Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Trách nhiệm xã hội của doanh nhân và doanh nghiệp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.15 KB, 48 trang )

VÀI SUY NGHĨ VỀ TRÁCH NHIỆM
XÃ HỘI CỦA DOANH NHÂN VÀ
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng của văn
hóa nho giáo, nơi mà quan niệm về buôn bán không
phải là một giá trị được khuyến khích thể hiện trong
việc đề cao người quân tử, một mẫu hình con người
sống thanh đạm, văn hay chữ tốt cốt cách phong lưu
và đặc biệt xa rời những nhu cầu vật chất tầm
thường. Nhưng trong lịch sử dân tộc vẫn có những
doanh nhân xứng tầm với địa vị là một nhân vật văn
hóa, không chỉ thành công trong việc buôn bán giao
thương mà vượt lên lợi ích kinh tế là quá trình giao
lưu văn hóa thể hiện trách nhiệm xã hội cao cả đối với
dân tộc.
Trong thời kỳ Phong kiến, cái giai đoạn được
nhiều người nhận định là sự thịnh hành nhất của
chính sách “bế quan tỏa cảng” thì vai trò của những
nhà buôn đất Việt không chỉ đem đến sự giàu có sung
túc cho gia đình mà còn là một nhân tố kích thích nền
thương mại, mở đầu cho quá trình giao lưu văn hóa
sâu rộng hơn với thế giới phương Tây.
Lịch sử thì luôn tuân theo quy luật khách quan
của nó. Khi mà các giá trị văn hóa phương Tây đang
có một sức hút mạnh mẽ vươn cái vòi Bạch tuộc của
mình đến những vùng đất xã xôi Viễn Đông. Thì sự
ảnh hưởng của nó không chỉ là kiểm soát quyền lực
nhà nước mà âm mưu về một sự đồng hòa văn hóa
đã được thực hiện và thành công ngoài sự mong đợi.
Quả thực không thể ngờ được rằng Nho giáo, cái hệ
giá trị, nền tảng học thuyết chính trị - xã hội dẫn


đường cho nhà nước Phong kiến vốn có tính kép kín
cao lại dễ dàng nhường bước trước một sức mạnh
bên ngoài sớm như vậy. Quá trình nhường ngôi
vương chỉ diễn ra trong vẻn vẹn nửa thế kỷ trên mạnh
đất vốn đứng ở giữa ba dòng chảy văn hóa như Việt
Nam. Để rồi nó khúc xạ và ẩn tàng trong những giá trị
chuẩn mực quy chiếu vào suy nghĩ đến hành vi của
các nhóm xã hội. Kết thúc một giai đoạn lịch sử, dân
tộc ta bước sang một thời đại mới, nền dân chủ cộng
hòa được thiết lập, khẳng định sự thắng thế của
những giá trị đến từ phương Tây. Đây cũng là điều
kiện quạn trọng nhất để cho sự ra đời một nền tảng
kinh tế mới như Max Weber đã khẳng định cách đây
gần một thế kỷ. Tuy nhiên, chính quyền buổi sơ khai
quả thật đối mặt với đầy khó khăn. Trong tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc” đó lại ghi dấu vai trò của tầng
lớp những nhà tư sản dân tộc, đại diện cho giới
doanh nhân lúc bấy giờ thể hiện trách nhiệm đối với
xã hội với dân tộc bằng việc xóa đi tình trạng ngân
khố trống rỗng bằng những khoản hiến tặng tài sản
khổng lồ hưởng ứng “tuần lễ vàng” do Bác Hồ phát
động. Những việc làm đó của họ không chỉ đơn giản
là để hưởng ứng một cuộc vận động, một lời kêu gọi
mà còn thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc từ nhận thức
đến hành động. Như vậy, khi mà chúng ta chưa biết
đến những diễn ngôn học thuật về khái niệm “trách
nhiệm xã hội doanh nghiệp” thì ở xứ ta những tư
tưởng cũng như việc làm đã được người ta thực hiện
và xác tín về nó.
Lịch sử bao giờ cũng luôn có những điều đáng

tiếc. Đáng tiếc đối với chúng ta đã để lỡ đi một cơ hội
phát triển bằng chính nguồn lực sẵn có của mình với
giai đoạn ý chí chính trị bao trùm lên mọi mặt đời
sống bằng cơ chế bao cấp. Cái cơ chế mà nó không
bao giờ đứng cùng phe với yếu tố sáng tạo và sự đột
phá, một trong những đặc trưng của doanh nhân.
Chính vì vậy, chúng ta đã không phát huy được vai trò
to lớn của những người tạo ra và khuyến khích sự
trao đổi vật chất trong xã hội.
Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ chịu dừng lại,
một lần nữa minh triết dân tộc lại được tỏa sáng bằng
công cuộc đổi mới vào cuối thập niên 80. Thực sự
đây là một làn gió mới thổi vào xã hội, cởi trói cho
những ý chí làm giàu vốn xưa nay còn nung nấu.
Song hành cùng thành phần kinh tế nhà nước, các
thành phần kinh tế khác đại diện cho nhiều hình thức
sở hữu khác nhau có hội tỏa sáng thể hiện sức mạnh
và vẻ đẹp của mình. Khía cạnh kinh tế không bao giờ
là một sự xa cách, lại càng không thể là sự đối chọi
với giá trị nhân văn mà ngược lại nó bổ trợ cho nhau
rất đồng điệu. Kinh tế đảm bảo nền tảng vật chất cho
nhân văn, đồng thời nhân văn làm cho kinh tế trở nên
thân thiện và bền vững hơn. Điều đó đã nói rõ sự cần
thiết song hành tồn tại hai nhiệm vụ quan trọng của
doanh nghiệp là chức năng lợi ích và trách nhiệm đối
với xã hội.
Hậu kỳ đổi mới nền kinh tế nước ta như một thiếu
nữ thanh xuân tràn đầy nhựa sống, năng động và sẵn
sàng vươn lên. Đây cũng là lúc các triết lý quản trị
doanh nghiệp cũng cần đổi mới để phù hợp với điều

kiện hiện tại. Bên cạnh các thành công về lợi nhuận
các doanh nghiệp cũng chú trọng đến trách nhiệm đối
với người lao động, thể hiện trong các chính sách bảo
đảm việc làm, các phúc lợi xã hội…. Đặc biệt một
phong trào có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đã được phát
động khởi đầu từ các doanh nghiệp quốc doanh có
sức lan tỏa rộng rãi trong xã hội. Đó là phong trào
phụng dưỡng, giúp đỡ các Bà mẹ Việt Nam anh hùng,
các gia đình chính sách và các đối tượng yếu thế
khác trong xã hội. Trong một thời gian dài rất nhiều
doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều nhận đỡ
đầu đối tượng chính sách bằng các khoản trợ cấp
thường xuyên, thăm hỏi động viên tinh thần, tặng hiện
vật, chữa bệnh nghỉ dưỡng… Ngoài ra một số doanh
nghiệp còn có nhiều cách làm sáng tạo như: cho
người lao động vay vốn với lãi suất thấp, xây dựng
nhà ở, hỗ trợ giáo dục cho con em người lao động,
khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo,v.v… Tuy
nhiên, những việc làm đó mặc dù đã có ý nghĩa xã hội
sâu sắc nhưng chỉ mới dừng lại ở những phong trào
mang tính chất tự nguyện, xuất phát từ nhận thức và
tấm lòng của lãnh đạo đơn vị cho nên chưa tạo được
chiều sâu và tính hiệu quả.
Trong một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới đã
tiến hành năm 2002 về việc áp dụng trách nhiệm xã
hội trong ngành da giày và dệt may Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu cho thấy một số rào cản và khó khăn sau:
• Có sự khác biệt lớn trong nhận thức và hiểu biết về
trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp
Việt Nam.

