Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nghị luận văn học 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 113 trang )

❖ “TÂY TIẾN”
ĐỀ 1: 14 CÂU ĐẦU
I - Mở bài
“ Có một thời để nhớ mãi trong tơi
Đã tiến bước dưới quân kì quyết thắng
Bất chấp đạn bom, kể chi trời mưa nắng
Súng chắc tay – thời đó mãi sao qn.

Có một thời...Đồng đội mãi gọi tên.”
Những dịng cảm xúc thiết tha, bồi hồi khi nhớ lại một thời chiến tranh của người
lính cách mạng như thấm đẫm trong từng trang giấy của bài thơ “Có một thời như
thế”. Người lính cách mạng vẫn thường hiện lên trong ký ức những người con đất
Việt với niềm tự hào và xúc động mãnh liệt nhất. Có người lính lam lũ, hiền lành
trong thơ Chính Hữu, có người lính sơi nổi, trẻ trung trong thơ Phạm Tiến Duật.
Nhưng có lẽ rằng, chưa ở đâu ta có thể bắt gặp hình ảnh người lính hài hịa, bi
tráng như trong sáng tác của Quang Dũng. Ở đó, nhà thơ cịn khai phá một nỗi
nhớ thương mới, một nỗi nhớ thương về đoàn quân, nhớ thương về vùng đất, về
con người qua một thi phẩm với tựa đề “Tây Tiến”. Với ngòi bút tài hoa, giàu cảm
xúc, nhà thơ đã thành công khắc họa nên một Tây Tiến hùng vĩ dữ dội cùng vẻ
đẹp hào hùng của người lính trên con đường hành quân gian khổ:
“Sông Mã xa rồi...
.......thơm nếp xôi.”

II – Thân bài
1. KQC


Nhà thơ Quang Dũng (1921 – 1988) là một người nghệ sĩ đa tài, nổi tiếng với
phong cách sáng tác vừa hồn nhiên tinh tế, lãng mạn và hào hoa, điều đó được
thể rõ nhất qua những ca từ bộc tả về người lính Tây Tiến xứ Đồi – q hương
thi sĩ. “Tây Tiến” là bài thơ hay, mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng


mạn. Tác phẩm được in trong tập thơ “ Mây đầu ô”(1986) nhưng từ trước đó, nó
đã được bao thế hệ của những tâm hồn đồng điệu trong tình yêu thi ca truyền
tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài thơ từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông
đã rời khỏi đoàn quân Tây Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn
vị quân đội Tây Tiến được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và
miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất rộng. Các
chiến sĩ xuất thân phần đông là người Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên trong
đó có Quang Dũng. Họ phải sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu
thốn, trong lúc căn bệnh sốt rét đang hoành hành. Thế nhưng những người
thanh niên ấy vẫn giữ cho mình tinh thần lạc quan và chiến đấu anh dũng. Bài
thơ ban đầu được đặt tựa đề “Nhớ Tây Tiến”, về sau chữ “Nhớ” được bỏ đi. Có lẽ
cũng bởi bao trùm bài thơ là nỗi nhớ một thời Tây Tiến gian khổ, hào hùng, nhớ
về một thời oanh liệt đã qua, nhớ đến đồng đội cũ, cảm hứng về Tây Tiến cháy
lên trong lòng tác giả. Đoạn thơ phân tích là đoạn đầu của bài thơ, tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của hồn thơ Quang
Dũng được lắng đọng lại trong 14 câu thơ với vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng miền
Bắc Tây Tiến và hình ảnh người lính.
2. Phân tích
LĐ 1: 2 câu đầu
Trong 14 câu đầu, nỗi nhớ của nhà thơ chủ yếu hướng về chặng đường hành
quân gian nan, vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng núi rừng Tây Bắc. Thông
qua những kỉ niệm với thiên nhiên, con người, Quang Dũng đã khắc họa nên vẻ
đẹp hào hoa, hào hùng của con người chiến binh Tây Tiến. Câu thơ đầu chia làm
hai vế, ngắt nhịp 4/3:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”
Sông Mã là dịng sơng chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt – Lào của tỉnh Mộc
Châu, Sầm Nứa, Mai Châu, Quan Hóa... Đó là dịng sơng nhiều ghềnh thác, đổ dốc
dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng rộng lớn, hai bên sông rải rác mồ của
các chiến sĩ Tây Tiến. Vì vậy, sơng Mã có thể được coi như cảnh sắc thiên nhiên

hùng vĩ, như hình ảnh của núi non miền Tây Bắc. Khơng những thế, dịng sơng
Mã ấy như một nhân chứng lịch sử đứng đó chở che, dõi theo từng bước chân


trên chặng đường hành qn của trung đồn, nó đã chia sẻ và chứng kiến những
buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa tử sĩ.
Sông Mã trong ký ức Quang Dũng và những người đồng đội là nơi xuất phát của
kỷ niệm, là khởi đầu của chặng đường gian khổ, là cái gốc của nỗi nhớ trong miền
ký ức về cuộc hành quân chiến đấu của những người lính năm xưa.
Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng
đội, xa núi rừng miền Tây và dịng sơng Mã thân u. Nhịp ngắt 4/3 tạo cảm giác
như có một phút ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải, mênh mông trong tâm
hồn. “Sông Mã xa rồi” nhưng ký ức vẫn còn rõ rệt lắm! Hiện thực như mờ đi, nỗi
nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ, làm chao đảo lòng người:
“Tây Tiến ơi!”. Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi” dâng lên một dấu chấm
than để mở ra bao nhiêu dạt dào của cảm xúc nỗi nhớ. Tiếng gọi ấy không dừng
lại ở những câu thơ đầu mà như để ngân nga nối tiếp trong vần “ơi” của từ láy
“chơi vơi” trong câu thứ hai. Phép điệp vần tinh tế ấy khiến tiếng gọi như âm
vang, đập vào vách đá, dội lại vào lòng người, da diết, bâng khuâng...
Gắn bó, thân thiết như thế, vậy mà giờ đây đã “xa rồi” thì làm sao tránh khỏi nỗi
nhớ ào ạt, trào dâng trong câu thơ tiếp theo:
“Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Điệp từ “nhớ” lặp lại ở đầu hai vế câu nhằm tăng chiều sâu cho cảm xúc. Nỗi nhớ
có địa chỉ, địa danh, có hình ảnh những chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến như bắt rễ,
như in sâu trong tâm hồn thơ Quang Dũng. Vế đầu của câu thơ xác định đối
tượng của nỗi nhớ: “nhớ về rừng núi”. Đó là khơng gian mênh mơng của miền Tây
với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... những địa danh vừa
gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả, vừa gây ấn tượng
mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ... Và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở
“rừng núi”, nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những

đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất. Ở vế sau của câu thơ, nỗi nhớ dưới ngòi
bút tài hoa của Quang Dũng mang nét rất riêng, rất đặc biệt và sáng tạo: “nhớ
chơi vơi”. “Chơi vơi” là từ láy vần gợi độ cao phiêu du, bay bổng, là từ láy thật phù
hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây. Hơn nữa, từ láy “chơi
vơi” còn gợi cảm giác về nỗi nhớ da diết, mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng,
ăm ắp khôn nguôi. Quang Dũng đã viết về người lính Tây Tiến bằng những vẫn
thơ tươi thắm nhất của lịng mình. Hình ảnh người lính hiện về trong hồi ức nhà
thơ như một biểu tượng xa vời trong khơng gian và thời gian. Kỉ niệm về người
lính Tây Tiến đã xa mà lại rất gần.
LĐ2: 6 câu tiếp


Từ những câu thơ khởi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự, hoài niệm của nhà thơ
được mở ra, lan tỏa như một chuỗi kỉ niệm được thức dậy, lay động và xơn xao
trong lịng nhà thơ, trong lịng bạn đọc.
Sáu câu thơ tiếp theo, nhà thơ đưa ta về với cuộc hành quân của những người
lính Tây Tiến giữa núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình
bằng một tâm hồn và nguồn cảm hứng lãng mạn hào hoa. Nhà thơ lấy ngoại cảnh
núi rừng Tây Bắc để tơ đậm khí chất hào hùng của đoàn quân Tây Tiến.
Với những nét vẽ thật tài hoa, vừa chân thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn,
Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc heo hút, hiểm
trở nhưng vô cùng hùng vĩ, thơ mộng và xiết bao kì thú. Nét đặc sắc của thiên
nhiên miền Tây trong ký ức của nhà thơ chính là màn sương rừng mờ ảo: sương
phủ dày ở Sài Khao, mây bồng bềnh ở Mường Lát... Đó khơng chỉ là màn sương
của thiên nhiên mà còn là màn sương của kỷ niệm, của nỗi nhớ nhung:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bút pháp hiện thực trong câu thơ trên đã miêu tả một đồn qn dãi dầu, mệt
mỏi, thấp thống ẩn hiện trong sương. Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân
nếm trải là màn sương dày đặc ở bản làng Sài Khao. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng

tâm câu thơ rơi vào chữ “lấp” – một động từ có sức gợi tả. Màn sương rừng mênh
mơng bao phủ, che mờ đồn qn, trùm phủ, khuất mờ núi rừng, thấm vào từng
thớ thịt lạnh buốt khiến con đường hành quân thêm vất vả, gian lao. Trên chặng
đường hành quân xưa của Chế Lan Viên, sương giá cũng là một ký ức thấm đượm
nỗi nhớ:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
Nhưng cái khắc nghiệt thiên nhiên kia không hề làm tinh thần người chiến sĩ nao
núng. Hiện thực ấy đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: “đêm sương” thành
“đêm hơi” bồng bềnh; những ngọn đuốc soi di chuyển dọc theo con đường chiến
sĩ hành qn được nhìn thành những đóa hoa chập chùng, lung linh, huyền ảo...
Chi tiết “hoa về trong đêm hơi” tùy theo cách hiểu của mỗi người mà mang lại sắc
thái độc đáo. Đó cịn có thể là hình ảnh của người con gái Tây Bắc, cũng có thể là
sự mỏi mệt trên con đường hành quân khiến người chiến sĩ hoa mắt. Những
thanh bằng nhẹ bẫng trong câu thơ càng làm đậm thêm sự hư ảo của sương rừng.


Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận theo một cách thi vị bởi những
tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Khó khăn này chưa qua thì khó khăn khác đã đến. Ba câu thơ tiếp theo đã miêu tả
thật sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và đầy trở ngại ấy, từ đó làm hiện lên
cuộc hành quân gian lao vất vả, ý chí bất khuất, kiên cường, tinh thần lạc quan,
yêu đời của người lính Tây Tiến. Câu thơ thứ nhất đã trực tiếp miêu tả dốc núi
miền Tây trập trùng, hiểm trở:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một
câu thơ bảy chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành qn
gian trn vơ cùng của đồn quân trong một địa hình mà sự hiểm trở được gợi ra
ngay trong nhạc điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu
hai vế câu thơ thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vơ tận của

những con dốc. Qua đó, ta còn thấy được cả nỗi nhọc nhằn của các anh: con dốc
này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thách thức
ý chí, nghị lực người lính. Sự hiểm trở của núi rừng miền Tây cũng hiện ra trong ý
nghĩa tạo hình và biểu cảm của những từ láy “khúc khuỷu” và “thăm thẳm”. “Khúc
khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của con đường ngay dưới chân người chiến
sĩ. Còn từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao hun hút, sự xa vời khi đưa mắt nhìn tiếp
con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn như khôn cùng. Con đường lên
miền Tây quả là “khó như đi lên trời xanh”. Nó cũng xa xôi như ngày đất nước độc
lập; song gian khổ khơng làm khó được người chiến sĩ, họ vẫn lạc quan, quật
cường vững bước.
Dốc núi miền Tây còn được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tơ đậm ấn
tượng về độ cao chót vót:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Từ láy “heo hút” vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu như để
nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền Tây
trong cảm nhận của những chàng trai Hà Thành. Còn “cồn mây” lại là một phép
ẩn dụ đặc sắc cho mây núi miền Tây bôn bề, chồng chất, dựng lên thành dốc,
thành cồn. Từ đó, câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi Tây Bắc cao đến mức con
đường như lấn vào mây, mây bao phủ đường lối, mây mờ mịt trập trùng, mây
khiến con đường hành quân của người chiến sĩ càng thêm cheo leo, hiểm trở,
hoang vu. Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người đi
trong mây, mũi súng như chạm được tới cả đỉnh trời, đó là một cảm nhận có thực


của thị giác, khiến ta hình dung độ cao chót vót nguy hiểm của con đường hành
qn. Một hình ảnh tả thực nhưng đầy lãng mạn. Bằng cách nói tếu táo, hóm
hỉnh đậm chất lính trong hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”, Quang Dũng đã cho
thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường gian lao, vất
vả. Có nhà thơ đã cho rằng hình ảnh “súng ngửi trời” là “trung tâm của bức tranh
hiểm trở, bởi chỗ cao ấy, có con người.” Hình tượng người lính Tây Tiến ngang tàn,

kiêu dũng khơng bị nhịe đi mà càng nổi bật hơn giữa thiên nhiên dữ dội và khắc
nghiệt.
Dốc núi lại tiếp tục được miêu tả trong nét vẽ sắc sảo và gân guốc:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.”
Có một sự đối lập kín đáo giữa hai vế trong câu thơ cũng như trong tâm hồn
người chiến sĩ. Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật có tính định
lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố
tương đồng của điệp ngữ “ngàn thước” và tính chất tương phản của các động từ
“lên - xuống” trong hai vế câu đã tạo cảm giác về một nét gấp đột ngột, dữ dội
cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả độ cao của dốc, độ sâu của vực. Bên
này đường lên núi dựng đứng, vút cao, bên kia vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.
Ta cũng đã từng bắt gặp sự kỳ vĩ nơi biên ải này qua những vần thơ trong “Thu
hứng” của Đỗ Phủ:
“Ngàn non hiu hắt, khí thu lịa
Lưng trời sóng rợn lịng sơng thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Trong cả ba câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây
được miêu tả vừa trực tiếp vừa gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả
sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thơng qua bức tranh thiên nhiên, có thể
thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ, coi
thường mọi gian truân, vất vả. Những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ
hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ.
Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tiếp theo đã tả
mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết mở:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”


