Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.27 KB, 9 trang )

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG ?
Hồng Phủ Ngọc Tường

I. GIỚI THIỆU:
1. Tác giả:
- Là một người con của xứ Huế.
- Là một trong những nhà văn chuyên về bút kí với đề tài khá rộng lớn.
Tác phẩm của ông thể hiện những nét riêng về cảnh sắc và con người
khắp mọi miền đất nước.
- Văn phong: Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình,
giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức
phong phú về nhiều lĩnh vực. Tất cả thể hiện qua lối hành văn hướng nội,
súc tích, mê đắm tài hoa.
- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
a) Xuất xứ: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách
cùng tên.
b) Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần.
Vị trí văn bản: là phần đầu của bút kí.
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN:
1. Hình tượng sơng Hương:
a) Vẻ đẹp Sơng Hương từ góc độ cảnh quan thiên nhiên (địa lí)
SH “thuộc về một thành phố duy nhất”  T/g không chỉ miêu tả
đặc điểm địa lí của SH mà cịn khắc họa tâm hồn, tình cảm của dịng sơng
với Huế. SH nặng tình, chung thủy với Huế. Ds gắn bó mật thiết với Huế,
là biểu tượng cho vẻ đẹp của Huế - mảnh đất cố đơ giàu bản sắc văn hóa,
lịch sử, truyền thống.
(SH bắt nguồn từ núi rừng Trường Sơn ở tỉnh Thừa Thiên Huế, chảy
xuôi về đồng bằng, qua thành phố Huế, đổ ra biển Đông)
A1) Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn:
- Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành mà


Liên hệ Sơng Đà: SH
khơng chú ý tìm hiểu SH từ nguồn cội, người ta khó hiểu hết vẻ đẹp “tâm
giống SD có 2 đặc điểm
hồn sâu thẳm” của dịng sơng mà chính nó khơng muốn bộc lộ. Nói đến
vừa hung bạo và trữ tình
nhưng khác SĐ ở chỗ 2
SH người ta chỉ nghĩ đến vẻ đẹp dịu dàng thơ mộng của nó. Nhưng trở về
đặc điểm này cùng xuất
cội nguồn của dịng sơng giữa núi rừng Trường Sơn, HPNT cịn thấy một
hiện ở thượng nguồn của
vẻ đẹp khác. Đó là một phát hiện sâu sắc và bất ngờ về SH.
SH (còn SĐ tách biệt ở
thượng nguồn hung bạo, hạ - Sông Hương - “bản trường ca của rừng già”với tiết tấu hùng tráng dữ
dội.
lưu trữ tình)
+ Con sơng vừa “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xốy như những cơn lốc vào đáy vực bí ẩn”. Câu văn
dài, nhiều vế với hàng loạt từ ngữ mạnh khơi dậy sự mạnh mẽ, bạo liệt,
dữ dội, hoang dã của dịng sơng.
+ vừa “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của
hoa đỗ qun rừng” dịng sơng rực rỡ sắc màu, thơ mộng làm ngất ngây
lịng người.
Biện pháp nhân hóa, so sánh, từ ngữ tạo hình, gợi tả chính xác đặc
điểm của sơng Hương ở thượng lưu với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, man dại, vừa
trữ tình say đắm lịng người.
- Nhà văn đã khéo léo so sánh sông Hương như một “cô gái di – gan