• Việc một công ty áp dụng đồng thời nhiều bộ quy
tắc ứng xử không mang lại hiệu quả.
• Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các
chuẩn mực trách nhiệm xã hội (đặc biệt là đối với các
DNNVV)
• Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc
ứng xử của khách đặt hàng gây nhầm lẫn cho doanh
nghiệp, ví dụ trong vấn đề giờ làm thêm hay hoạt
động của công đoàn.
• Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách nhiệm
xã hội trên thực tế đang cản trở lợi ích thị trường tiềm
năng mang lại cho doanh nghiệp.
• Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến
cho việc áp dụng bộ quy tắc ứng xử không đem lại
hiệu quả mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi
và các điều kiện tuyển dụng.
Kết quả nghiên cứu trên cho thấy nhiều vấn đề trắc
trở trong tiến trình thực hiện trách nhiệm xã hội của
các doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay. Trong đó có
những nguyên do từ chính nhận thức chưa cao của
chính các doanh nghiệp, đến sự thiếu hộ trợ về thể
chế của nhà nước cũng chưa tạo được cơ chế hợp
tác của cộng đồng.
Phần lộn xộn
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR - Corporate Social
Responsibility) đang là xu thế ngày càng lớn mạnh trên thế giới
nhưng vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam, mới chỉ tập trung chủ yếu ở
ngành da giầy và may mặc do yêu cầu của các khách đặt hàng nước
ngoài.
Rõ ràng hàng hóa Việt Nam khó có thể cạnh tranh về giá cả hay số

lượng với Trung Quốc, vậy con đường nào có thể giúp các doanh
nghiệp nội địa có được lợi thế trong cuộc chiến đầy khó khăn trên
thương trường này? CSR có thể là câu trả lời nếu doanh nghiệp thực
sự hiểu ý nghĩa và biến CSR thành văn hóa, nếp suy nghĩ và phương
pháp làm việc.
Định nghĩa về CSR
Có nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đồng ý với một tuyên bố nổi
tiếng của Milton Friedman năm 1970 rằng “có một và chỉ một trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp – đó là sử dụng nguồn tài nguyên
của mình và tham gia vào các hoạt động nhằm tăng lợi nhuận”. Câu
nói này khẳng định rằng mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp là thỏa
mãn nhu cầu của các cổ đông. Tuy nhiên ngày càng nhiều doanh
nghiệp cổ xúy quan điểm rằng một công ty còn có phải có nghĩa vụ
đối với các bên có liên quan và xa hơn nữa, trách nhiệm với môi
trường thiên nhiên. Các bên có liên quan, theo Edward Freeman, là
bất cứ cá nhân hay tổ chức nào có ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi
hoạt động của doanh nghiệp.
Đã qua rồi thời kỳ khi doanh nghiệp chỉ cạnh tranh bằng giá cả hay
sự khác biệt về sản phẩm. Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay,
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR – Corporate Social
Responsibility) đang dần trở thành một khái niệm được nhiều người
quan tâm và có tầm quan trọng chiến lược đối với doanh nghiệp.
Người ta nhắc tới CSR không chỉ là “điều đúng đắn cần làm” mà còn
là “điều khôn ngoan nên làm”.
Kể từ khi chuyên đề “Trách nhiệm xã hội của những nhà kinh doanh”
của Bowen (1953) được công bố 50 năm trước, các nhà nghiên cứu
và những người làm kinh doanh đã và đang kêu gọi doanh nghiệp
hãy hành động có trách nhiệm với xã hội, bởi vì “không còn nghi ngờ
gì nữa, nguyên tắc xử thế của ngày hôm nay có thể là luật định của
ngày hôm sau” (Gaski, 1999).

Vậy phải hiểu chính xác CSR là gì? Đã có rất nhiều định nghĩa được
đưa ra như “Trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh
nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã
hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58-64). Hay “Trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế,
luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời
điểm nhất định” (Archie.B Carroll, 1979). Maignan và Ferrell cũng
đưa ra khái niệm súc tích của riêng họ về CSR: “Một doanh nghiệp có
trách nhiệm xã hội khi quyết định và hoạt động của nó nhằm tạo ra
và cân bằng các lợi ích khác nhau của những cá nhân và tổ chức liên
quan”. Tuy nhiên theo quan điểm cá nhân tác giả, định nghĩa của
Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về CSR là
hoàn chỉnh và rõ ràng nhất.
Theo đó, CSR là “sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc
phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng
cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia
đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh
nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”. Khi cạnh tranh ngày
càng khốc liệt, đòi hỏi yêu cầu từ khách hàng ngày càng cao và xã
hội có cái nhìn ngày càng khắt khe đối với doanh nghiệp thì các
doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải luôn tuân thủ những
chuẩn mực về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao động,
bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, đào tạo và
phát triển nhân viên, góp phần phát triển cộng đồng,…
Lợi ích của hoạt động CSR trong doanh nghiệp
Tục ngữ Trung Hoa có câu: “ Cho người một con cá, bạn nuôi người
đó một ngày. Dạy người đó câu cá, bạn nuôi sống anh ta một đời”.
Nếu chỉ tính trong ngắn hạn, lợi ích mà CSR có thể đem lại là các đơn
đặt hàng từ những công ty mua hàng đòi hỏi các tiêu chuẩn về CSR.
Tuy nhiên chi phí để áp dụng chương trình CSR có thể làm ảnh

hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Những người lãnh đạo có
tầm nhìn xa trông rộng sẽ có mục tiêu hoạt động không chỉ giới hạn
bởi lợi nhuận. Thước đo thành công của họ bắt nguồn từ tác động
mà họ tạo ra đối với nhu cầu xã hội. Các doanh nhân này tìm kiếm
những giải pháp để thay đổi xã hội theo chiều hướng tốt hơn và đổi
ngược lại, doanh nghiệp của họ sẽ có những điều kiện để phát triển
bền vững hơn.
Lợi ích dài hạn chủ yếu của CSR là cho chính nội bộ doanh nghiệp
như cải thiện quan hệ trong công việc, giảm bớt tai nạn, giảm tỷ lệ
nhân viên thôi việc, tăng năng suất lao động. Ngoài ra, CSR còn giúp
nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và
các đối tác, tạo ra ưu thế trong cạnh tranh và thuận lợi trong việc
kêu gọi đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.
Quản lý một doanh nghiệp một cách có trách nhiệm với xã hội
Vậy chìa khóa để quản lý một doanh nghiệp một cách có trách nhiệm
với xã hội là gì?
• Để thành công, khái niệm trách nhiệm xã hội phải được xây
dựng từ nền tảng sứ mệnh của doanh nghiệp.
• Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu xây dựng văn hóa trách nhiệm xã hội
ngay từ khi mới thành lập hơn là thay đổi văn hóa doanh nghiệp
sau này.
• Chương trình CSR thành công phải được dựa trên việc tạo dựng
niềm tin và sự ủng hộ của khách hàng và công chúng, tất cả
cán bộ công nhân viên, các nhà cung cấp và phân phối, các nhà
đầu tư và ngân hàng, và cuối cùng là các tổ chức chính quyền.
• CSR phải bắt nguồn từ người lãnh đạo. Nếu những nhà quản lý
không tin tưởng vào tầm quan trọng của CSR, nếu họ không
chủ động tiên phong hay hỗ trợ các hoạt động CSR tại cơ sở,
nếu họ không thể hiện tính chính trực và trung thực trong công
việc cũng như trong cuộc sống cá nhân thì CSR không thể thành

công.
• CSR cần được áp dụng trong mọi khía cạnh hoạt động của công
ty và tất cả các nhóm có quyền lợi liên quan.
Doanh nghiệp cần hiểu rõ về CSR
Tuy nhiên công ty không thể chỉ sống nhờ vào CSR. Để phát triển lâu
dài, công ty cần tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận và CSR có thể song
hành, thực tế là trong dài hạn, việc quản lý doanh nghiệp theo hướng
có trách nhiệm với xã hội thường đem lại tăng trưởng bền vững và
lợi nhuận lớn hơn.
Một số điều doanh nghiệp cần hiểu rõ về CSR:
• CSR không phải là một mánh khóe Marketing để quảng cáo hình
ảnh cho doanh nghiệp.
• CSR không chỉ là hành động từ thiện.
• CSR không phải chỉ áp dụng được ở một bộ phận trong tổ chức
mà không áp dụng được ở các bộ phận khác.
• CSR không thể thay thế cho các sản phẩm và dịch vụ chất
lượng tốt của doanh nghiệp.
• CSR không thay thế được cho lợi nhuận.
Có những e ngại rằng áp dụng CSR ở doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN) gặp nhiều khó khăn hơn những doanh nghiệp lớn vì các
nguồn tài nguyên của DNVVN quá hạn chế không thể đáp ứng được
những chương trình CSR đắt tiền. Quan điểm đó không hoàn toàn
chính xác, một doanh nghiệp nhỏ mới thành lập nếu muốn thành
công và phát triển bền vững thì không thể không tham gia vào các
hoạt động mang tính trách nhiệm đối với xã hội ngay từ đầu.
Hơn nữa, chương trình CSR không nhất thiết phải tốn kém. CSR là
quan trọng nhưng không phải ở tờ giấy chứng nhận mà ở chính quy
trình thực hiện nó. Nếu doanh nghiệp chỉ chạy theo hình thức mà
không thực thi nghiêm túc thì CSR không còn ý nghĩa. Doanh nghiệp
sẽ thành công trong việc áp dụng CSR nếu có sự cam kết của ban

