Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

SKKN: Một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc phụ đạo học sinh yếu môn Văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.36 KB, 24 trang )



















































SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
Trường THPT Sông Ray

Mã số:




SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


MỘT VÀI KINH NGHIỆM NHỎ TRONG VIỆC PHỤ
ĐẠO HỌC SINH YẾU MÔN VĂN LỚP 12




Người thực hiện: Phan Thị Hường
Lĩnh vực nghiên cứu:
Quản lý giáo dục 1
Phương pháp dạy học bộ môn: 1
Phương pháp giáo dục 1
Lĩnh vực khác: 1

Có đính kèm:
1 Mô hình 1 Phần mềm 1 Phim ảnh 1 Hiện vật
khác





Năm học: 2011-2012





BM 01-Bia SKKN



SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1.Họ và tên: : Phan Thị Hường
2. Ngày tháng năm sinh: 22 / 09 / 1978
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: Ấp 5 – Sông Ray – Cẩm Mỹ - Đồng Nai
5. Điện thoại: (CQ)/ 0613713267 (NR)/0613712395; ĐTDĐ: 0909004885
6. Fax: E-mail:
7. Chức vụ: Thư kí hội đồng giáo dục.
8. Đơn vị công tác: Trường THPT Sông Ray
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân
- Năm nhận bằng: 2001
- Chuyên ngành đào tạo: Cử nhân Ngữ văn.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy Ngữ văn
- Số năm có kinh nghiệm: 11
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
+ Vận dụng kiến thức lịch sử trong tiết dạy ngữ văn lớp 12
+ Vài kinh nghiệm nhỏ về qui trình ra đề, chấm bài, trả bài tập làm văn phần tự
luận.
+ Phương pháp quản lí lớp bằng các biện pháp kỷ luật tích cực - 2011.
+ Một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc phụ đạo học sinh yếu môn Văn lớp 12.
















LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Sự phát triển của Giáo Dục- Đào Tạo quyết định sự tiến bộ, phồn vinh của xã
hội đúng như Nghị quyết TW 2 khóa VIII đã chỉ rõ: “Giáo dục- Đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nhân tố phát triển kinh tế xã hội, là cơ sở để thực hiện công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước”. Vì thế, trách nhiệm của người quản lý là sự tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho các trường học nhà
trường vận hành theo đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được mục
tiêu kế hoạch đào tạo của nhà trường, mà tiêu điểm là quá trình dạy học- giáo dục thế
hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.

Chính vì thế, trong những năm qua bộ GD và ĐT đã quán triệt chặt chẽ về việc
thực hiện “quy chế 40 và quyết định 51 sửa đổi trong việc đánh giá học lực của học
sinh và quá trình thực hiện cuộc vận động hai không với 4 nội dung: Nói không với
bệnh thành tích trong giáo dục và tiêu cực trong thi cử, nói không với vi phạm đạo
đức nhà giáo và học sinh không đạt chuẩn lên lớp do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo chỉ
đạo đã đem lại sự đánh giá thực chất về chất lượng của học sinh. Theo đó, số lượng
học sinh yếu kém có chiều hướng tăng cao so với nhiều năm trước đây. Đây là thực
trạng chung mà chúng ta phải chấp nhận và cần tìm ra những giải pháp phù hợp để cải
thiện nó trên tinh thần không chạy theo thành tích nhưng phải nâng cao chất lượng
thực của hoạt động dạy học và giáo dục.

Với trường THPT Sông Ray, một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu là
nâng cao kết quả học tập của học sinh, giảm tỷ lệ học sinh yếu kém trên tinh thần đánh
giá đúng thực chất năng lực của các em. Trên thực tế, những khó khăn khách quan và
chủ quan của trường đã góp phần làm cho số lượng học sinh yếu kém cao hơn hẳn so
với nhiều trường THPT của Tỉnh. Đặc biệt với môn Ngữ văn – môn học được học
sinh coi là không “ưa thích”, “không thịnh hành” với những ngành nghề hiện đại nên
học sinh lại càng chây lười, coi nhẹ, xem thường, học có tính chất đối phó với thầy cô
trên lớp. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tỉ lệ yếu kém của trường, cũng như
tỉ lệ phần trăm học sinh đạt điểm trên trung bình trong các kì thi tốt nghiệp.
Như vậy, trách nhiệm của người quản lý nói chung và giáo viên nói riêng là
bám sát vào tình hình thực tế của trường mình để vạch ra những biện pháp cụ thể, phù
hợp nhằm không ngừng nâng cao chất lượng các mặt giáo dục, khắc phục những hạn
chế, yếu kém trong công tác giáo dục, thực hiện cho được mục tiêu đề ra.
Với suy nghĩ đó, tôi đã thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
học tập của học sinh, đặc biệt là học sinh khối 12. Sau hai năm thực hiện, tôi thấy cơ
bản là đã đạt được mục tiêu đề ra ban đầu. Chính vì thế, tôi mạnh dạn trình bày “Một
vài kinh nghiệm nhỏ trong việc phụ đạo học sinh yếu môn văn lớp 12”
- Đây không phải là một đề tài mới vì vấn đề phụ đạo học sinh yếu nói chung thì
đã có nhiều trường, nhiều giáo viên đề cập đến. Nhưng với tôi mỗi phương pháp đều
có những ưu điểm riêng, phù hợp với từng đối tượng cụ thể nên nó sẽ tạo được hiệu
quả tốt. Tôi mạnh dạn trình bày ý kiến của mình, mong được sự chia sẻ của đồng


nghiệp để có cơ hội học hỏi kinh nghiệm, bổ sung vào đề tài nhằm nâng cao tính
ứng dụng hơn.
I. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.
1. Cơ sở lý luận.
- Là một nhà giáo, ai cũng muốn học sinh của mình, trường mình đạt kết quả học
tập cao. Nhưng không nên vì thế mà chạy theo thành tích. Cần chấp nhận kết quả thực
chất dù nó không như mong muốn. Nhưng chấp nhận không có nghĩa là khoanh tay