Câu thơ đã gợi tả vẻ đẹp lãng mạn với một khơng gian mênh mang, dàn trải, nhạt
nhịa trong mưa. Hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả
thung lũng mờ mịt như loãng tan trong miền mưa, không gian bỗng như bao la,

xa vời hơn. Nhịp thơ cũng chậm lại như phút nghỉ ngơi hiếm hoi của người chiến
sĩ. Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn
của núi rừng. Họ phóng tầm mắt thấy màn mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha
Luông xa xôi. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của những người lính chiến binh
Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân yên bình, yêu
thương. Sắc thái phiếm chỉ cụm từ “nhà ai” trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi
vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ có tiếng “nhà” mang
thanh huyền như một thống trầm lặng, suy tư để rồi sau đó, tất cả những thanh
không chơi vơi nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mơng,
hình ảnh ngơi nhà gợi tả cảm giác ấm áp, nhớ nhung dễ làm xao xuyến lòng
người xa quê.
Để tăng thêm màu sắc bi tráng, mất mát hi sinh nhưng rất đỗi hào hùng tráng lệ,
Quang Dũng đã tô điểm thêm cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc bằng nghệ
thuật điện ảnh với hai âm thanh rợn người:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi.”
“Thác gầm thét” và “cọp trêu ngươi” là hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội,
hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng
mạn được sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu
trên có tiếng “thác”, “thét” mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng
“Hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy
những dấu sắc trong câu thơ trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại
ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như tiếng
bước chân nặng nề của thú dữ, gợi ra cái âm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vịm tối thấp
của núi rừng. "Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dịng thời gian
tuần hồn, miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã
ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là "chiều chiều –
đêm đêm" – sự ngự trị mn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân
dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua
những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng

như chỉ là vương quốc riêng của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc;
vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm
trong đoàn quân Tây Tiến.


LĐ 3: Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân
Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít
nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành
trình qua miền Tây, ngồi ra cịn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh
người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân. Trước
hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây
Tiến trên đường hành quân:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời! ”
Từ láy "dãi dầu" đã thể hiện toàn bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi
hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội,
vượt qua những nắng mưa, sương gió miền Tây ... Hai câu thơ tựa như một bức kí
họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Hình ảnh “khơng bước nữa – bỏ quên
đời” có thể hiểu theo hai cách: nghĩa thứ nhất, đây là hình ảnh người lính phong
trần bng mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân để tái tạo sức lực,
chuẩn bị cho cuộc hành quân, chiến đấu sắp tới. Nhưng có lẽ người đọc sẽ
nghiêng về cách hiểu thứ hai nhiều hơn: đó là cái chết, là sự hy sinh của những
người chiến sĩ. Chiến tranh luôn gắn liền với đau thương mất mát. Thơ ca thời kì
kháng chiến chống Pháp cũng khơng hề che giấu hiện thực đau thương này, như
trong bài “Viếng bạn”, Hồng Lộc đã viết:
“ Hơm qua cịn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ. ”
Tuy nhiên với biện pháp tu từ nói giảm - nói tránh "khơng bước nữa" và "bỏ qn

đời", Quang Dũng đã làm nổi bật sự ngang tàng của những chiến binh dãi dầu
mưa nắng, đối với những chàng trai trẻ tuổi ấy, cái chết nhẹ tựa lông hồng. Các
anh đã hoàn thành nhiệm vụ với đất nước. Và giờ đây, khi ngã xuống, các anh lại
trở về với vòng tay của đất mẹ thân yêu. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh
đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn góp phần tơ đậm vẻ
đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến, những thanh niên đất Hà thành sẵn sàng
dâng hiến tuổi đôi mươi cho Tổ quốc !


Lđ 4: Tình quân dân thắm thiết:
Sau đường dài hành quân mỏi mệt, các chiến sĩ có dịp dừng chân lại ở một bản
làng có tên gọi rất đỗi yêu thương - Mai Châu. Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc
bồi hồi tha thiết. Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến khơng chỉ có gian
trn thử thách,vất vả, mà cịn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân
tình. Miền Tây khơng chỉ có núi cao rừng sâu, mà cịn có cả những bản làng nên
thơ mới khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của
xôi nếp nương và nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Hai câu thơ là những cụm từ ngữ đã được xóa bỏ các yếu tố kết nối để thành một
tập hợp những ấn tượng sâu đậm còn lại trong tiềm thức, trong nỗi nhớ của thi
nhân. Đó là những ấn tượng của thị giác, thính giác, khứu giác và xúc giác về
cảnh và tình miền Tây. Mở đầu bằng cụm từ "nhớ ôi”, câu thơ đã bộc lộ cảm xúc
nhớ nhung dâng trào mãnh liệt. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa
rừng buốt lạnh, giữa núi cao vực sâu, giữa những tiếng chân thú rừng rình rập
đầy đe dọa..., phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm nếp mới
thơm ngào ngạt, cùng làn khói bếp ấm áp mỏng manh vương vấn đã đem đến cho
các chiến sĩ cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, q giá trong thời chiến tranh.
Giống như âm thanh tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sĩ trong
bài thơ của Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là

một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong đời người lính.
Câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp xơi" gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xơi
ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của cô gái miền Tây. Cũng có
thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa lãng mạn từ hai chữ "mùa em". Người ta
thường chỉ nói về mùa hoa, mùa quả...đó là thời điểm căng tràn, sung mãn, đầy
ắp sắc hương của hoa trái... Quang Dũng đã tạo ra một nét nghĩa mới mẻ, táo bạo
và thật đa tình trong tập hợp "mùa em" khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa
danh gắn với kỉ niệm thơm thải của xơi nếp đầu mùa, của tình u qn dân sâu
nặng. Mai Châu cịn gợi nhớ tới hình ảnh những cơ gái miền Tây dun dáng. Có
người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung
quanh các anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh ánh mắt, rạng ngời nụ cười,
nồng nàn hương sắc. Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tình tế cảm giác
bồng bềnh, xao xuyến tới ngất ngây, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà
Thành hào hoa, lãng mạn.