lãnh đạo, thực sự hiểu rõ tầm quan trọng và lợi ích CSR sẽ mang lại
trong dài hạn và biến CSR thành một phần văn hóa doanh nghiệp.
Một số rào cản và cơ hội khi thực hiện CSR trong doanh nghiệp Việt
Năm 2002, Ngân hàng thế giới đã tiến hành nghiên cứu về việc áp
dụng CSR trong ngành da giày và dệt may Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu cho thấy một số rào cản và khó khăn sau:
• Có sự khác biệt lớn trong nhận thức và hiểu biết về CSR trong
và giữa các doanh nghiệp Việt Nam.
• Việc một công ty áp dụng đồng thời nhiều bộ quy tắc ứng xử
không mang lại hiệu quả.
• Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực
CSR (đặc biệt là đối với các DNNVV)
• Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của
khách đặt hàng gây nhầm lẫn cho doanh nghiệp, ví dụ trong
vấn đề giờ làm thêm hay hoạt động của công đoàn.
• Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng CSR trên thực tế đang
cản trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.
• Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp
dụng bộ quy tắc ứng xử không đem lại hiệu quả mong muốn, ví
dụ như mức lương, phúc lợi và các điều kiện tuyển dụng.
Báo cáo cũng cho thấy những lợi ích và cơ hội mà CSR đã và sẽ đem
lại cho doanh nghiệp Việt Nam:
• Một số công ty Việt Nam đã thu được lợi ích thị trường từ CSR,
thể hiện bằng các hợp đồng mới và hợp đồng gia hạn từ các
công ty đặt hàng nước ngoài.
• Cũng những công ty này nói rằng năng suất lao động tăng lên
do công nhân có sức khỏe tốt hơn và hài lòng với công việc
hơn.
• Khách hàng đang tìm kiếm các giải pháp hợp tác cho phép chia
sẻ chi phí và tạo ra tác động lớn hơn ở một số lĩnh vực như xây

dựng năng lực sản xuất.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội và không ít thách thức. Khi lợi thế về
giá nhân công rẻ hay nguồn tài nguyên phong phú không còn là của
riêng Việt Nam nữa thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn tham gia
sân chơi lớn buộc phải bổ sung thêm cho mình năng lực cạnh tranh
mới. Nếu sớm được nhận thức và áp dụng, CSR chính là một công cụ
đắc lực giúp cho doanh nghiệp nội địa chiếm được ưu thế so với các
đối thủ cạnh tranh trong khu vực.
Theo 360.chungta.com
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là gì?
Khái niệm này có vẻ mới lạ nhưng thực ra các hoạt động vì trách nhiệm xã hội đã được các doanh nhân
thực hiện từ lâu. Ngay trong lịch sử Việt Nam, các doanh nhân như Lương Văn Can, Trịnh Văn Bô đã từng
lấy mục đích phụng sự xã hội làm đạo lý cho các hoạt động kinh doanh của mình. Trên thế giới, các doanh
nhân như Bill Gates, các chính trị gia như Bill Clinton cũng đang nỗ lực thực hiện trách nhiệm xã hội. Người
ta cũng đã thể chế hóa khái niệm và hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thông qua việc xây
dựng và áp dụng các bộ tiêu chuẩn như: SA8000 (Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội); WRAP (Trách nhiệm
toàn cầu trong ngành sản xuất may mặc); ISO 14001 (Hệ thống quản lý môi trường trong doanh nghiệp;
hay FSC (Hệ thống tiêu chuẩn bảo vệ rừng bền vững.)
Một định nghĩa đang được sử dụng phổ biến tại Việt Nam: “
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết
đóng góp cho sự phát triển bền vững của xã hội thông qua các hoạt động cụ thể nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống con người, an sinh cho cộng đồng
”. Theo định nghĩa này, trách nhiệm xã hội có phạm vi rộng, đa
dạng hóa về hình thức: từ việc tuân thủ pháp luật đến việc tôn trọng các cam kết với đối tác, khách hàng
hay việc tuân thủ những ưu tiên trong hành động để bảo tồn và phát triển cộng đồng.
Tại sao doanh nghiệp nên thực hiện trách nhiệm xã hội?
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
Bài viết tập trung phân tích nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vai trò của việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và một số vấn đề đặt ra trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của các

doanh nghiệp ở Việt Nam.
Theo tác giả, việc các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội không chỉ giúp bản thân doanh nghiệp phát
triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Trên cơ sở làm rõ những lợi ích to lớn từ
việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và đánh giá khái quát tình hình thực thi trách nhiệm xã
hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trách
nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sự thành công trong việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế
đang đặt ra cho đất nước nhiều vấn đề về môi trường và xã hội bức xúc.Chính những vấn đề đó đang đòi hỏi các
chủ thể kinh tế, trong đó có cả các doanh nghiệp, phải có trách nhiệm để góp phần giải quyết, nếu không bản thân
sự phát triển kinh tế sẽ không bền vững và sẽ phải trả giả quá đắt về môi trường và những vấn đề xã hội.
Trên thực tế, không phải đến bây giờ, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới được đặt ra; mà trái lại,
ngay trong thời bao cấp, người ta cũng đã nói nhiều về trách nhiệm xã hội của các xí nghiệp đối với nhà nước và
người lao động, cũng như đối với cộng đồng nói chung.Nhưng, trong những năm gần đây, trách nhiệm xã hội
được hiểu một cách rộng rãi hơn, không chỉ từ phương diện đạo đức, mà cả từ phương diện pháp lý. Những tác
hại về môi trường do một số doanh nghiệp gây ra trong thời gian qua không những bị dư luận lên án về phương
diện đạo đức, mà quan trọng hơn là cần phải được xử lý nghiêm khắc về phương diện pháp lý. Do đó, không phải
ngẫu nhiên, trong những năm gần đây, trên sách báo và nhiều diễn đàn ở Việt Nam, thuật ngữ trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp đã và đang được sử dụng ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ và được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trong bài viết này,
chúng tôi muốn tập trung làm rõ nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vai trò của việc thực hiện trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp và một số vấn đề thực tiễn đang được đặt ra ở Việt Nam hiện nay.
1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: một số vấn đề lý luận
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây hơn 50 năm, khi H.R.Bowen
công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the
Businessmen) (1953) nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các
quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm
tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang được hiểu theo
nhiều cách khác nhau. Một số người xác định “trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một
mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 – 64). Một số
người khác hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp,

đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định” (Archie. B Carroll, 1979), v.v
Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Những người ủng hộ quan
điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp không có trách nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông
và người lao động của doanh nghiệp, còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; doanh nghiệp đã có trách
nhiệm thông qua việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, những người khác lại có quan điểm cho rằng, với tư cách là
một trong những chủ thể của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai
thác các nguồn lực tự nhiên và trong quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên.
Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã hội đối với môi trường, cộng đồng, người lao
động, v.v
Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của Nhóm phát triển kinh tế tư
nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp (Corporate Social Responsibility – CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh
tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên
gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã
hội”(1).
Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những chuẩn mực về bảo vệ môi
trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân
viên và phát triển cộng đồng. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố,
các mặt, như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà
cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5. Quan hệ tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo
lợi ích cho cổ đông và người lao đông trong doanh nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên
ngoài của doanh nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh nghiệp. Tất nhiên,
sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên trong chỉ có ý nghĩa tương đối và không thể nói
trách nhiệm nào quan trọng hơn trách nhiệm nào.
Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói
chung.
Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến lược và được đề ra từ những
năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm phát triển bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày
càng được bổ sung thêm những nội dung mới.

Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế kỷ XX và bắt đầu thu hút sự chú
ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế
giới(1980)(2). Sau đó, tư tưởng về phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như Tương lai
chung của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991)(3)… Khi nói về sự phát triển bền vững, người ta thường
sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách nói trên. Trong cuốn Tương lai chung của chúng ta,
phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất, phát triển bền vững được xác định
là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi đang tồn tại trong khuôn khổ bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn
chung, cả hai định nghĩa đó đều quy phát triển bền vững về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên
và bảo vệ môi truờng sao cho thế hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm ảnh hưởng đến tương lai của các
thế hệ sau.
Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự phát triển bảo đảm tăng trưởng kinh
tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể
thỏa mãn được nhu cầu của thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi
trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững còn được bổ sung thêm nhiều nội
dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến lược phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của đất nước. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:
Một là , phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết hợp ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả
tầm ngắn hạn lẫn dài hạn.
Hai là , tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Ba là , trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo
chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
Bốn là , phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ,
tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xóa đói giảm nghèo.
Năm là , phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
Sáu là , phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để

phát triển nhanh và bền vững(4).
Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam. Chiến lược đó đã
thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm truyền thống, kinh điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam.
Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy rằng:
Thứ nhất , yếu tố ổn định chính trị – xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai , chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất lượng phát triển, kết hợp giữa phát triển
kinh tế với việc phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm,
cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và
cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
Thứ ba , chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách khá toàn diện các khía cạnh khác nhau
của sự phát triển, trong đó nổi lên việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và
bền vững, giữa tăng trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo
chiều sâu; hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và
cải thiện môi trường, v.v Hài hòa là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển bền vững.
Thứ tư , vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững chính là vấn đề dân sinh. Điều đó
được thể hiện trong nội dung của chiến lược mà chúng tôi vừa trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững
đã chú trọng đến chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng trưởng hướng tới sự phát triển
toàn diện của con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường
ngay trong từng bước phát triển. Rõ ràng, mục tiêu của sự tăng trưởng như vậy là nhằm giải quyết ngày càng tốt
hơn vấn đề dân sinh, bảo đảm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Trên thực tế, chiến lược phát
triển nhanh, bền vững là phương thức hữu hiệu bảo đảm cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Rõ ràng là, với mục tiêu của phát triển bền vững như vậy, việc thực hiện trách nhiệm của doanh nghiệp góp phần
quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.
Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận cả trên phương diện đạo đứclẫn
phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu trách nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ
doanh nghiệp, ở công tác từ thiện của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách nhiệm
xã hội là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương diện đạo đức và pháp lý là
cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: một số vấn đề thực tiễn của Việt Nam
Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã hội không còn là vấn đề xa lạ.
Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng
những bộ Qui tắc ứng xử (Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những
người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan
tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng
đồng. Những doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường
quốc tế.
Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội thì lợi ích của họ không
những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã
hội bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất
và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số ví dụ về lợi ích của việc thực
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Thứ nhất , thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một doanh nghiệp có thể tiết
kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị mới. Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất bao bì lớn
của Ba Lan đã tiết kiệm được 12 triệu đô la Mỹ trong vòng 5 năm nhờ việc lắp đặt thiết bị mới, nhờ đó làm giảm
7% lượng nước sử dụng, 70% lượng chất thải nước và 87% chất thải khí(5).
Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lý nhân sự. Một hệ thống quản lý
nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí và tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương,
thưởng hợp lý, môi trường lao động sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục đều
góp phần giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới. Tất cả cái
đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động.
Thứ hai , thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh nghiệp đều đứng trên địa bàn nhất
định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương có thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung
ứng rẻ và đáng tin cậy hơn và nhờ đó tăng doanh thu. Chẳng hạn, Công ty Hindustan Lever, một chi nhánh của tập
đoàn Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 70 chỉ hoạt động được với 50% công suất do thiếu nguồn cung ứng
sữa bò từ địa phương và do vậy, đã bị lỗ trầm trọng. Để giải quyết vấn đề này, công ty đã thiết lập một chương
trình tổng thể giúp nông dân tăng sản lượng sữa bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân cách chăn nuôi,
cải thiện cơ sở hạ tầng cơ bản và thành lập một ủy ban điều phối những nhà cung cấp địa phương. Nhờ đó, số
lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt động hết công suất và đã trở thành một

trong những chi nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn(6).
Thứ ba , thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín của công ty. Trách nhiệm
xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương hiệu và uy tín đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp
tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những công ty khổng lồ đang chi
một khoản tiền rất lớn để trở thành hình mẫu kinh doanh lý tưởng. Chẳng hạn, hãng điện tử dân dụng Best Buy đã
có chương trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã và đang bắt tay vào các hoạt động cộng
đồng; hãng nước khoáng nổi tiếng của Pháp Evian phân phối sản phẩm của mình trong những chai nước thân
thiện với môi trường. Những tập đoàn đa quốc gia như The Body Shop (tập đoàn của Anh chuyên sản xuất các sản
phẩm dưỡng da và tóc) và IKEA (tập đoàn kinh doanh đồ dùng nội thất của Thụy Điển) là những ví dụ điển hình.
Cả hai công ty này đều nổi tiếng không chỉ vì các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý của mình, mà còn nổi
tiếng là các doanh nghiệp có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội(7).
Thứ tư , thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn lao động giỏi, có năng lực là
yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát
triển, nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm
thế nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có chuyên môn tốt là một thách thức lớn đối với các
doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng,
tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và
giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh nghiệm bổ ích, có giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu
đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng chứng là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải
thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh các doanh nghệp
thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở
Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không
thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp
không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều
doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh.

Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành
Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của
các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao
động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố
được uy tín với khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút
được lực lượng lao động có chuyên môn cao(8).
Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng
ký thực hiện trách nhiệm xã hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng
đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp đã không thực
hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh,
báo cáo tài chính, không bảo đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm
môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng
sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty
Hyundai Vinashin (Khánh Hòa), các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước
tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có chứa
melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề
an toàn lao động cho người lao động cũng không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội.
Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng và những giải pháp để khắc phục tình trạng đó.
Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện trách nhiệm xã hội của nhiều
doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được
luật hóa ở tất cả các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu, do yêu cầu của khách
hàng nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã hội, còn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, do khó khăn về tài chính
và thiếu ràng buộc về pháp lý nên nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “các khoản đóng góp từ
thiện”. Một số người khác cho rằng, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm
giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích trước mắt, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ
không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội. Nói tóm lại, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt
Nam còn tương đối khó khăn. Sở dĩ như vậy trước hết là do sự hiểu biết chưa đầy đủ của doanh nghiệp về trách
nhiệm xã hội; trách nhiệm xã hội doanh nghiệp chỉ đơn thuần được hiểu là các khoản đóng góp từ thiện. Thứ hai,

việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng gây ra những khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp
do thiếu nguồn vốn và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Điều này đặc biệt khó khăn cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Nói một cách toàn diện hơn, theo nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, những rào cản và
thách thức lớn nhất cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm:
1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn có sự khác nhau khá lớn.
2. Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc ứng xử (CoC).
3. Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (đặc biệt là
��ối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
4. Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy tắc ứng xử của khách đặt hàng gây nhầm lẫn cho doanh nghiệp,
chẳng hạn như vấn đề làm thêm hay hoạt động của công đoàn.
5. Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trên thực t�� đang cản trở lợi ích thị
trường tiềm năng mang lại cho doanh nghiệp.
6. Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước khiến cho việc áp dụng bộ quy tắc ứng xử không đem lại hiệu quả
mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi và các điều kiện tuyển dụng(9).
Những nguyên nhân được liệt kê ra trên đây có thể quy lại thành ba nguyên nhân chính, đó là nguyên nhân về
nhận thức,nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý. Do đó, để nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cần
bám sát những nguyên nhân nói trên để đề ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là:
Thứ nhất , cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các chủ doanh nghiệp về trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phải làm cho họ hiểu rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải chỉ
bó gọn trong công tác từ thiện. Công tác tuyên truyền, giáo dục rất quan trọng, bởi tất cả những hành vi của con
người đều thông qua ý thức của con người, đều do ý thức của họ điều khiển. Do đó, vấn đề đặt ra là, phải làm sao
cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trở thành động cơ bên trong của các chủ doanh nghiệp.
Việc thực hiện trách nhiệm xã hội trước hết cần được xem là một hành vi đạo đức và được điều khiển bằng động
cơ đạo đức. Đây chính là giải pháp bên trong đạo đức.
Thứ hai , cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi trách nhiệm xã hội một
cách đầy đủ và nghiêm túc. Điều này liên quan đến trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo môi trường và khung
pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải pháp về đạo đức, làm cho các