1



phóng khống và man dại”, “rừng già đã hun đúc” cho nó “một bản lĩnh
gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”
 hình ảnh nhân hóa đẹp và lạ, sông Hương thành một cô gái tràn đầy
sức sống, phóng khống, hoang dại mà tình tứ, quyến rũ, bí ẩn. Dịng
sơng phương đơng mang vẻ đẹp của cơ gái phương tây. Bằng tâm hồn
dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do đầy bất ngờ ấn tượng, dịng sơng càng
mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng nguồn.
- Khi ra khỏi rừng, Sơng Hương nhanh chóng thay đổi hình hài, tính
cách: “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa xứ sở”
 rừng già Trường Sơn đã thuần tính, chế ngự bản năng của dịng sơng.
Hình ảnh nhân hóa vẻ đẹp phong phú của dịng sơng.
+SH khơng chỉ bồi đắp phù sa cho ruộng vườn tốt tươi /
+ SH cịn góp phần hình thành, bồi đắp, gìn giữ bản sắc văn hóa cố đơ.
Vẻ đẹp của SH đã khơi nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật để từ đó bao
tác phẩm thơ ca nhạc họa ra đời. SH âm thầm chảy, lặng lẽ cống hiến qua
nhiều thế kỉ. Những trang kí của HPNT mang đến cho người đọc những
miền khơng gian xanh thẳm, ẩn chìm bao vết trầm tích văn hóa, lịch sử.
-Như vậy có thể thấy được qua ngịi bút phóng khống trữ tình của tác
giả, sơng Hương vùng thượng nguồn tốt lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy
cá tính. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khn mặt kinh thành mà khơng chú
ý tìm hiểu cội nguồn thì khó mà hiểu được hết các vẻ đẹp tâm hồn mà
bấy lâu sơng Hương vẫn hồi vùi sâu dưới chân núi Kim Phụng.
Sơ kết: Bằng những liên tưởng độc đáo, hình ảnh so sánh, nhân
hóa đẹp và lạ, lối viết gợi cảm tài hoa, tác giả đã giúp người đọc hiểu hơn
vẻ đẹp SH ở thượng nguồn ít người biết. Nhìn từ cội nguồn, SH gắn bó
sâu sắc với núi rừng Trường Sơn. Trong nét dịu dàng thơ mộng vẫn ẩn
chứa sự hoang dại mãnh liệt đầy bất ngờ bí ẩn. Con sơng mang linh hồn,
sự sống.
a2). Vẻ đẹp của sông Hương ở đồng bằng, ngoại vi thành phố Huế:

- Đoạn chảy qua vùng đồng bằng và ngoại thành: SH được ví "như người
gái đẹp đang nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa… được
người tình mong đợi đến đánh thức.  liên tưởng độc đáo bất ngờ. SH
trở thành người gái đẹp trong câu chuyện cổ tích được tình u đánh
thức. Khi con người khai phá, xây dựng TP Huế cũng là lúc đánh thức vẻ
đẹp, tình u của dịng sơng. Cuộc gặp gỡ của SH và TP Huế đẹp như
mối tình ngàn năm ấp ủ.
Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của t/g, tồn bộ thủy trình của
dịng sơng tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích
thực của người con gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
- Từ đó SH “chuyển dịng một cách liên tục, vịng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm” qua nhiều địa danh
ngã ba Tuần, Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán…
Bằng những câu văn dài được ngắt làm nhiều vế với hàng loạt các động
từ: “vịng, uốn, vẽ, ơm, đi, vượt, trơi..”, Hồng Phủ đã gợi tả được tâm
trạng đầy háo hức của dịng sơng trong hành trình tìm về với Huế. Dịng
chảy của sông Hương, cũng linh hoạt và nhạy cảm như chính tâm hồn
của nó, biến chuyển sống động khi qua những địa danh khác nhau.

2


Người gái đẹp sau khi được đánh thức đã bừng lên sức sống và niềm
khao khát của tuổi thanh xuân. Dịng sơng thật mềm mại, khoe ra vẻ
dun dáng, gợi cảm. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung
thủy của cố đô, SH đã trải qua một thủy trình gian truân và thử thách.
- Với kiến thức địa lí phong phú, nhà văn khơng chỉ miêu tả chân thực
dịng chảy trên bản đồ địa lí mà cịn khắc họa sự gắn kết sâu sắc với
những địa danh đặc trưng mang đậm màu sắc văn hóa của Huế. Càng
xi dần về Huế, sông Hương càng quyến rũ vô cùng. Bằng khả năng