3. KQC
Đoạn thơ, cũng như bài thơ, đã thể hiện đa dạng phong cách nghệ thuật thơ
Quang Dũng. Cảm hứng lãng mạn kết hợp với tình tiết bi tráng mang màu sắc sử
thi, ngôn ngữ giàu chất nhạc họa. Nhà thơ sử dụng những biện pháp tu từ đặc
sắc: đối, nhân hóa, nói giảm nói tránh, liệt kê các địa danh, ngôn từ chắt lọc, tinh
tế, sáng tạo...
Khép trang sách lại, nhưng đoạn thơ vẫn để lại dư ba trong lịng người đọc những
âm hưởng tuyệt diệu. Khơng chỉ tuyệt ở câu chữ ngôn từ của một hồn thơ lãng
mạn tài hoa mà còn tuyệt bởi cái chất bi, chất hùng tốt lên từ cảm hứng, hình
tượng nghệ thuật. Nó khiến ta không chỉ thêm yêu - tự hào; mà còn nhắc nhở
các thế hệ, nhất là giới trẻ trân trọng, tri ân các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì
nền độc lập dân tộc; đồng thời cần phải có trách nhiệm trong việc xây dựng, gìn
giữ non sơng gấm vóc của Tổ quốc. Đúng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết

trong “Trường ca mặt đường khát vọng”:
".. Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời ”

III – Kết bài
Đoạn thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng
khống của nhà thơ Quang Dũng; đã vẽ lên bức tranh sinh động , có chiều sâu về
cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng
vĩ thơ mộng miền Tây. Qua đó , ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha
thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân
Tây Tiến – một thời hoa lửa mãi mãi để nhớ và tự hào. Xin được mượn bốn câu
thơ của Giang Nam - thay cho lời kết:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy.
Vẫn sống muôn đời với núi sông”


ĐỀ 2: 8 CÂU TIẾP
Phân tích:

ĐỀ 3: 8 CÂU TIẾP
I - Mở bài
(Như đề 1)
II - Thân bài
1. Khái quát chung - HCST – XX:
- Ý 1: Như đề 1
- Ý 2: Đoạn thơ phân tích là đoạn ba của bài thơ, tiêu biểu cho phong cách nghệ

thuật thơ QD. Có thể nói , tinh hoa của hồn thơ Quang Dũng được lắng đọng
trong tám câu thơ miêu tả hình tượng bi tráng của người lính Tây Tiến.
2. Phân tích
LĐ 1: Vẻ đẹp ngoại hình:
Ở những đoạn thơ trước đây, bút pháp lãng mạn hào hoa của Quang Dũng đã
khắc họa nỗi nhớ da diết về đồng đội cũ, về chiến trường xưa. Ở đó, ta bắt gặp
khung cảnh núi rừng Tây Bắc vừa khắc nghiệt, dữ dội, vừa thơ mộng, trữ tình.
Trên nền cảnh đó, hình ảnh đồn binh Tây Tiến được khắc họa mang vẻ đẹp hào
hùng và lãng mạn. Chính chất hào hoa lãng mạn đã nâng bước, tiếp thêm sức
mạnh để người lính Tây Tiến hành quân trên chặng đường gian khổ, khắc nghiệt,
đối mặt với hiểm nguy. Nhà thơ đã khắc họa một nỗi nhớ cồn cào, chơi vơi về
mảnh đất Tây Bắc với tình quân dân sâu nặng nghĩa tình. Tất cả như đã để lại ấn
tượng vô cùng đẹp đẽ trong cuộc kháng chiến chống Pháp vĩ đại của toàn dân
tộc.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng khơng chỉ nhớ núi rừng mà cịn nhớ những người
đồng đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử,
Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi
tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính
Tây Tiến để tạo nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của
cả đoàn quân. Mở đầu đoạn thơ, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp ngoại hình của
người lính Tây Tiến qua những nét hiện thực khốc liệt của chiến tranh:


"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm"
Câu thơ gợi nét tinh nghịch của người lính nhưng thực chất nó đã phản ánh sự
gian khổ trên con đường hành quân của đoàn binh. Quang Dũng trong bài thơ
này cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác đó và sự hi
sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, hiện thực nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua
một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc đánh giáp lá

cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người
lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt. Nơi
rừng thiêng nước độc, bệnh tật hành hạ khiến họ ốm yếu, xanh xao. Nhà thơ
Chính Hữu trong bài “Đồng chí” cũng đề cập đến căn bệnh này :
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng viết về căn bệnh sốt
rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:
“Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”.
Cái hình hài khơng lấy gì làm đẹp "qn xanh màu lá", "khơng mọc tóc" tương phản
với "dữ oai hùm" là một nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang,
tinh thần quá cảm xung phong ra trận của các chiến binh Tây Tiến từng cho
quân giặc phải khiếp sợ. Đó chính là chất thép, tinh thần thép của người chiến sĩ
Cách mạng. "Dữ oai hùm" là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang
tính kế thừa sáng tạo của Quang Dũng, khiến người đọc liên tưởng tới các chiến
binh "Sát Thát" đời Trần:
" Tam qn tỳ hổ khí thơn Ngưu"
(Phạm Ngũ Lão).
Một dân tộc anh hùng trên trận tuyến đánh quân thù, thời đại nào cũng có
những chiến sĩ "tì hổ" và "dữ oai hùm" như thế đó ! Với niềm tự hào, Quang Dũng
đã viết nên một câu thơ rất hay:
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"


lấy cái "thô", cái "mộc" để tô đậm cái đẹp, cái dũng khí ẩn chứa trong tâm hồn
người chiến sĩ.
LĐ 2: Vẻ đẹp tâm hồn:
Trong hoài niệm của nhà thơ, chiến binh Tây Tiến khơng chỉ đẹp về ngoại hình
mà còn đẹp cả về tâm hồn với những nét họa thật lãng mạn:

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật... mn lần khó khăn, thử thách nhưng họ
vẫn có những giấc “mơ”, giấc "mộng" rất đẹp. Mộng và mơ gửi về hai phía chân
trời: biên giới - nơi cịn đầy bóng giặc, là giấc mộng bảo vệ nhân dân và Hà Nội
yêu dấu với những bóng dáng thân u. "Mắt trừng" - đó là hình ảnh đơi mắt nở
to, nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ, thề sống chết với giặc, gợi tả
nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong
khói lửa ác liệt. "Mộng qua biên giới" - mộng tiêu diệt quân thù, bảo vệ biên
cương, lập nên bao chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn binh
Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà
thành "xếp bút nghiêng theo việc đạo, cung", giàu lòng yêu nước, phong độ hào
hoa:
" Từ thuở mang gươm đi giữ nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long "
(Huỳnh Văn Nghệ).
Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù,
nhưng các anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao được những mùi hương hoa sữa,
những phố cũ trường xưa, "Những phố dài xao xác hơi may" ?... Quên sao được
những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những "dáng kiều thơm" từng hị
hẹn. Hình ảnh "dáng kiều thơm" trong câu thơ của Quang Dũng đem đến cho
người đọc nhiều thú vị: ngơn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến"
nhưng dưới ngịi bút nhà thơ - chiến sĩ, nó trở nên có hồn, đặc tả chất lính hào
hoa, trẻ trung lãng mạn của người lính trẻ Tây Tiến trong trận mạc.
LĐ 3: Lí tưởng sống và sự hi sinh cao đẹp:


Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ
trong giới làm nghệ thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng qn
mình đó khơng cịn sự bi lụy, thê lương:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chăng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Trong kí ức của mình, Quang Dũng nhiều lần nói đến sự hi sinh của những người
lính Tây Tiến, những đồng đội đã ngã xuống trên chiến trường miền Tây, nằm lại
nơi chân đèo góc núi. Nấm mồ người chiến sĩ "rải rác biên cương". Câu thơ với
những từ ngữ Hán Việt đã để lại trong lịng ta nhiều thương cảm, biết ơn, tự hào
vì sự hi sinh của những người lính. Song sự xót thương ấy không vùi dập tinh thần
Tây Tiến, trái lại được nâng đỡ trên đôi cánh lý tưởng cao đẹp, trên đôi cánh của
tâm hồn lãng mạn bay bổng. Đảo cấu trúc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
khiến cho giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn, nâng cao chí khí và
tầm vóc người lính. Các anh đã ra trận vì một lí tưởng rất đẹp. "Đời xanh" là đời
trai trẻ, là tuổi thanh xuân của "Những anh trai chưa trắng nợ anh hùng...", những
học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn của chí khí làm
trai. Từ phủ định “chẳng tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý tưởng cao đẹp của
binh đồn Tây Tiến. Họ tự nguyện xơng pha chiến trận khi Tổ quốc lâm nguy:
“Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa”
Câu thơ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh" vang lên như một lời thề thiêng
liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu để bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ
quốc. Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm
sắt đá: "Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
khơng chịu làm nơ lệ". Sương giăng hay khói lửa cũng chẳng làm mờ đi hình tượng
người lính.
Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái chết. Khép lại đoạn thơ bằng
hình ảnh:
"Áo bào thay chiếu anh về đất



Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Quang Dũng một lần nữa bị tráng hóa cái chết của những người lính Tây Tiến.
Xuất thân từ "những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng hồn mười phương phất
phơ cờ đỏ thắm của đất Hà thành hào hoa", họ lên đường theo tiếng gọi của Tổ
quốc. Những người lính bước chân vào trận chiến với âm vang truyền thống hào
hùng của ông cha. Những bước chân nát đá muôn tàn lửa bay của các anh gợi
nhắc đến âm vang của tiếng sông Bạch Đằng, tiếng thúc voi ra trận của bà Trưng
bà Triệu, tiếng sát thát ngất trời hào khí Đơng A của vua tôi nhà Trần, tiếng trống
trận đại phá quân Thanh của vua Quang Trung... để tạo thành khí thế hừng hực
của thời đại với lời thề "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Các anh sẵn sàng đổi
diện với cái chết để tìm sự sống cho mai sau. Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp đầy cam go khốc liệt ấy, đã có những người lính ngã xuống vì bệnh tật, vì
bom đạn của kẻ thù. Khi xưa, các tráng sĩ giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc
thây làm niềm kiêu hãnh; còn nay, các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ,
với tấm áo bào" bình dị ấy: "anh về đất", về với vòng tay của Mẹ Tổ quốc thân yêu.
Nhà thơ không dùng từ "chết", từ "hi sinh" mà dùng cách nói giảm, nói tránh "về
đất" để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản, nhẹ nhàng
coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của chiến binh Tây Tiến, những con người đã
chiến đấu và sẵn sàng chết vì quê hương, Đất nước. Các anh chỉ trở về đất mẹ sau
một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thơi:
“Máu người hóa ngọc lung linh giữa đồi
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hóa mọi lời ca
Có những con người như chân lý sinh ra.”
(Tố Hữu)
Và cái chết của họ làm chấn động cả thiên nhiên vũ trụ, làm cho lá cờ Cách mạng
Việt Nam thêm đỏ thắm, làm cho tinh thần Việt Nam thêm bất khuất, kiên cường.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Trong mạch cảm xúc của Quang Dũng, dường như dịng sơng Mã chảy xiết hơn,

lao chảy cuồn cuộn giữa khơng gian núi đồi biên cương kì vĩ và gầm vang những
thanh âm dữ dội, cất lên khúc ca bi tráng để tiễn đưa linh hồn những người con
ưu tú về với đất mẹ. Các anh ngã xuống, nhưng hình ảnh của các anh là bất tử,
hình ảnh các anh trở thành hồn thiêng của sông núi. Câu thơ “Sông Mã gầm lên


khúc độc hành” là một câu thơ hay vì gợi tả được khơng khí thiêng liêng, trang
trọng đồng thời tạo nên âm điệu trầm hùng, tiếc thương, ngay cả chúa rừng xanh
cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sơng núi như dâng một khúc ca
hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho khí thế đoàn
quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải tiếp tục chiến
đấu vì lý tưởng vì quê hương, vì trả thù.
LĐ 4: Nét đặc sắc về NT:
Có thể nói, khổ thơ này mang đậm phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng, với
bút pháp lãng mạn kết hợp với yếu tố hiện thực, sử dụng các từ Hán Việt, ngơn
ngữ giàu hình ảnh đã làm nổi bật được tượng đài bi tráng của người lính Tây Tiến
trong không gian và chiều dài lịch sử.
Khép trang sách lại, nhưng đoạn thơ vẫn để lại dư ba trong lịng người đọc những
âm hưởng tuyệt diệu. Khơng chỉ tuyệt ở câu chữ ngôn từ của một hồn thơ lãng
mạn tài hoa mà còn tuyệt bởi cái chất bi, chất hùng tốt lên từ cảm hứng, hình
tượng nghệ thuật. Nó khiến ta không chỉ thêm yêu - tự hào; mà còn nhắc nhở
các thế hệ, nhất là giới trẻ trân trọng, tri ân các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì
nền độc lập dân tộc; đồng thời cần phải có trách nhiệm trong việc xây dựng, gìn
giữ non sơng gấm vóc của Tổ quốc. Đúng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết
trong “Trường ca mặt đường khát vọng”:
".. Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời ”


III.Kết bài:
Năm tháng sẽ qua đi, nhưng kí ức về một thời hoa lửa sẽ cịn mãi, hình ảnh của
các chiến binh Tây Tiến oai hùng một đi không trở lại sẽ mãi lưu danh với núi
sơng. Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế, sau này
chỉ mong những người khai phá con chữ nâng niu vần thơ ông một chút. Hãy bắt
đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành cho hồi ức, hồi ức về những
năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi tráng, kiêu
hùng… Xin mượn bốn câu thơ của Giang Nam thay cho lời kết:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói


Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông.”