động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày càng có hiệu lực trên thực tế. Cái khó khăn cho Việt Nam
và các nước đang phát triển nói chung là trong bối cảnh cần phải thu hút đầu tư nước ngoài, nếu đặt nặng các mục
tiêu về môi trường và xã hội thì các doanh nghiệp khó có thể thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng, nếu không đặt
mạnh vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thì những hậu quả về môi trường và xã hội sẽ không thể bù đắp
được bằng các kết quả của sự tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu phát triển bền vững, do vậy, cũng không thể thực hiện
được.
Kết luận
Nhan xet
Cũng nói về tính xã hội, đạo đức kinh doanh. Ít nhiều những người tham gia topic này cũng
hiểu được tầm quan trọng của nó, và ít nhiều các doanh nghiệp cũng nhận ra vị trí đặc biệt của
nó trong công việc kinh doanh của mình.
Một điều dễ hiểu là, bất kỳ nỗ lực sản xuất, tạo ra sản phẩm và đánh bóng sản phẩm… – thì
mục đích cuối cùng cũng là hướng đến khách hàng – tức là hướng đến xã hội. Càng ngày, nền
kinh tế càng phát triển kéo theo cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn với xã hội hiện đại -> nhu cầu
về tiêu dùng càng cao và tất nhiên là chất lượng phải đảm bảo. Điều đó, đòi hỏi các doanh
nghiệp cần thiết đưa ra những chiến lược cạnh tranh với đối thủ để thu hút khách hàng. Những
doanh nghiệp nào trong quá trình tập trung thu hút khách hàng mà quan tâm, chú trọng đến
giá trị đạo đức trong kinh doanh và tính xã hội thì chắc chắn rằng phần thắng sẽ về mình.
Đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương có thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn
cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn, và nhờ đó tăng doanh thu. Hindustan Lever, một chi nhánh
của tập đoàn Unilever tại ấn Độ, vào đầu những năm 1970 chỉ hoạt động được với 50% công
suất do thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phương, và do vậy đã lỗ trầm trọng. Để giải quyết
vấn đề này, công ty đã thiết lập một chương trình tổng thể giúp nông dân tăng sản lượng sữa
bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ tầng cơ
bản và thành lập một ủy ban điều phối những nhà cung cấp địa phương. Nhờ chương trình này,
số lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt động hết công
suất và đã trở thành một trong những chi nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn.
Để trở thành một doanh nhân, những người làm kinh doanh đều hiểu phải có 3 tiêu chí TÀI –
TÂM – TẦM.� Người có Tài thì mới làm nên việc lớn, (bỏ qua mấy anh ngồi chờ may mắn, quý
nhân phù trợ đến mà không làm gì). Và để cái làng kinh doanh nể phục mình, xã hội tôn trong

mình tức là để làm nên cái Tầm của mình thì bản thân mình phải có cái Tâm. Cái Tài của một
người làm kinh doanh giỏi là tạo được chỗ đứng không những vững chắc mà còn phải nổi bật
cho sản phẩm của mình trong lòng khách hàng, và để làm được mục tiêu đó thì nhà kinh
doanh phải có cái Tâm tức - Trách nhiệm xã hội và đạo đức kinh doanh. Hai chữ T đầu tiên sẽ
xây dựng cho chữ T thứ ba.
GIÁ TRỊ THƯƠNG HIỆU VÀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường
Theo cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng tiêu dùng
nhanh, hàng điện máy, ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,… các thương hiệu
luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau.
Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Sunsilk đắt gần gấp 3 lần
giá bán của dầu gội đầu Mỹ Hảo. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi Sony đắt gấp đội so
với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng cáo hay trong dịch vụ về
luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến 10 lần so với giá của các công ty
của Việt Nam.
Tuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so với phân khúc cao
cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các phân khúc càng bớt khác
biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách hàng dùng thử, nhiều loại sản phẩm
và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu như không tạo ra sự khác biệt.
Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất của nhiều loại sản phẩm và
các ngành dịch vụ sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công rẻ hơn tại thị trường
tiêu thụ nhiều lần.
Chuyện gì đã xảy ra khi mức chênh lệch giá không thể hiện ở các ích lợi của sản phẩm hay của
dịch vụ? Và tại sao người ta phải bỏ thêm những khoản tiền lớn để được sử dụng thương hiệu
mà họ yêu thích?
Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh? Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều
muốn nâng giá của sản phẩm, hay của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá
cao, rõ ràng khả năng mang lại lợi nhuận sẽ tăng lên đáng kể, mà công sức và thời gian và chi
phí kinh doanh sẽ giám xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp
3 lần chai bia Sài Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại sao

một đôi giày thể thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới 15 Đô-la Mỹ
lại có giá bán gần 200 Đô-la Mỹ?
Tất cả những người làm kinh doanh, những chuyên gia marketing và các giám đốc nhãn hiệu
đều có chung một khát khao là làm sao có thể nâng được giá bán của sản phẩm lên thật cao ở
mức tối đa mà người tiêu dùng có thể chấp nhận.
Một vấn đề lớn được đặt ra rằng liệu đã đến lúc phải làm rõ chuyện “bóc lột trắng trợn” của
những người chủ thương hiệu đối với người tiêu dùng? Theo như những gì đang xảy ra, liệu các
chủ thương hiệu có quá nhẫn tâm và tham lam khi nâng mức giá lên cao quá mức như vậy?
Trong tác phẩm “No Logo”, Naomi Klein đã nêu ra thực tế là người tiêu dùng ở các nước
phương tây đã thấy rõ tình trạng này từ những thập niên chín mươi của thế kỷ XX. Đã có hàng
loạt những cuộc biểu tình phản đối và tẩy chay các nhãn hiệu toàn cầu. Theo như những gì mà
mọi người thấy được thì có lẽ người tiêu dùng đang bị các tập đoàn sở hữu những thương hiệu
lớn bóc lột “tới tận xương”.
Nếu mọi chuyện đúng như vậy thì tất cả những người làm nghề xây dựng thương hiệu đều là
những kẻ tham lam, vô đạo đức và lừa bịp khách hàng chăng?
Là một người đã nhiều năm làm nghề truyền thông tiếp thị với mục đích xây dựng nên những
thương hiệu có giá trị cao (tức làm cho người tiêu dùng phải “hài lòng” bỏ tiền ra mua và sử
dụng thương hiệu được quảng bá), tác giả bài viết này đã thật sự “sốc” khi đọc được những tài
liệu trong cuốn sách của tiến sĩ Naomi Klein.
Là chuyên gia quản lý thương hiệu, hoặc là một chủ doanh nghiệp, liệu có gì sai khi chúng ta
muốn tạo nên những thương hiệu “đắt hơn những nhãn hiệu khác nhiều lần” mà vẫn hấp dẫn
người tiêu dùng? Liệu có gì trái với đạo đức kinh doanh trong việc tìm cách bắt người tiêu dùng
phải trả thêm tiền chỉ bởi sản phẩm được gắn thêm một cái tên “khác biệt”?
Sự thật phía sau những cảm nhận đắt giá
Số liệu thực tế cho thấy, sự trung thành của người tiêu dùng (hay nói cách khác là sự lệ thuộc
của họ) vào các thương hiệu đắt tiền luôn bền vững và ngày càng tăng. Trong một nghiên cứu
về người uống bia tại thị trường Việt Nam, khi trả lời cho câu hỏi: “nếu được thoải mái lựa chọn
thì bạn sẽ chọn loại bia nào?”, hơn 70% người được hỏi đã trả lời Heineken.
Quả thật là các thương hiệu mạnh luôn có giá cao hơn hẳn những đối thủ cạnh tranh cùng
ngành hàng. Tuy vậy, nếu bạn tìm hiểu kỹ lưỡng thì sẽ thấy rằng, các sản phẩm “cao cấp” đắt