quan sát tinh tường, trái tim tha thiết với quê hương, đã giúp HPNT miêu
tả tỉ mỉ, chính xác về sông Hương với vẻ đẹp thật phong phú:
+ Nhìn từ trên cao xuống con sơng mang vẻ đẹp dịu dàng mà mạnh mẽ:
dịng sơng vẫn đi trong “dư vang của Trường Sơn”, có lúc “dịng sơng
mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con
thoi”
+ Cảnh đẹp như bức tranh có đường nét, có hình khối khi “Nó trơi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột
ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo”
+ Lúc qua những dãy đồi phía Tây Nam thành phố, SH ánh lên những
mảng phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh , trưa vàng, chiều tím”. 
Đó là sự kết hợp kì diệu giữa màu nước SH, sắc trời và núi đồi xứ Huế
Liên hệ Sông Đà màu nước mộng mơ tạo nên vẻ đẹp đa màu mà biến ảo trong không gian và thời
thay đổi theo mùa: xuân
gian. Và như một cô gái điệu đà duyên dáng, sông Hương ánh lên những
xanh, thu đỏ
phản quang nhiều màu trên hành trình đến với người u.
+ Sơng Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy qua những rừng thông u tịch
với những lăng mộ âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
“Đó là vẻ đẹp trầm mặc … như triết lí, như cổ thi”  SH lắng đọng bao
vết trầm tích của lịch sử, văn hóa. Dịng sơng mang niềm tự hào về một
thời qúa khứ vàng son nhưng cũng lắm thăng trầm của cố đơ Huế. Vẻ đẹp
cổ kính mang cái hồn của Huế ẩn chứa niềm tự hào, yêu mến của t/g.
+ Và lạ lùng thay sơng Hương cịn mang trong mình vẻ đẹp của “màu
sắc triết lí cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa
Thiên Mụ”. Lúc này dịng sơng Hương dịu dàng ơm lấy chân đồi Thiên
Mụ, mặt nước phẳng lặng như lắng lịng trước khơng gian vơ thường từ
bi, rồi trở nên thanh bình yên ả phẳng lặng mãi đến lúc đi qua những
“xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Sơ kết: bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn, lối viết mê đắm

tài hoa, giàu chất trí tuệ mà thấm đẫm cảm xúc, ngôn ngữ giàu chất thơ,
khả năng quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, sự am hiểu sâu sắc về địa lí
- lịch sử - văn hóa Huế. HPNT đã tái hiện vẻ đẹp SH phong phú và đa
dạng, sinh động và hài hòa trong sự phối cảnh kì thú với thiên nhiên xứ
Huế.
Hồng Phủ Ngọc Tường tả sơng Hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh
hồn mĩ và tuyệt vời nhất về dịng sơng huyền thoại này. Sông Hương tạo
nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa
hàng nghìn năm lịch sử.
A3) Sơng Hương khi chảy vào thành phố đã gây được nhiều ấn tượng:
- Khi chảy vào TP Huế, SH “vui tươi hẳn lên giữa những bãi bờ xanh
biếc vùng ngoại ơ Kim Long”  dịng sơng mang tâm trạng của cô gái
đang yêu đến gặp người tình sau một hành trình gian truân.

3


- Dịng sơng “kéo một nét thẳng thực n tâm theo hướng tây nam TP” để
hội ngộ với cây cầu Tràng Tiền “6 vài 12 nhịp” bắc ngang dòng Hương
giang “Chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành
trăng non” hình ảnh so sánh gợi vẻ đẹp thơ mộng của dịng sơng trong
phối cảnh với cây cầu trắng và nền trời xanh. Chiếc cầu tô điểm thêm vẻ
đẹp người con gái Hương giang khi gặp người tình.
Cầu cong như chiếc lược ngà – Sơng dài mái tóc cung nga
bng hờ.(Nguyễn Bính)
- Trong cuộc gặp gỡ đẹp của mối tình ấp ủ ngàn năm, dịng sơng đặc biệt
chậm rãi, êm đềm, mềm mại hẳn đi “SH uốn một cánh cung rất nhẹ sang
đến cồn Hến, đường cong ấy làm cho dịng sơng như mềm hẳn đi, như
một tiếng vâng khơng nói ra của tình u”  diễn tả cái uốn mình mềm
mại của dịng Hương bằng một liên tưởng độc đáo, tinh tế, tài hoa mà rất

tình tứ. Cái hữu hình của dịng sơng chuyển thành dáng hình, tiếng nói,
tâm hồn cơ gái Huế dịu hiền, nết na, đằm thắm. Dịng sơng khơng cịn cái
phóng khống, man dại, quyến rũ bí ẩn của cơ gái Digan nữa mà trở nên
nhẹ nhàng, ngoan hiền như cô gái cố đơ.

Dưới mắt nhìn của tác giả,
sơng Hương vừa có nét
giống, lại rất khác những
dịng sơng kinh thành –
sơng Xen của Paris thơ
mộng và dịng sơng Đanp lãng mạn của
Bangladesh. Vẻ đẹp của
dịng sơng này được cảm
nhận dưới nhiều góc độ
khác nhau.