❖ “VIỆT BẮC”
I – Mở bài
“ Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, bể bạc
Khơng cịn người bỏ xác bên đường ray.”
Nhà thơ Chế Lan Viên đã thả dịng cảm xúc xót xa cho một dân tộc anh hùng vào
những ca từ chan chứa nước mắt. Chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ,
quân và dân ta đều đồng lòng với một nguyện ước độc lập và tự do. Xuyên suốt
chặng đường cách mạng của dân tộc, Tố Hữu cũng đã dõi theo, ghi nhận, ngợi ca
và xúc cảm những vần thơ đầy ắp ân tình. Trong đó, “Việt Bắc” có thể được coi là
đỉnh cao của sự nghiệp thơ ca của nhà thơ, của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Cả bài thơ là một hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến
khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng để lại ấn tượng sâu
đậm nhất trong bài ca “Việt Bắc” có lẽ là … – kết tinh của tư tưởng, tình cảm lưu

luyến, bịn rịn của người đi kẻ ở:
“Mình đi mình có...
...mái đình, cây đa.”
II – Thân bài
1. KQC
Tháng 7/1954 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hồ bình được
lập lại, miền Bắc nước ta hồn tồn giải phóng, một trang sử mới mở ra cho đất
nước. Tháng 10/1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước chuyển từ căn


cứ địa về thủ đơ. Nhân sự kiện mang tính lịch sử ấy, bài thơ “Việt Bắc” đã ra đời.
Nó khơng cịn là tình cảm riêng của Tố Hữu mà cịn tiêu biểu cho tình cảm của
người kháng chiến miền xuôi đối với chiến khu cách mạng, với đất nước, với nhân
dân. "Việt Bắc" là bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao vời vợi của thơ Tố
Hữu. Nhà thơ đã không làm bản tổng kết về cuộc kháng chiến, ko làm bản thơng
tin về sự kiện chính trị kia mà đã trữ tình hố tất cả những nội dung thấm đẫm
màu sắc chính trị đó. Người ta đã mang lý lúc nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy
trái tim để trở thành trí tuệ", nghĩa là từ xúc cảm mãnh liệt của trái tim mà thức
nhận những chân lý sống, chân lý cách mạng.
2. Phân tích

Đề 1: 8 câu đầu
LĐ1: Lời ng ở lại
8 câu thơ đầu là dòng tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến, bịn rịn khi giờ phút
chia tay đã điểm, đậm tô tình cảm của đồng bào miền núi với cán bộ chiến sĩ.
Ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trị chuyện tâm tình, những câu
hát đối đáp giữa "mình" và "ta" vơ cùng tha thiết, mặn nồng. Tố Hữu đã sử dụng
những cặp từ đối đáp rất thân thuộc trong ca dao giao duyên để cuộc chia tay
trở nên đằm thắm như của lứa đôi yêu nhau. Những chữ "mình", "ta" từ câu thơ
mở đầu cho tới những dòng thơ cuối cùng liên tiếp khơi gợi những tình cảm

khơng bao giờ phai nhạt giữa Việt Bắc và cách mạng, kháng chiến:
“Mình đi mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn.”
Trong cuộc tiễn đưa đầy quyến luyến của Việt Bắc đối với người về xuôi, khúc
hát chia tay đã được khởi dựng lên từ chính lịng người ở lại. Tố Hữu như muốn
nói lòng người Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào. Sự trở đi trở
lại tiếng gọi đối với "mình" như để nói lịng người Việt Bắc khơng hề ngi nhớ
người về xi, vấn vít lấy nhau như sự gắn bó ko muốn chia xa giữa người ở và
người về. Một chữ "ta" ở cuối làm cho tình cảm thương nhớ vừa lắng vào lòng
người trong cuộc chia tay lại vừa lan xa mênh mang.


Kết cấu của hai câu thơ mở đầu là kết cấu của một thắc mắc tu từ. Nghi vấn
thường mang tác dụng để hỏi nhưng ở đây thắc mắc lại khơi gợi những kỉ niệm
đầy xúc động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với Việt Bắc để làm nên một Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Bởi lẽ Tố Hữu đã sử dụng một thứ tiếng nói tràn đầy xúc
cảm. Thời gian “ấy” được tính từ năm 1940, sau khởi nghĩa Bắc Sơn, cho đến
tháng 10/1954 là vừa đúng 15 năm. Những chữ "mười lăm năm đó" gợi ta nhớ tới
"cái thuở ban sơ" của tình yêu đã từng được nói tới trong câu thơ của Lưu Trọng
Lư:
"Cái thuở ban sơ lưu luyến đó
Nghìn năm hồ dễ đã người nào quên"
Người về làm sao có thể quên được 15 năm đó của mối tình đầu giữa cách mạng
và Việt Bắc. Cùng với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ, những tình
cảm "nghìn năm hồ dễ đã người nào quên", câu thơ còn được tiếp tục bởi những
chữ "thiết tha mặn nồng". Từ láy “thiết tha” như dồn nén cảm xúc của nhân vật trữ
tình. Đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Quyền đã nhận xét: “15 năm ấy
không chỉ đo bằng thước đo thời gian mà cịn đo bằng thước đo tình cảm con người.

Đó chính là thứ thuốc thử, làm tăng thêm sự gắn bó keo sơn.“
Ở hai dòng thơ tiếp theo lại là thắc mắc bao trùm cả khơng gian.
“Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn.”
Dường như lịng người ở lại đang trăn trở một nỗi niềm: cán bộ nhìn cây có nhớ
núi rừng Việt Bắc khơng, nhìn sơng có nhớ cội nguồn Cách mạng khơng? Câu thơ
giống như một lời dặn dị, nhắc nhở kín đáo mà thiết tha. Nhà thơ đã phân thân
vào cả người đi và kẻ ở để hiểu nỗi lòng và tâm tư từ hai phía.
(Cái đặc sắc của câu thơ khơng chỉ thể hiện qua kết cấu của những nghi vấn, qua
từ ngữ xưng hơ tình tứ mà cịn qua những hình ảnh như được viết ra từ thể hứng,
thể phú, thể tỉ trong ca dao. Đọc 4 câu thơ mà ta cứ ngỡ như câu ca dao:
"Qua đình ngả nón trơng đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trơng cầu
Cầu bao nhiêu nhịp dạ sầu bấy nhiêu")