tiền luôn được ưa chuộng, và ngày càng được ưa chuộng hơn. Trong một đợt phỏng vấn bỏ túi
với khoảng 60 phụ nữ được hỏi ý kiến, tất cả mọi người đều chọn Sunsilk làm dầu gội thay vì
chọn một nhãn dầu nội địa khác có chất lượng tốt và giá rẻ hơn. Trong cuốn “The Cult of The
Luxury Brand” (tạm dịch Mốt Xài Hàng Hiệu Sang Trọng) nêu ra một số dẫn chứng về xu
hướng thích xài hàng hiệu của người tiêu dùng. Đặc biệt tại Châu Á, người dân ngày càng thích
chọn mua những loại hàng hóa có nhãn hiệu rất đắt tiền (có đến 94% phụ nữ ở Tokyo sử dụng
sản phẩm của Louis Vuitton – một nhãn hiệu hàng hóa thuộc loại đắt nhất thế giới). Hẳn việc
ưa chuộng các sản phẩm giá cao sẽ cho cảm nhận là sản phẩm tốt hơn, dẫn đến việc sẽ hài
lòng hơn khi sử dụng.
Dựa trên những phân tích về giá trị của sản phẩm và giá trị của thương hiệu, chúng ta dễ thấy
được là một sản phẩm mang thương hiệu sẽ tạo ra 2 loại giá trị khác biệt rất rõ ràng: giá trị lý
tính và giá trị cảm tính.
Giá trị lý tính: Đây chính là những lợi ích mà một loại hàng hóa, hay một loại dịch vụ mang lại
cho người tiêu dùng. Cà phê đơn thuần là một loại thức uống gây nghiện và giúp người uống
tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn. Uốn tóc là một dịch vụ giúp cho các bà các cô có mái tóc kiểu
cách và đẹp hơn. Nếu một sản phẩm không có thương hiệu, nó được gọi là hàng hóa.
Giá trị cảm tính: Là một loại giá trị do các thương hiệu mang lại. Khi một loại hàng hóa với
những đặc điểm cụ thể tạo nên sự khác biệt, người bán hàng sẽ được gắn thêm tên gọi cho
hàng hóa đó để người tiêu dùng dễ phân biệt, dễ nhận biết. Chính cái tên mà người bán hàng
gắn cho loại sản phẩm có những đặc điểm khác biệt là lý do để cho chúng ta phải trả thêm tiền
để mua sản phẩm đó. Nói một cách khác, sản phẩm đó có kèm theo thương hiệu. Thương hiệu
cà phê Highland có giá trên dưới 20 ngàn một ly, trong khi ly cà phê của dì Ba bán ở góc
đường (cũng ngon không kém) thì giá chỉ có 4 ngàn đồng. Dịch vụ cũng vậy, uốn một cái đầu
tại tiệm uốn tóc bình dân Hồng ở trong xóm giá chỉ 100 ngàn đồng, nhưng cũng uốn một kiểu
tóc tương tự ở tiệm Khôi sang trọng thì giá suýt soát 1 triệu đồng. Tuy nhiên, sự khác biệt về
giá cả không chỉ bởi cái tên thương hiệu. Trên thực tế, sự chênh lệch về giá ở đây thể hiện mức
độ cảm nhận, hay nói cách khác là lượng cảm xúc tốt mà người khách hàng có được từ sản
phẩm hay dịch vụ có cái tên đặc thù đó.
Hãy xem xét sự khác biệt.
Trước hết, tất cả mọi người đều phải công nhận rằng hàng hiệu thứ thật luôn luôn có những

đặc điểm khác biệt vượt trội với chất lượng “không thể chê vào đâu được”. Kế đến là nó tạo ra
các giá trị cảm tính như sự tự hào, sự hãnh diện và rất tự tin cho người xài hàng hiệu. Làm sao
mà lại có thể không tự hào khi bạn mặc một chiếc áo sơ mi “hàng độc” có giá đến 6 triệu đồng,
đeo một cái thắt lưng có giá 18 triệu đồng và đi một đôi giày da nai “chính hiệu” có giá gần 30
triệu đồng,…
Một thương hiệu đắt tiền luôn tạo ra sự khao khát của người tiêu dùng và làm cho họ thỏa mãn
hơn rất nhiều so với một nhãn hiệu bình dân.
Như vậy sự thỏa mãn chính là điều khác biệt cơ bản. Một thương hiệu bình dân sẽ đáp ứng cho
những nhu cầu cơ bản của khách hàng bằng các giá trị lý tính, nhưng một thương hiệu cao cấp
sẽ tạo ra thêm những giá trị cảm tính và các giá trị cảm tính này là loại mà không dễ gì mà
người tiêu dùng có được (như sự hãnh diện, sự thỏa mãn, sự tự tin,…). Các giá trị cảm tính này
thực tế là các cảm xúc tốt ở mức độ cao và sẽ xuất hiện mỗi khi nhãn hiệu được sử dụng.
Bạn nên biết rằng giá trị của một vật chính là lượng cảm xúc tốt mà vật đó mang lại cho người
sử dụng. Đây cũng là điểm khác biệt lớn hoặc rất lớn về giá bán giữa nhãn hiệu thường và
nhãn hiệu cao cấp. Để tạo ra một thương hiệu “đắt tiền” là một công việc cực kỳ khó khăn, bởi
nếu người tiêu dùng không “cảm thấy” và không tin rằng thương hiệu có giá trị đúng như giá
bán thì chắc chắn họ sẽ không thể nào có được cái cảm giác sử dụng “hàng hiệu” và không đời
nào họ bỏ tiền ra để mua.
Theo những phân tích trên đây, việc tạo ra một nhãn hiệu cao cấp sẽ đòi hỏi rất nhiều tiền bạc
cũng như nhiều thời gian. Để duy trì sự “cao cấp” đó thì còn là việc khó khăn hơn nữa. Thật
may mắn là cuối cùng, những người làm nghề xây dựng nên các thương hiệu đắt tiền đã có thể
tự hào rằng mình đang làm những việc rất có đạo đức chứ không phải là việc phi đạo đức như
nhiều người lầm tưởng. Bằng việc tạo ra những thương hiệu cao cấp và cực kỳ sang trọng,
người làm thương hiệu đã mang lại cho người tiêu dùng những cảm giác thỏa mãn, những phút
giây hạnh phúc không dễ có được trong cuộc sống. Hàng hiệu là một công cụ làm cho sản
phẩm, hay dịch vụ trở nên đầy cảm hứng, tạo ra sự thỏa mãn và hài lòng cho hàng ngàn hoặc
hàng triệu người trong cái thế giới đầy stress và buồn tẻ này.
Tóm lại, giá trị của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó được tạo nên từ giá trị lý tính và giá trị
cảm tính. Tuy nhiên đó cũng chưa phải là tất cả. Bên cạnh hai loại giá trị này còn có một loại
khác nữa là giá trị tinh thần mà chúng ta sẽ cùng xem xét vào một dịp khác.

ch nhiệm xã hội doanh nghiệp
Đặng Đình Cung
Thứ Ba, 25/8/2009, 09:07 (GMT+7)
(TBKTSG) - Nước ta có Bộ luật Lao động, Luật Bảo vệ môi trường và những nghị định hướng
dẫn thi hành nhưng doanh nghiệp Việt Nam chưa thể hiện một cách rõ ràng việc thực hành
những văn bản pháp quy đó bằng những tiêu chuẩn kiểm định và công bố hiệu quả thực hiện.
Ở các nước khác, mối quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp về lao động và môi trường được
gom chung vào một khái niệm gọi là trách nhiệm xã hội doanh nghiệp.
Trong bài này, người viết xin trình bày trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, lợi ích của nó cùng một số tiêu
chuẩn và văn bản hướng dẫn thực hành.
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là gì?
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là phương pháp tiến hành tự nguyện có tầm nhìn về phát triển bền
vững, kết hợp xã hội và khả năng cạnh tranh. Khái niệm này bao gồm những tác động liên quan đến
xã hội, môi trường và kinh tế.
Thực ra những tổ chức quốc gia và quốc tế cũng như những tổ chức phi chính phủ chưa đồng thuận
về nội dung của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Các nước Anglo Saxon biểu hiện trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp với khái niệm PPP bao gồm ba lĩnh vực: con người (people), hành tinh (planet) và lợi
nhuận (profit). Một số tổ chức lại còn thêm lĩnh vực quản trị (governance). Nhưng ý kiến này bị đả phá
vì quản trị doanh nghiệp không có tính cách tự nguyện.
Trong quy chế và tiêu chí xét thưởng của Giải thưởng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp năm 2009,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) giới hạn trách nhiệm xã hội doanh nghiệp ở hai
lĩnh vực lao động và môi trường nhưng cũng đặt thêm tiêu chí “hoạt động kinh doanh có hiệu quả kinh
tế”. Nói một cách khác, VCCI cũng dùng khái niệm PPP như đa số các tổ chức và doanh nghiệp quốc
tế.
Lợi ích của trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
Vào thập niên 90 thế kỷ trước, một bà ký giả nước ngoài khám phá một nhà máy ở Việt Nam sản xuất
giày gia công cho Nike, công nhân phải làm việc trong một môi trường không khí nguy hại đến sức
khỏe. Độc giả tờ báo của bà ngay tức khắc phổ biến tin này và kêu gọi tẩy chay không mua giày của
Nike nữa. Dĩ nhiên, Nike kiện tờ báo và đã thua kiện.
Trước doanh số xuống dốc, Nike đành phải công bố một chính sách trách nhiệm xã hội đối với những