- Khi vào TP, SH tỏa thành nhiều nhánh như những cánh tay ơm ắp phố
thị, như muốn hịa tan vào cuộc sống nơi đây. Dịng sơng tạo nên cái hồn
cổ kính, vẻ đẹp đặc trưng cho Huế, mà ta không thể bắt gặp ở TP nào
khác. vẻ đẹp cổ kính của cố đơ “ Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên một
dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”, làm cho Huế tựa như “một linh
hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào cịn nhìn thấy
được.”
- Để miêu tả nhịp chảy chậm của sơng Hương giữa lịng TP Huế, tác giả
đã sử dụng rất nhiều hình ảnh, yếu tố:
+ So sánh sơng Hương với mặt hồ yên tĩnh. Chảy giữa lòng TP Huế, SH
“trơi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ cịn là một mặt hồ yên tĩnh”. Hình
ảnh so sánh cùng điệp từ “chậm”, ds như khơng chảy trơi.
+ HPNT cịn dùng cách so sánh đối lập SH với sông Neva trôi đi quá
nhanh đến độ tác giả không kịp vỗ tay khen ngợi. Con chim hải âu co

một chân đậu trên chiếc thuyền băng băng lướt qua trước cung điện
Pêtécbua cũ để đổ ra bể Bantích như một khám phá ngộ nghĩnh. Từ đó
làm bật vẻ đẹp chậm rãi của dịng sơng. Dù ở nơi xứ người, tình u q
hương xứ sở mãi đong đầy trong từng câu chữ.
+ Tác giả chợt chiêm nghiệm về sự chảy trơi của dịng sơng hay của dòng
đời, khi nghĩ về Hê-ra-clit, một triết gia Hy Lạp cổ “Khơng ai có thể tắm
hai lần trên một dịng sơng”. Nhưng điều này lại khơng đúng với SH vì
dịng chảy q chậm của nó.
+ Ví von điệu chảy này là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Cái
“điệu chảy lặng lờ” của dịng sơng chứa chan tình cảm, đẹp và gợi cảm
như một “điệu slow tình cảm riêng dành riêng cho Huế”. Dịng sơng đã
dành tặng một điệu chảy riêng cho Huế, sâu lắng và tình tứ. Nhà văn
khơng đi sâu lí giải lưu tốc của SH trên phương diện địa lí mà đặc biệt
cảm nhận trên phương diện tình cảm, tình u. Bằng lí lẽ của trái tim
“điệu chảy lặng lờ” “ngập ngừng như muốn đi muốn ở” của Sông Hương

4


là do tình cảm dành riêng cho Huế. SH như muốn ở mãi bên người tình
nên khơng chảy trơi.
Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật. “Trăm nghìn ánh hoa
đăng…. muốn đi muốn ở”  dịng sơng như nhớ như thương, gợi thi tứ
dào dạt. Điệu chảy lững lờ của Hương giang đã tạo khơng gian lí tưởng
cho những đêm ca Huế, những đêm hội hoa đăng…góp phần tơn tạo vẻ
đẹp văn hóa nơi cố đơ.

+ Nhiều tác giả đã miêu tả về nhịp chảy của sông Hương:
Con sông dùng dằng, con sông không chảy – Sông chảy vào lòng nên
Huế rất sâu. (Thu Bồn)

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay (Hàn Mặc Tử)
Dòng nước SH chảy lặng lờ - Ngàn thông núi Ngự đứng như mơ
(Đông Hồ)
Một năm, bốn mùa, mười hai tháng – Sông chưa trai tráng được bao
giờ (Tố Hữu)
 Với Hồng phủ Ngọc Tường, sơng Hương được miêu tả như một
khoảng lặng của không gian, như sự dùng dằng của thời gian, nhịp chảy
này cũng tạo nên một nét riêng cho nó.
Với ngơn ngữ đầy chất thơ và nhạc, đoạn văn miêu tả sông Hương đi
qua thành phố đã thể hiện rõ nhất tài hoa của nhà văn cùng tình cảm gắn
bó, say mê tự hào của tác giả với dịng sơng.
 SH được khắc họa trong mối tình kì diệu với Huế. Trong tình yêu ấy,
SH vừa dâng tặng cho Huế những điều tuyệt vời nhất, vừa khám phá,
hồn thiện vẻ đẹp của chính mình (từ dáng hình đến nhịp điệu tâm hồn).

