không tiện nghi, không đảm bảo vệ sinh công nghiệp, các yếu tố
không thuận về tâm lý
Còn các cơ sở khác vẫn trong tình trạng nhỏ lẻ, công nghệ cũ, lạc hậu, chưa có
điều kiện để đổi mới hoặc thay thế công nghệ tiên tiến… hầu hết tập trung ở các
doanh nghiệp nhỏ, tư nhân, trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã, nhà máy, xí nghiệp
phân bố rải rác ở nhiều nơi, thậm chí xen kẽ trong khu dân cư và chưa có quy
Sv : Lê Hữu Công Page 3
Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
hoạch tập trung. Các doanh nghiệp này mới chỉ quan tâm đến lợi nhuận doanh
nghiệp, chưa quan tâm đến môi trường lao động.
Chương III:Giải pháp khắc phục
3.1. Một số giải pháp phát triển DNN&V Nghệ An trong giai đoạn tới.
Về phía UBND, các sở, ban ngành tỉnh Nghệ An.
Giải pháp thứ nhất: Rà soát, đánh giá để kịp thời có những kiến nghị sửa đổi, bổ
sung cơ chế, chính sách
Nói chung các cơ chế, chính sách khi thực thi phải phù hợp với khả năng của các
DNN&V và của địa phương, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội tỉnh và tạo ra
hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Hiện nay, các cơ chế
chính sách đưa vào cuộc sống đều góp phần hỗ trợ, tạo điều kiện cho các DNN&V
phát triển. Nhưng khi thực hiện những chính sách này thì vẫn còn nhiều bất cập:
Hoặc do các chính sách chồng chéo lên nhau, hoặc do năng lực của cán bộ thi
hành, hoặc do ý thức chấp hành của các doanh nghiệp chưa cao…Vì vậy, việc kịp
thời rà soát, sửa đổi bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn là việc làm
quan trọng. Nếu chính sách thay đổi quá chậm so với yêu cầu thì sẽ là lực cản cho
các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.
Giải pháp thứ hai: Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng

Đây là việc làm nhằm tạo điều kiện thuận lợi, qua đó sẽ làm giảm được những chi
phí cơ hội cho cả các doanh nghiệp cũng như các cơ quan chức năng. Để thực hiện
được tốt công việc này, trước hết cần phải chú ý đến khâu bồi dưỡng và đào tạo
cán bộ. Trình độ chuyên môn yếu và ý thức kém của cán bộ thực thi công vụ là sự
tồn tại khá phổ biến hiện nay. Đây là nguyên nhân trực tiếp tác động đến hiệu quả
quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng. Để khắc phục tồn tại này, ngoài việc
nâng cao trình độ cán bộ, cần có chế tài hợp lý đối với cán bộ khi thực hiện công
vụ mà mắc phải các sai phạm.
Giải pháp thứ ba: Nâng cao chất lượng của các cơ sở đào tạo
Đây là cơ sở để nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn lao động, tạo điều
kiện cho người lao động tìm kiếm việc làm ngay tại địa bàn khi các doanh nghiệp
có nhu cầu; điều này cũng giúp thu hút đầu tư khi nguồn nhân lực của địa phương
có chất lượng, nguồn cung của địa phương ổn định. Để có thể thực hiện tốt giải
pháp này, tỉnh nên khuyến khích sự liên kết, hợp tác giữa doanh nghiệp với các cơ
sở đào tạo. Có như vậy các cơ sở đào tạo mới có nắm bắt được nhu cầu thực tế về
lao động, đồng thời mới nâng cao được chất lượng của nguồn cung lao do đào tạo
đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tỉnh cũng cần phải có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các giáo viên học tập, nâng cao trình độ,
khuyến khích những công trình nghiên cứu mang tính ứng dụng cao.
Sv : Lê Hữu Công Page 4
Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
Bên cạnh việc chăm lo nâng cao chất lượng nguồn lao động, hiện nay chúng Nghệ
An đang có chương trình đào tạo, hỗ trợ kỹ năng kinh doanh cho các doanh nhân.
Có thể nói, đây là một chương trình thiết thực, đáp ứng được nhu cầu của các
doanh nhân trong việc nâng cao kiến thức quản lý doanh nghiệp, trau dồi kỹ năng
kinh doanh, nâng cao kiến thức trong việc lập và thực thi các dự án kinh doanh.
Phổ biến được các thông tin về các chính sách của Nhà nước, các chính sách của
địa phương; các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO. Hiện nay
chương trình này đã được khởi động. Vì vậy chưa thể có kết luận về hiệu quả của
nó đối với các doanh nhân Nghệ An cũng như đối với các doanh nghiệp. Dù vậy,