nhà cung cấp của họ: những nhà cung cấp phải tuân thủ những điều lệ của Nike về trách nhiệm xã hội.
Sau một thời hạn ân hạn, những đối tác nào không tuân theo tiêu chuẩn Nike sẽ bị cắt hợp đồng. Một
đoàn kiểm định được thành lập để kiểm định có định kỳ những cơ sở sản xuất. Những cá nhân hay tổ
chức nào khám phá một cơ sở sản xuất gia công cho Nike không theo tiêu chuẩn đó thì có thể gửi thư
tố cáo đến địa chỉ
Để chứng minh chính sách này được thực hành thông thoáng, Nike đăng trên trang web
www.nike.com những tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của họ cùng với danh sách 700 nhà
máy gia công cho họ ở 51 nước, trong đó có 35 nhà máy ở Việt Nam.
Cũng như Nike, nhiều tập đoàn quốc tế cũng có chính sách tương tự. Đặc biệt những tập đoàn bán lẻ
như Wal-Mart, Cora, Carrefour thường xuyên cử người đi kiểm định các nhà cung cấp của họ ở Việt
Nam. Nói chung, những tập đoàn đa quốc gia thường tránh kinh doanh với những nước không có
pháp quy về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp vì sợ bị mang tiếng.
Một số ngân hàng lớn, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới, thực thi những nguyên tắc Equator (Equator
Principles). Nguyên tắc Equator là những cam kết tự nguyện của các cơ quan tài chính nghiên cứu
những dự án họ tài trợ trên cơ sở tác động xã hội và môi trường: bên mượn tiền phải định giá tác động
của dự án đến xã hội và môi trường.
Những tiêu chuẩn và công cụ quản lý trách nhiệm xã hội
Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động và đối với môi trường chẳng qua chỉ là những
vấn đề chất lượng tương tự như chất lượng sản phẩm mà các doanh nghiệp đã quen thuộc: chất
lượng lao động và chất lượng đời sống.
Ở những nước châu Âu, người ta có khái niệm QSE (quality safety environment, chất lượng - an toàn
lao động - môi trường). Mục đích là mở rộng chính sách quản lý doanh nghiệp vượt khỏi khái niệm
chất lượng để bao hàm thêm trách nhiệm xã hội, mở rộng sổ tay chất lượng (Quality Manual) thành sổ
tay QSE (QSE Manual) và chứng nhận doanh nghiệp cùng một lúc theo cả ba tiêu chuẩn chất lượng,
an toàn lao động và môi trường. Thực hiện đầy đủ cùng lúc ba chính sách này sẽ có thêm hiệu ứng hỗ
trợ và giảm chi phí so với thực hiện riêng lẻ mỗi chính sách.
Các tiêu chuẩn và công cụ về chất lượng và môi trường thì ai cũng biết. ISO (International
Organization for Standardization, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế) đã công bố bộ tiêu chuẩn ISO 9000
về hệ thống quản lý chất lượng và ISO 14000 về hệ thống quản lý môi trường. Hai tiểu ban của ISO
chuyên về các bộ tiêu chuẩn này đã thống nhất những phương pháp thực hành tạo thuận lợi cho các

doanh nghiệp thiết lập một chính sách toàn bộ chung cho cả hai hệ thống quản lý chất lượng và môi
trường.
Còn về khía cạnh quản lý nhân lực, vấn đề này phức tạp vì không phải là một vấn đề kỹ thuật. Mỗi
quốc gia có quan niệm khác nhau: (a) an toàn lao động là trách nhiệm cá nhân hay là trách nhiệm tập
thể, (b) quyền lợi tối thiểu của người lao động về nhân phẩm và tính dân chủ do phía thuê lao động tự
nguyện ban cho hay phải theo quy định của nhà nước và thương lượng tập thể.
Nhóm làm việc của ISO về trách nhiệm xã hội (WG SR) đã tham khảo rộng rãi mọi đối tác. Chỉ riêng
trong năm 2007 có 320 đại diện của 55 nước và 26 tổ chức quốc tế tham gia hội nghị của WC SR. Nếu
không có gì thay đổi thì tiêu chuẩn hướng dẫn ISO 26000 sẽ được công bố vào năm 2010. Điều cần
chú ý là tiêu chuẩn ISO 26000 chỉ là một tiêu chuẩn hướng dẫn nên không thể dùng làm cơ sở để
chứng nhận một doanh nghiệp.
Dưới đây là những tiêu chuẩn có thể dùng làm cơ sở để chứng nhận một doanh nghiệp: Các tiêu
chuẩn của ILO (International Labor Organization, Tổ chức Lao động quốc tế), ISO 9001 về hệ thống
quản lý chất lượng, ISO 14001 về hệ thống quản lý môi trường, OHSAS 8001 về an toàn lao động, và
SA 8000 về quản lý nhân sự.
Ngoài ra có một số tài liệu hướng dẫn cách trình bày một báo cáo về trách nhiệm xã hội như là GRI
(Global Reporting Initiative, khởi đầu báo cáo toàn diện) hay AA 1000 Asurance Standard của ISEA
(Institute of Social and Ethical Accountability, Viện Trách nhiệm xã hội và đạo đức).
Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã dịch sang tiếng Việt các bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và
ISO 14000. Để hoàn tất, tổng cục còn phải tiếp tục dịch và đưa ngay vào thực hành những tiêu chuẩn
và văn bản hướng dẫn khác vừa nêu trên.
Các mâu thuẫn trên gây ra rất nhiều câu hỏi và các cuộc tranh luận trong xã hội. Trong đó có mấy câu hỏi
nổi bật. Thứ nhất, các mâu thuẫn trên tuy phổ biến nhưng có phải là đa số, chiếm ưu thế trong hoạt động
kinh doanh?
Thứ hai, các hiện tượng trên có phải là các khuyết tật của nền kinh tế thị trường hay nói khác đi có phải cứ
kinh doanh trên thương trường là phải trốn thuế, lừa đảo? Thứ ba, có thể dung hòa mâu thuẫn giữa lợi ích
xã hội và lợi ích kinh doanh của các doanh nghiệp?
Thật ra, không chỉ ở Việt Nam, các vấn đề này thu hút sự chú ý và tranh luận của hầu hết quốc gia trên thế
giới, nó dẫn đến các nghiên cứu lý luận và thực nghiệm ở nhiều quốc gia về vấn đề này. Từ đây hình thành
một trào lưu trong khoa học quản trị và tiếp thị - trào lưu trách nhiệm xã hội trong kinh doanh. Nội hàm chính