Sơng Hương trở thành sinh thể có tâm hồn – một cơ gái đẹp duyên
dáng, trữ tình. Một sự lột xác khi gặp người tình nhân tri kỉ trong
cuộc tìm kiếm có ý thức. Hương giang thực sự là mình khi nằm
giữa thành phố Huế. Sự thay đổi của sông Hương không chỉ do cấu
trúc địa hình mà cịn là sự lắng đọng, kết tụ những giá trị văn hóa
Huế. Hình ảnh sông Hương là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn xứ
Huế.

* SH khi rời xa thành phố:
- SH mang vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” của Cồn Hến, rồi lưu
luyến ra đi trong màu xanh biếc của những bờ tre, lũy trúc và vườn cau
thơn Vĩ Dạ. “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên – Vườn ai mướt qúa
xanh như ngọc”
- Hành trình sơng Hương về với biển cả được được miêu tả như cuộc
chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Nhà văn đã sử dụng những hình ảnh so

sánh, nhân hóa, để gợi tả dịng Hương giang như một sinh thể có hồn, có
tâm trạng, như một cơ gái đang lưu luyến chia tay với người tình. Dường
như sông Hương không muốn xa thành phố:
o “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói. Nó đột ngột đổi
dịng rẽ ngoặt sang hướng Đơng Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao
Vinh… khúc quanh này thật bất ngờ…” Đối với Huế, nơi đây chính là
chỗ chia tay dõi xa ngồi mười dặm trường đình. Theo tác giả, riêng với

5


Hương giang, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó,
“khúc quanh này thực bất ngờ biết bao”.
-Trước sự tạo tác thú vị và hữu tình của tạo hóa, cuộc chia tay giữa
dịng sơng Hương với Huế khiến tác giả cũng bất ngờ. Chính Hồng phủ
Ngọc Tường cũng thốt lên: “có một cái gì lạ rất giống với con người ở
đây. Cũng theo tác giả, khúc quanh tựa như một “ nỗi vương vấn” và
dường như có cả “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu’’
 trong cái nhìn say đắm của một trái tim đa tình, SH là một người tình
dịu dàng và chung thủy. Nhà văn đã có một phát hiện độc đáo cái ngoặt
của dịng sơng chứa đầy tình ý, mang tâm tư lưu luyến, vấn vương của
một cô gái khi sắp chia xa người yêu. Sông Hương trở thành cô gái đa
tình nhưng kín đáo, có chút lẳng lơ nhưng rất đỗi chung tình.
Đầy yêu thương và thấu hiểu, HPNT đã ví von cái phút dùng dằng ấy
với nàng Kiều chí tình trở lại tìm chàng Kim. Sơng Hương trở lại “để
nói một lời thề trước khi về biển cả”, mãi sắt son, thủy chung với TP
Huế. Tác giả liên hệ: “Lời thề ấy vang vọng khắp khu vực sông Hương
thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi
mãi chung tình với q hương xứ sở”.
 SH được khắc họa trong mối tình kì diệu với Huế. Trong tình yêu ấy,

SH vừa dâng tặng cho Huế những điều tuyệt vời nhất, vừa khám phá,
hoàn thiện vẻ đẹp của chính mình (từ dáng hình đến nhịp điệu tâm hồn).
Tác giả khơng chỉ miêu tả dịng chảy của Hương giang trên bản đồ địa lí
mà cịn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm của cảnh sắc, con người xứ
Huế.
Sơ kết: Đoạn trích thể hiện nét lịch lãm, mê đắm, tài hoa của HPNT qua
khả năng quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm, những liên tưởng độc đáo,
lối hành văn giàu chất trí tuệ nhưng thấm đẫm cảm xúc, vốn hiểu biết sâu
rộng về địa lí, văn hóa, lịch sử. …
Bằng tình u say đắm, tác giả đã hóa thân thành một người tình,
một nhạc sĩ, một họa sĩ để cảm nhận tinh tế vẻ đẹp dịng sơng trên nhiều
phương diện, trong nhiều khơng gian và thời gian khác nhau. SH khơng
chỉ là dịng nước vơ tri vơ giác chảy giữa đơi bờ, mà nó gắn kết sâu sắc
với thiên nhiên và con người xứ Huế. SH tôn tạo vẻ đẹp cho cảnh sắc
thiên nhiên Huế và ngược lại, dịng sơng cũng hun đúc mọi âm vang của
sắc trời, văn hóa vùng đất cố đơ tạo nên xứ Huế sơn thủy hữu tình.
b. Vẻ đẹp sơng Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa:
b1/ Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế:
- “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya…
SH khơng chỉ là người tình dịu dàng, chung thủy của cố đơ, mà cịn mang
vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của người tài nữ, như nàng Kiều của Nguyễn Du.
- “Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành
trên mặt nước của dịng sơng này...trong một khoang thuyền nào đó,
giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”.
 Có lẽ vào những đêm khuya, trong khung cảnh tĩnh lặng của dịng
sơng, có thể nghe được tiếng chèo khuya, tiếng nước rơi. Những âm
thanh và vẻ đẹp thơ mộng của SH đã khơi nguồn cảm hứng những nghệ
nhân xưa để soạn ra những bản nhạc cổ điển, những điệu hị mái nhì mái
đẩy, gửi gắm vào đó cả tấm lịng với q hương. Phải có độ nhạy cảm về