nếu chương trình này đi vào hoạt động và có hiệu quả thì đây sẽ là cú hích tạo
thêm lực để giúp các doanh nghiệp phát triển. Điều quan trọng là, nội dung chương
trình giảng dạy cần thường xuyên cập nhật các thông tin về các loại thị trường (kể
cả thị trường đầu vào cũng như thông tin về thị trường các loại sản phẩm, thị
trường trong nước và thị trường thế giới…); phổ biến rộng rãi các kinh nghiệm
quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm trong kinh doanh; thông tin về cơ chế chính
sách của Nhà nước, địa phương…Những nội dung như thế sẽ là cẩm nang trong
quản lý, kinh doanh của các doanh nhân, giúp họ vững vàng hơn trong thương
trường.
Giải pháp thứ 4: Hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hoàn thành công tác giải phóng mặt
bằng ở các khu công nghiệp
Có một thực tế đang tồn tại là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng chậm, hạ
tầng các khu công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu. Thực trạng này đã có tác
động không nhỏ đến quyết định của các nhà đầu tư. Hiện nay, tỉnh đã có 4 khu
công nghiệp đi vào hoạt động là Nam Cấm, Bắc Vinh, Hoàng Mai, Cửa Lò với
tổng diện tích sử dụng lên tới 811,33 ha. Các khu công nghiệp này được quy hoạch
xây dựng tại các địa điểm rất thuận lợi về giao thông, nguồn cấp điện nước và gần
các vùng nguyên liệu…nhằm làm tăng ưu thế và sự hấp dẫn cho các khu công
nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vướng mắc ở đây. Đó là tình trạng chậm giải
phóng mặt bằng; công tác đền bù chưa thoả đáng cho người dân; cơ sở hạ tầng
chưa hoàn thiện (điện chiếu sáng, giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống xử lý rác
thải, nước dùng cho sản xuất kinh doanh…). Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà
nước về lĩnh vực khu công nghiệp chưa tốt (chậm hoàn thành các thủ tục hành
chính, quảng bá thông tin thiếu và yếu, xúc tiến đầu tư chưa đồng bộ, quản lý,
kiểm tra và hỗ trợ các dự án lúng túng và thiếu hiệu quả…). Vì thế, chúng ta chưa
huy động được các nguồn vốn tương xứng để đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng
các khu công nghiệp.
Giải pháp thứ 5: Củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các trung tâm xúc tiến
hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
Hiện nay Nghệ An đã có các trung tâm gồm: Ban trợ giúp phát triển DNN&V của

tỉnh, trung tâm xúc tiến đầu tư, trung tâm xúc tiến thương mại, các trung tâm
Sv : Lê Hữu Công Page 5
Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm…Mục tiêu của các trung tâm này là hỗ trợ
doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất trên cơ sở các kế hoạch phát triển, và nhu
cầu thực tế của các doanh nghiệp. Vì thế, cần đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ
kinh doanh: Hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ kiến thức về ngành nghề, hỗ trợ kiến thức về
phân tích thị trường, hỗ trợ về công nghệ và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ bồi
dưỡng năng lực cho doanh nhân, doanh nghiệp…
Thực hiện Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg, Quyết định 94/2002/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, UBND tỉnh cần tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ, bộ máy,
cán bộ các trung tâm để sắp xếp, bổ sung, điều chỉnh hợp lý về tổ chức, về chức
năng nhiệm vụ. Qua đó sớm xây dựng cơ chế phối hợp trong việc trợ giúp phát
triển doanh nghiệp và nên tập trung một đầu mối theo tinh thần Quyết định
94/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
3.2. Về phía các DNN&V.
Hoạt động trong nền kinh tế thị trường đầy biến động, tính cạnh tranh cao, tính
chất cạnh tranh gay gắt, nên những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả sẽ bị
đào thải, những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tính thích nghi cao sẽ tồn tại
và phát triển. Vì thế, để có thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải dần
hoàn thiện mình để thích nghi với thực tế.
Một là: Phát huy vai trò của chủ doanh nghiệp. Các DNN&V của Việt Nam, nhất
là các DNN&V Nghệ An nói riêng (nhất là các DNN&V thuộc khu vực kinh tế tư
nhân) có một đặc điểm là: Người chủ sở hữu vốn cũng đồng thời là người trực tiếp
quản lý, điều hành doanh nghiệp. Vì thế, người chủ doanh nghiệp cần biết dùng
đúng người, đúng việc, biết kết hợp các nguồn lực đầu vào một cách hợp lý. Khi
chất lượng các nguồn lực đầu vào không như nhau cả về tính chất và trình độ, nếu
không được sử dụng hiệu quả thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ không đạt mục
đích, thậm chí có thể đến bờ vực của sự phá sản. Vì thế, trong vai trò đứng đầu
quản lý, người chủ doanh nghiệp phải coi yếu tố con người trong doanh nghiệp là