của trào lưu này là để có thể phát triển lâu dài và thịnh vượng, các doanh nghiệp không chỉ hướng đến phục
vụ thật tốt khách hàng - mục tiêu của mình - mà còn phải tuân thủ tốt các giá trị, qui định (tập quán, luật
pháp) của cộng đồng/xã hội, đồng thời đóng góp cho sự phát triển lành mạnh của cộng đồng/xã hội mà
doanh nghiệp đang là thành viên. Rất nhiều quan sát và nghiên cứu đều chỉ ra mối quan hệ dương tính giữa
trách nhiệm xã hội và lợi nhuận, mức độ phát triển của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của các nhà kinh doanh thành đạt lại không phải là liệu chúng ta có thể dung hòa
lợi ích doanh nghiệp với lợi ích xã hội (như cách đặt vấn đề ở trên) mà là chỉ khi các doanh nghiệp cam kết
và thực hiện tốt trách nhiệm với khách hàng và cộng đồng thì khi đó doanh nghiệp phát triển và thịnh vượng.
Nghĩa là trách nhiệm xã hội đã không còn là trách nhiệm, nó trở thành sứ mệnh (mission) và mục tiêu định
hướng cho các hoạt động của doanh nghiệp. Đến đây rất nhiều doanh nghiệp băn khoăn, đành rằng các giá
trị cộng đồng/xã hội là điều tốt, nên làm, nhưng thực hiện chúng liệu có cải thiện kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp hay chỉ làm gia tăng các chi phí cho doanh nghiệp? Kinh nghiệm của các doanh nghiệp cho
thấy trong ngắn hạn chi phí có thể gia tăng, nhưng về lâu dài chi phí giảm xuống đi kèm theo sự gia tăng
của các lợi ích.
Doanh nghiệp nhận được lợi ích gì từ việc thực hiện các trách nhiệm xã hội?
Đầu tiên và quan trọng nhất là xây dựng một hình ảnh tốt về doanh nghiệp trong cộng đồng - một nền tảng
quan trọng của lợi thế cạnh tranh. Một hình ảnh tốt chính là cơ sở để hình thành và xây dựng các thương
hiệu mạnh.
Thứ hai, thực hiện nghiêm túc các giá trị, qui định của xã hội giúp doanh nghiệp có được một môi trường
kinh doanh (bên trong và bên ngoài) lành mạnh, một đội ngũ nhân viên tận tụy, cam kết và đạo đức - yêu
cầu tất yếu của phát triển.
Thứ ba, các yêu cầu về trách nhiệm xã hội hiện nay đã trở thành các tiêu chuẩn phải có trong kinh doanh
chẳng hạn như SA8000 của dệt may. Thực hiện các tiêu chuẩn này là điều kiện để tham gia các thị trường
lớn như EU, Nhật, Mỹ. Thực tiễn ở các doanh nghiệp ban đầu khi chưa quen các tiêu chuẩn thì còn nhiều
khó chịu và khúc mắc, nhưng khi đi vào vận hành thì các tiêu chuẩn này còn giúp gia tăng năng suất lao
động và cải tiến chất lượng sản phẩm, vì các tiêu chuẩn này liên quan rất nhiều đến quyền lợi người lao
động, vệ sinh môi trường làm việc, an toàn lao động…
Trở lại câu hỏi liệu các mâu thuẫn hiện nay biểu hiện qua các hình thức cơ hội chủ nghĩa của một số ít nhà
doanh nghiệp có phải là khuyết tật của nền kinh tế thị trường hay không, rất nhiều nhà nghiên cứu về kinh tế
thị trường cho rằng đây không phải là các khuyết tật cơ hữu của nền kinh tế thị trường, mà nó xuất hiện do:

(1) nền kinh tế thị trường chưa phát triển một cách hoàn chỉnh với đầy đủ cơ chế, thể chế, tác nhân và
nguồn lực của nó (luật pháp chưa đầy đủ, đồng bộ, thị trường còn phân tán, qui mô nhỏ, thông tin thị trường
chưa minh bạch, can thiệp quá sâu của chính phủ vào thị trường thông qua các mệnh lệnh hành chính…),
và (2) đi kèm với sự non trẻ của cơ chế thị trường là nhận thức chưa chính xác và đầy đủ (một số trường
hợp thì cố tình lợi dụng để trục lợi) của các nhà kinh doanh và cả xã hội về chức năng và trách nhiệm kinh
doanh. Vậy để giải quyết các hiện tượng không lành mạnh hiện nay, yêu cầu đầu tiên là đầu tư phát triển
đồng bộ nền kinh tế thị trường. Một thị trường lành mạnh, khỏe khoắn chính là một cơ chế hoàn thiện để
nhận diện các khối u và loại trừ chúng.
Thực tế chúng ta có thể tự hào và tự tin về những đóng góp của các doanh nghiệp cho các hoạt động xã
hội. Rõ ràng chúng ta không thiếu những tấm lòng. Nhưng trách nhiệm xã hội không đơn thuần là lòng từ
thiện. Trách nhiệm xã hội phải gắn với một tầm nhìn xa để tạo ra những cơ hội phát triển.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) hiện nay đã phổ biến nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm, nội dung và phạm vi của CSR. Trong số đó, mô hình “kim tự tháp” của A.
Carroll (1999) có tính toàn diện và được sử dụng rộng rãi nhất. Theo đó, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện.
(i) Trách nhiệm kinh tế, thể hiện qua hiệu quả và tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết bởi doanh nghiệp được thành lập trước hết từ động cơ tìm kiếm lợi nhuận của doanh nhân. Hơn thế, doanh
nghiệp là các tế bào kinh tế căn bản của xã hội. Vì vậy, chức năng kinh doanh luôn phải được đặt lên hàng đầu. Các trách nhiệm còn lại đều phải dựa trên ý thức trách nhiệm kinh tế của doanh
nghiệp.
(ii) Trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính là một phần của bản “khế ước” giữa doanh nghiệp và xã hội.
Nhà nước có trách nhiệm “mã hóa” các quy tắc xã hội, đạo đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu kinh tế trong khuôn khổ đó một cách công bằng và đáp ứng được các chuẩn
mực và giá trị cơ bản mà xã hội mong đợi ở họ. Trách nhiệm kinh tế và pháp lý là hai bộ phận cơ bản, không thể thiếu của CSR.
(iii) Trách nhiệm đạo đức là những quy tắc, giá trị được xã hội chấp nhận nhưng chưa được “mã hóa” vào văn bản luật.
Thông thường, luật pháp chỉ có thể đi sau để phản ánh các thay đổi trong các quy tắc ứng xử xã hội vốn luôn mới. Hơn nữa, trong đạo đức xã hội luôn tồn tại những khoảng “xám”, đúng - sai
không rõ ràng; mà khi các cuộc tranh luận trong xã hội chưa ngã ngũ, chúng chưa thể được cụ thể hóa vào luật.
(ii) Trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính là một phần của bản “khế ước” giữa doanh nghiệp và xã hội.
Nhà nước có trách nhiệm “mã hóa” các quy tắc xã hội, đạo đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu kinh tế trong khuôn khổ đó một cách công bằng và đáp ứng được các chuẩn
mực và giá trị cơ bản mà xã hội mong đợi ở họ. Trách nhiệm kinh tế và pháp lý là hai bộ phận cơ bản, không thể thiếu của CSR.
(iii) Trách nhiệm đạo đức là những quy tắc, giá trị được xã hội chấp nhận nhưng chưa được “mã hóa” vào văn bản luật.
Thông thường, luật pháp chỉ có thể đi sau để phản ánh các thay đổi trong các quy tắc ứng xử xã hội vốn luôn mới. Hơn nữa, trong đạo đức xã hội luôn tồn tại những khoảng “xám”, đúng - sai
không rõ ràng; mà khi các cuộc tranh luận trong xã hội chưa ngã ngũ, chúng chưa thể được cụ thể hóa vào luật.
CSR ở Việt Nam
Ở đây, chúng tôi muốn đề cập và phân tích một số vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải.

i) Tăng trưởng nhanh và môi trường sinh thái luôn là hai mặt khác nhau của các nền kinh tế đang phát triển. Sau quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, nhiều nước đã phải trả giá về môi trường. Việt
Nam cam kết thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ cho thấy chúng ta không hy sinh chất lượng sống của người dân vì mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn.
Nhưng, điều đó đòi hỏi hệ thống quy định pháp luật phải có độ chính xác cao. Luật pháp phải làm sao không thừa (không tạo chi phí không đáng có cho doanh nghiệp) vừa không thiếu để bảo vệ
lợi ích công cộng ở mức cần thiết. Qua các vụ thực phẩm nhiễm độc (nước tương, sữa), chúng ta thấy cơ quan nhà nước thường ở thế bị động và văn bản luật không bám sát thực tiễn.

×