6


thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới có sự liên tưởng
này.
Thuyền ai thấp thống bên sơng- Đưa câu mái đẩy chạnh lịng nước
non.
Chỉ có thể cảm hết cái hồn của nhạc Huế khi nghe trên dịng SH vào
buổi đêm, nơi khơng gian đã sinh thành nên nó. Bởi vậy tác giả thấy thất
vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hay trên sân khấu nhà hát.
- Với ngòi bút tài hoa và tâm hồn tinh tế, HPNT nhớ tới Nguyễn Du:
“Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến
trăng sầu.Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều….. rất giống với
Tứ đại cảnh”. Vẻ đẹp SH đã thấm vào hồn Nguyễn Du để rồi những câu
Kiều bất hủ ra đời. Những câu thơ miêu tả tiếng đàn của Kiều rất giống
bản nhạc cổ điển của Huế “Tứ đại cảnh”, bởi đều khơi nguồn từ dòng
Hương giang.
 SH là không gian sinh thành nên nền âm nhạc cổ điển của Huế.
B2> Tác giả cho rằng có một dịng thi ca về sơng Hương.
Đó là dịng thơ khơng lặp lại mình trong cảm hứng của các thi nhân, mỗi
nhà thơ phát hiện một vẻ đẹp của dịng sơng:
+ Dịng sơng thật gợi cảm, thơ mộng: “Dịng sơng trắng- lá cây
xanh” (Chơi xuân-Tản Đà) từ xanh biếc thường ngày, Hương giang thay
màu thật bất ngờ trong cảm nhận tinh tế của Tản Đà
+ Từ thướt tha mơ màng, dòng Hương chợt hùng tráng “Trường
giang như kiếm lập thanh thiên” trong khí phách của Cao Bá Qt.
+ Từ nỗi quan hồi vạn cổ trong “Trời chiều bảng lảng khói
hồng hơn” (Bà Huyện Thanh Quan)
+ dịng sơng “đột khởi thành sức mạnh phục sinh” trong hồn thơ
Tố Hữu. “Trên dòng Hương Giang-Em buông mái chèo-Trời trong veoNước trong veo….Răng không, cô gái trên sơng-Ngày mai cơ sẽ từ trong

ra ngồi-Thơm như hương nhụy hoa lài-Trong như nước suối ban mai
giữa rừng…” SH rất Kiều trong cảm nhận của Tố Hữu.
Bên cạnh đó còn biết bao bài thơ về dòng SH
+ Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được – Nét dịu dàng pha lẫn
trầm tư (Trương Tuyết Mai)
+ Nếu như chẳng có dòng Hương – Câu thơ xứ Huế giữa đường
đánh rơi
Sơ kết: Với những am hiểu sâu sắc về văn hóa nghệ thuật, tác giả
làm sống lại dịng sơng mà tên gọi của nó đã khơi nguồn cảm hứng sáng
tạo cho bao thế hệ nghệ sĩ. SH thay hình đổi dạng với vẻ đẹp muôn màu
trong những trang thơ, bản nhạc xuất phát từ những trái tim nặng tình với
Huế. SH đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa xứ Huế mộng mơ.
C/. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử:
* SH đã chứng kiến bao thăng trầm của các thời đại, đã sống những thế kỉ
vinh quang với nhiệm vụ lịch sử của nó:
- SH là dịng sơng biên thùy xa xơi thời các vua Hùng.
- Tên của dịng sơng Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn
Trãi: Linh giang”. Dịng sơng ấy đã bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt.
- Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với