quan trọng nhất. Bên cạnh việc chú trọng phát huy yếu tố con người, các yếu tố
khác như công nghệ, nguyên liệu…cũng phải được quan tâm. Do vậy, người chủ
doanh nghiệp phải chủ động trong tìm hiểu thông tin về đầu vào: Công nghệ, vốn,
đất, thị trường nguyên liệu, thị trường lao động…để chủ động bố trí kế hoạch hoạt
động sản xuất kinh doanh hợp lý, cải tiến, thay đổi công nghệ cho phù hợp…Là
một chủ doanh nghiệp, hơn ai hết, phải nắm rõ thực lực hiện có của doanh nghiệp
và phải có được những phương án, lộ trình tăng trưởng nhất định. Để nắm được
những cơ hội mà thương trường mang đến, chủ doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ
thị trường để có thể dự báo được những thời cơ, thách thức mà môi trường kinh
doanh mang lại.
Hai là: Các doanh nghiệp, nhất là các DNN&V phải biết tạo mối liên kết với nhau,
hỗ trợ nhau trong quá trình hoạt động. Các DNN&V có thể tham gia làm gia công,
lắp ráp cho các doanh nghiệp sản xuất lớn, hoặc tham gia chế tạo chi tiết của một
Sv : Lê Hữu Công Page 6
Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
sản phẩm (làm chức năng CN phụ trợ)…Bài học về sự hợp tác giữa các DNN&V
với các doanh nghiệp lớn của Nhật Bản ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, ngay cả
những tập đoàn lớn như Sony, Toyota cũng đã từng là những doanh nghiệp có quy
mô nhỏ…Hiện nay có một xu hướng là các doanh nghiệp thường liên kết với nhau
để phát triển mạng phân phối và đẩy mạnh tiếp thị.
Ba là: Các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới mình. Kinh nghiệm của các
tập đoàn lớn như BBC, Microsoft, Dell, …chỉ ra rằng, trong môi trường kinh
doanh biến động với tốc độ nhanh như ngày nay, thì việc các doanh nghiệp, các
công ty phải thường xuyên làm mới mình là điều đương nhiên. Để có thể tồn tại và
phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cải tiến và đổi mới là điều
đương nhiên, nhưng phải cải tiến và đổi mới như thế nào ? Lời khuyên mà các
“ông lớn” này đưa ra là: Cải tiến và đổi mới theo 4 quan điểm: Tăng cường lợi ích
của sản phẩm; tăng cường lợi ích của khách hàng; phát triển hệ thống phân phối;
tăng cường đẩy mạnh tiếp thị và nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức doanh
nghiệp.

Thực tế cho thấy, khách hàng đánh giá lợi ích của mình thông qua những gì mà sản
phẩm của doang nghiệp mang lại. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải quan tâm cải tiến
tiện ích của sản phẩm. Doanh nghiệp cần rà soát và tìm ra khách hàng và thị trường
tiềm năng. Các DNN&V Nghệ An nói riêng đang có một thị trường được đánh giá
là có dung lượng rất lớn, trên 3 triệu dân với sức mua đang lên. Đổi mới và cải tiến
quy trình hoạt động và tổ chức của doanh nghiệp để có những bước đột phá trong
quy trình hoạt động nhằm đưa ra sản phẩm mới, đưa sản phẩm đến với người tiêu
dùng nhanh nhất, hiệu quả nhất. Với các giải pháp này, doanh nghiệp sẽ có cơ hội
tiếp cận với các nguồn lực đầu vào của sản xuất một cách dễ dàng hơn, hiệu quả
hơn. Qua đó doanh nghiệp sẽ ngày càng nâng cao hơn hiệu quả hoạt động, góp
phần cùng toàn tỉnh giải quyết những vấn đề về kinh tế-xã hội, sớm đưa Nghệ An
sớm trở thành một trong tỉnh “Khá” như lúc sinh thời Bác Hồ đã căn dặn ./.
Sv : Lê Hữu Công Page 7
Điều kiện lao động trong doanh nghiêp vừa và nhỏ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
điều tra của Cục An toàn lao động 2011(Bộ LĐ-TB&XH)
Theo PGS.TS. Lê Vân Trình, Viện trưởng Viện Nghiên cứu KHKT Bảo hộ lao
động (NCKHKTBHLĐ) bên cạnh những thành tựu về kinh tế - xã hội,
Theo êu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới
Sv : Lê Hữu Công Page 8

×