Thơ Tố Hữu viết về những vấn đề chính trị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân
ca. Chất trữ tình gắn liền với những băn khoăn, trằn trọc của người ở lại, của Việt
Bắc vô cùng thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi
nguồn cho sợi chỉ xúc cảm xuyên suốt "Việt Bắc" hết sức đặc sắc. Mạch thơ trong
những câu mở đầu này cứ vậy mà tuôn chảy dào dạt.
LĐ2: Lời của người ra đi
Nằm trong mạch hát đối đáp, bài thơ đã dành đúng 4 dòng thơ diễn tả tâm
trạng người về xuôi, tạo nên sự cân đối với 4 dòng thơ mở đầu, tạo nên sự tương
xứng của lòng người về xuôi sự thuỷ chung của Việt Bắc. Ở 4 dòng thơ này như
mang sự thương nhớ đáp lại thương nhớ, tha thiết đáp lại với thiết tha, cái bịn rịn
không nỡ rời chân đáp lại cái mặn nồng của người ở lại:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn"
Chỉ một chữ "ai" thơi đủ làm say đắm lịng người. Chữ "ai" là đại từ phiếm chỉ để

chỉ chung, chỉ một đối tượng không xác định bởi ở đây cả "ta" lẫn "mình" đang lên
tiếng hát cho cuộc chia tay đầy lưu luyến này, tăng thêm tình cảm yêu thương, để
câu nói trở nên tình tứ hơn. Người về xi trong nỗi niềm xúc động như mở rộng
tâm hồn, mở rộng nỗi lịng của mình để đón nhận sự thiết tha của những tình
cảm thuỷ chung kia, để rồi bộc bạch tình cảm của mình:
“Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
Câu thơ ngắt nhịp 4/4 với hai vế câu tiểu đối trong mối tương quan đối lập giữa
bên trong và bên ngồi. Trong dạ thì bâng khng, nhớ nhung, lưu luyến, vui
buồn lẫn lộn. Buồn vì xa Việt Bắc, vui vì trở về thủ đơ, mà trong thời khắc ấy,
buồn lại nhiều hơn vui. “Bâng khuâng” chính là nỗi niềm thương nhớ đối với
cảnh, với người, với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến,
những kỉ niệm cịn vương vấn, cịn dâng đầy trong tâm trí người về xi. Bước
chân về xi mà lịng dường như vẫn còn day dứt với Việt Bắc. Còn "bồn chồn" là
một từ đã tâm trạng hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡ rời
mảnh đất yêu thương qua 15 năm đó. Mỗi bước đi mỗi bước nhớ nhung, mỗi
bước đi mỗi bước không yên bởi nỗi niềm thương nhớ đó.
Với câu thơ tiếp ở khổ thơ này, Tố Hữu đã bất thần làm hiện ra ý nghĩa lịch sử
của cuộc chia tay. Đột nhiên cuộc chia tay chỉ giữa “mình” và “ta”trở thành cuộc
chia tay đầy nước mắt của cả Việt Bắc đối với người kháng chiến từ một hình ảnh
hốn dụ:
"Áo chàm đưa buổi phân ly"


Buổi chia tay cịn có cả hình ảnh "áo chàm" – chiếc áo thân thương, giản dị, sâu
nặng nghĩa tình – được sử dụng để chỉ hình ảnh của nhân dân Việt Bắc trong thủ
pháp hốn dụ. Chính màu áo ấy đã góp phần to lớn vào chiến thắng năm châu,
chấn động địa cầu. Từ “phân ly” nghe thật xót xa, gợi nên sự chia cắt mà lịng
người khơng nỡ rời xa. Tình cảm ấy được thể hiện rõ ràng hơn ở câu tiếp theo. Có
thể nói, đó là đỉnh cao của cảm xúc dâng trào:
"Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay..."

Đơi khi im lặng là đỉnh cao của âm thanh. Khơng phải là khơng có gì để nói mà
ngược lại, có q nhiều điều để nói, vì q xúc động nên khơng thể nói nên lời.
Vậy nên chỉ cần một cử chỉ cầm tay đã đủ để nói lên tình cảm gắn bó giữa đồng
bào Việt Bắc và chiến sĩ, đủ để trao đổi tất cả nỗi niềm. Ba dấu chấm lửng đặt ở
cuối câu như càng tăng thêm cái tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng
trong một khn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài và sâu lắng. (Câu thơ lục bát
vốn mang kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang mẫu dìu dặt của khúc hát
chia tay, đã chuyển thành nhịp lẻ: 3/3/2. Tiết điệu đó gợi ta nhớ tới cảnh chia tay
trong câu thơ
"Bước đi một bước, giây giây lại giới hạn"
Sự thay đổi tiết điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ mang sự đổi mới đối với
xúc cảm của người đọc.)

ĐỀ 2: 12 câu tiếp:
Sau những băn khoăn của Việt Bắc đối với tình cảm của người về xi là tiếng
hát đầy tình nghĩa của kẻ đi, là sự khẳng định niềm thuỷ chung của cách mạng
đối với Việt Bắc. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một dòng chảy của những
kỉ niệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha thiết. Và đặc thù ở những câu 6, chữ "mình" tha
thiết bao giờ cũng gắn với chữ "đi" đầy thương nhớ (ở đây về cũng là đi, đi cũng là
về, bao giờ cũng kèm với chữ "nhớ", mới thấy người ở lại lưu luyến kể về xuôi biết
bao.
Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ “mười
lăm năm ấy" với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với núi với nguồn
thân thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ sau đa hướng tới những kỉ niệm
thật cụ thể, xúc động. Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi,
những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang
đến gần. (Sự đắp đối nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6; sự đăng đối trong
hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga,



dìu dắt ngọt ngào trong đoạn thơ. Nhạc điệu trữ tình ấy) đã góp phần thể hiện
tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở lẫn người đi để từ
đó, quá khứ đầy ắp kỉ niệm ào ạt trở về.
4 câu thơ mở ra, chúng ta bắt gặp những câu hỏi tu từ mà người Việt Bắc hỏi
người ra đi, gợi nhớ những kỉ niệm kháng chiến đầy gian khổ:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Những câu hỏi tha thiết của người ở lại vang lên rất đỗi ngọt ngào kết hợp với
điệp từ “nhớ” khắc họa rõ nét tâm trạng người ở lại. Đó là nỗi băn khoăn lo lắng
liệu cán bộ về xi có nhớ chiến khu Việt Bắc nữa hay không? Câu hỏi như khơi
gợi: Mình đi có nhớ những ngày tháng sống chung với lũ, chịu đựng thời tiết khắc
nghiệt, mây cùng mù. Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người
ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với
"mưa nguồn", "suối lũ", "lau xám”, "mây mù... tới cuộc sống kháng chiến gian khổ,
thiếu thốn với "miếng cơm chấm muối", (từ những trang sử hào hùng khi kháng
Nhật, thuở còn Việt Minh” tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng
chiến nơi "Tân Trào", "Hồng Thái”... ) Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ,
thiết thốn khi nhường nhau "miếng cơm chấm muối" đến những tâm tư nỗi niềm
khi chung nhau "mối thù nặng vai”, họ đã sát cánh bên nhau trong những năm
tháng ác liệt hào hùng từ thời mặt trận Việt minh tới chín năm kháng chiến
chống Pháp. Sự sẻ chia trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa
tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp
trong tâm hồn dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một
lịng với cách mạng và kháng chiến.
Những gắn bó ân tình suốt mười lăm năm ấy đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung
và cảm giác trống vắng cho núi rừng khi chia biệt:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, năng mai để già.”