7


tên tuổi của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”.
- Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến cơng
rung chuyển.
- Nó chứng kiến nỗi đau khi Huế bị đế quốc Mĩ ném bom tàn phá những
di sản văn hóa vào tết Mậu Thân 1968.
 Ngịi bút trữ tình của bút kí cùng với chất phóng sự ghi chép tái hiện

lịch sử hào hùng, anh dũng của SH và con người xứ Huế nói riêng, đất
nước nói chung.
* SH là “dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ
lá xanh biếc, khi nghe tiếng gọi nó biết tự hiến đời mình làm nên một
chiến cơng để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường làm người con gái
dịu dàng của đất nước”
 SH gắn liền với con người, lắng đọng bao trầm tích của lịch sử. SH là
áng sử thi hào hùng bất khuất nhưng cũng đẹp thơ mộng, trữ tình. Trong
đấu tranh, dịng sơng anh dũng tạo nên chiến cơng. Trở lại đời thường, ds
là người con gái dịu dàng của đất nước.
HPNT đã liên tưởng đến sắc áo cưới của Huế ngày xưa màu xanh chàm
lồng vào màu đỏ tạo nên sắc tím đặc trưng của xứ Huế, cũng như khói
sương lãng đãng trên dịng Hương giang đã ẩn giấu gương mặt của dịng
sơng.
Sơ kết: Bằng kiến thức lịch sử uyên bác, HPNT nêu bật vẻ đẹp
SH Sông Hương gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc. Từ đó thể
hiện niềm tự hào dân tộc, u q dịng sơng q hương.
2. Nhan đề: Đặt tiêu đề và kết thúc bằng câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dịng
sơng?”
Bài bút kí kết thúc bằng cách lí giải tên của dịng sơng: sơng Hương sơng thơm.
- Cách lí giải bằng một huyền thoại: Người làng Thành Chung có
nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì u q con sông xinh đẹp,
nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm lồi hoa đổ xuống dịng
sơng cho làn nước thơm tho mãi mãi.
 Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi: Ai đã đặt tên cho dịng sơng? nhằm
lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dòng sơng mà cịn gợi lên niềm biết
ơn đối với những người đã khai phá miền đất này.
- Từ huyền thoại ấy, tác giả bộc lộ cái tơi trữ tình suy tư: “con
người đặt tên cho dịng sơng như nhà thơ chọn bút hiệu của mình, gửi
gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp

văn hóa và lịch sử”
- Mặt khác khơng thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả
lời bằng cả bài kí dài  SH mang vẻ đẹp đa dạng tuyệt vời của tạo hóa,
đẹp trong sự gắn kết với cảnh sắc thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, con người
Huế.

III. TỔNG KẾT

8


1/ Nội dung
Bài kí ca ngợi dịng sơng Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô
Huế đẹp và thơ mộng, ca ngợi lịch sử vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa
và tâm hồn người Huế. Tác giả coi sơng Hương là biểu tượng của tất cả
những gì là vẻ đẹp của cảnh và người đất đế đô này.
Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, một vốn văn hóa phong phú về
Huế và trước hết, với một tình cảm thiết tha với Huế, tác giả đã huy động
triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngơn từ giàu có của mình để
phát hiện, diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế thể hiện tập trung ở dịng
sơng Hương như một biểu tượng Huế. Vẻ đẹp được phát hiện:
Vẻ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên
Vẻ đẹp nhìn từ góc độ văn hóa
Vẻ đẹp nhìn từ góc độ lịch sử
Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng đầy tài hoa của tác giả.
2. Nghệ thuật: Nét đẹp của văn phong HPNT:
Bút kí thể hiện văn phong hướng nội, mê đắm, tài hoa và tình yêu quê
hương xứ sở của HPNT.
- Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình u q hương xứ sở
vào sơng Hương khiến đối tượng trở nên lung linh, đa dạng như đời sống

tâm hồn con người.
- Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng với sự uyên bác về
các phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên áng văn
đặc sắc.
Văn phong tao nhã, hướng nội, mê đắm, tài hoa:
+ Miêu tả vẻ đẹp sông hương bằng một giọng điệu trữ tình giàu
chất suy tưởng và triết luận
+ Sử dụng hình ảnh đặc sắc, giàu chất họa, chất nhạc, chất
thơ.
+ Ngơn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng
nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa.
+ Có sự kết hợp hài hịa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và
khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân. Khách quan là đối
tượng miêu tả- dịng sơng Hương.

9



×