Câu sáu vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi
mà chỉ để thể hiện nỗi lòng người ở lại. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với hốn dụ


“rừng núi nhớ ai” gợi lên nỗi niềm bâng khuâng da diết. "Rừng núi” là hoán dụ cho
người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, “ai” chính là
"mình", người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ
gián tiếp khiến qua cách nói tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng
thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình ảnh người đi càng trở nên xa xôi
hơn trong ánh mắt nhớ nhung của người dân Việt Bắc mộc mạc, chân thành. Câu
8 gồm hai về đối xứng nhắc đến "trám bùi" và "măng mai” - những sản vật quen
thuộc và quý giá của núi rừng. Phép điện trong cấu trúc "để rụng...để già” gợi lên
hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như hoang phế sau lưng người đi
cùng cảm giác buồn bã, hẫng hụt, trống trải trong lòng người ở lại. Dường như
sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt,
măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu – người ra đi đã để lại một khoảng
trống mênh mơng trong lịng người Việt Bắc giữa heo hút núi rừng.
Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng. Câu hỏi:
“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.”
là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng bao giờ quên những con
người nghèo khổ mà son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng
chiến. Phép tương phản trong hai tiểu đổi của câu 8 đã trở thành những nét khắc
hoa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. "Hắt hiu lau xám” vừa là
hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa
mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân nơi đây. "Nhà” là
hốn dụ cho con người, "đậm đà lịng son” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tấm lịng
trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính
màu làu xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt,
thủy chung.

Câu thơ "Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào nét nghĩa
khác nhau của từ "mình”. Cuối câu thơ, có thể hiểu chữ "mình” ấy là "ta” – người ở
lại, khi ấy câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn trở:
mình về, mình có nhớ ta – mình đi, mình có cịn nhớ đến ta khơng, đây cũng là
nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập gắn kết
thật đằm thắm giữa ta và mình, tuy hai mà một, khơng thể chia xa, khơng thể
tách rời. Lại cũng có thể hiểu "mình” là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời
nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có nhớ và có giữ được
mãi là mình ngày xưa ấy, con người mà ta đã yêu mến, trân trọng, nhớ thương, có
mãi cịn, là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung nhân hậu đã sát cánh bên


ta trong kháng chiến, đã cùng ta chia ngọt sẻ bùi trong suốt mười lắm năm ấy?
Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc : đừng đánh mất chính con người mình
trong cuộc sống phồn hoa đơ hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữa rừng khi
đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng
chiến gian khổ, hào hùng khi trở về với cuộc sống hịa bình!
Đoạn thơ nối tiếp bằng lời khẳng định lại một lần nữa tấm lịng gắn bó sắt son
của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến lí do của tình u, nỗi nhớ và đạo lí
thủy chung trong lịng người đi:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.”
Câu thơ được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi "Mái đình Hồng
Thái, cây đa Tân Trào” được tách ra trong hai vế với những tập hợp ngôn từ mới
mẻ. Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: Tân Trào, đình Hồng Thái, đó là những địa
danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của do là nơi họp Quốc dân
Đại hội 8/1945, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi
nghĩa. Vế sau là hai danh từ chung trong đó "mái đình cây đa” chính là những
hình ảnh quen thuộc của người dân Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hị, là khơng
gian gần gũi thân yêu với cả cộng động và đôi lứa. Hai tiểu đổi trong câu thơ đã

thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến: những
sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng liêng,
thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người, những địa danh gắn với các sự
kiện quan trọng của cách mạng và không chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa,
bến nước, con đị, tình cảm của người dân Việt Bắc dành cho những người kháng
chiến cũng trở nên thân u như tình làng nghĩa xóm hay tình u lứa đơi...

ĐỀ 3:
Có thể nhận ra ngơn ngữ giao đổi trong đoạn thơ đầu, sau những câu hỏi trăn trở
của người ở lại là những đồng vọng xao xuyến của người ra đi. Bốn câu cuối của
đoạn thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung son sắt của người ra đi khi
từ biệt quê hương cách mạng về xuôi.
“Ta với mình, mình với ta
Lịng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình


Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”
Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó “ta” và “mình” khơng chỉ sóng đơi, thành
cặp, lặp lại mà cịn hốn đổi vị trí cho nhau. Kết cấu ngơn ngữ đặc sắc ấy đã gợi
tả sự quấn qt, giao hịa giữa người đi, kẻ ở khăng khít khơng thể tách rời. Câu
thơ sau cũng thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa mình và ta là một lời khẳng định
sắt son của người ra đi:
“Lòng ta sau trước mặn mà đỉnh ninh.”
Nghĩa tiếng hán của cụm từ "sau trước” chính là "thủy chung”, sống có trước có
sau là đạo lí thủy chung truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng
ý thơ không chỉ khẳng định sự thủy chung mà cịn lí giải sự thủy chung một cách
sâu xa, thuyết phục. "Sau trước” cịn gợi một khoảng khơng gian dài từ trước đến
sau, từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai, thời gian khiến con người thêm hiểu
lòng nhau. Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, khi cùng nhau

chung vai gánh vác những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình,
tình cảm giữa họ thêm mặn mà, đằm thắm. "Đinh ninh” là chắc chắn, là khơng
qn, khơng đổi, tình cảm đã mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời
gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi. Hai câu cuối như một lời thề chung thủy:
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu
xa: "mình đi, mình có nhớ mình” thì người đi cũng trả lời trong một sự hơ ứng,
đồng vọng, đồng cảm: "mình đi, mình lại nhớ mình”. Vẫn là cách sử dụng tinh tế
đại từ "mình” ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa: nếu hiểu "mình” là người ở lại,
câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người có
sự gắn bó, hịa nhập sâu sắc bởi ta với mình tuy một mà hai; nếu hiểu "mình” là
người đi câu thơ sẽ là lời khẳng định: ánh đèn thành phố và cuộc sống hịa bình
sẽ khơng bao giờ có thể khiến người trở về qn vàng trăng tình nghĩa, khơng
bao giờ qn q khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng khơng bao giờ đánh mất chính
mình, khơng bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc. Câu tám xuất hiện một
hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao "đình bao nhiêu ngơi thương mình
bấy nhiêu”. Hình ảnh "nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” trước hết đã
nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu
tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng, hiện hữu nhà nước trong nguồn,
đầy ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn cịn gợi những
suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thủy chung tình nghĩa "uống nước nhớ


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×