đứng nhìn và than thở. Trái lại cần bình tĩnh, tích cực tìm ra các nguyên nhân của thực
trạng đồng thời bám sát thực tế trường mình, lớp mình để tìm ra giải pháp thích hợp
nhất.
Khi đã có giải pháp cần có kế hoạch thực hiện giải pháp đó một cách cụ thể.
Trong quá trình thực hiện cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các đối tượng
liên quan từ cá nhân học sinh, giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiêm, phụ huynh học
sinh đến các tổ chức đoàn thể như hội phụ huynh học sinh, Đoàn thanh niên, Ban
Giám Hiệu…
Niềm vui của mọi nhà giáo là sự trưởng thành của học trò, phương châm giáo dục
của Đảng và nhà nước ta là bình đẳng. Vì thế trong công tác giảng dạy chúng ta cần
có sự quan tâm đúng mức đến các đối tượng học sinh khác nhau, đặc biệt là những
học sinh yếu kém nhằm tạo ra cơ hội cho các em.
Sự trưởng thành của mỗi học trò luôn luôn phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản là sự
nỗ lực của bản thân các em và sự tận tâm của quý thầy cô giáo. Các em có năng lực thì
công việc giảng dạy của chúng ta bớt phần khó nhọc, các em học yếu thì việc giảng
dạy của quý thầy cô vất vả hơn. Nhưng nếu những em học lực yếu tiến bộ thì niềm
hạnh phúc của người làm thầy cũng sẽ được nhân lên rất nhiều lần. Xuất phát từ suy
nghĩ đó, tôi đã mạnh dạn vận dụng giải pháp dạy phụ đạo cho học sinh yếu kém ngay
trong lớp dạy của mình và lớp phụ đạo do nhà trường phân công để hạn chế tỷ lệ học
sinh phải yếu kém và bước đầu đã đạt được kết quả khả quan.
- Tai sao cần phụ đạo? Phụ đạo nghĩa là ngoài con đường chính thì chúng ta có
thêm con đường khác để tới đích đó. Con đường phụ này hỗ trợ, góp phần tạo thuận
lợi cho chủ thể dễ dàng đạt mục đích hơn. Từ đó ta có thể hiểu phụ đạo trong môn
Văn là ngoài việc chúng ta thực hiện con đường chính theo mục đích yêu cầu về nội
dung, phương pháp bài học cũng như thực hiện thời gian theo đúng phân phối trên lớp
học chính khóa thì còn con đường khác để hỗ trợ các em nắm vững vàng những kiến
thức còn thiếu hụt hoặc mở rộng đi sâu vào vào một phương diện nào đó của vấn đề.
Rèn luyện thêm kĩ năng làm văn nghị luận văn học hoặc nghị luận xã hội.
Nay, tôi trân trọng trình bày kinh nghiệm này cùng quý đồng nghiệp. Bản thân
tôi cũng luôn nghĩ rằng để đạt mục đích hạ thấp tỷ lệ học sinh yếu kém thì đây không

phải là giải pháp duy nhất. Vì vậy trong thời gian tới tôi sẽ học hỏi thêm kinh nghiệm,
tìm tòi thêm giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học của chính mình.

- Khi thực hiện đề tài này, tôi cũng gặp những thuận lợi và khó khăn nhất định.


Trường nhận được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của các cấp lãnh đạo như Sở
GD-ĐT Đồng Nai, của Huyện uỷ – UBND Huyện Cẩm Mỹ, của các cấp chính quyền
địa phương xung quanh trường .Học sinh của trường nhìn chung ngoan, chịu khó học
tập. Tổ có nền nếp chuyên môn tốt, các hoạt động chuyên môn có chiều sâu. Đặc biệt
chú ý đến giáo án cho từng đối tượng.
Riêng bản thân tôi đã có ý thức quan tâm tới vấn đề từ lâu. Mặt khác, tôi luôn ý
thức sưu tầm tài liệu, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để bổ sung cho kiến thức
và kĩ năng của mình. Đến nay, tôi cũng có 10 năm kinh nghiệm trong công tác giảng
dạy bộ môn Ngữ văn nên mạnh dạn trao đổi kinh nghiệm này với các đồng nghiệp.
Tuy nhiên tôi gặp không ít khó khăn:
Những năm trở lại đây, học sinh đuợc tuyển vào lớp 10 của trường có chất lượng
thấp, đa số học sinh có học lực trung bình. Trong 03 năm vừa qua chúng tôi hầu như
phải tuyển hết số học sinh đăng ký dự tuyển, do trên địa bàn chưa có trường dân lập
nên áp lực và nhu cầu đi học của con em địa phương là rất lớn.
Trường THPT Sông Ray nằm thuộc vùng sâu vùng xa, địa bàn rộng, học sinh đi
lại khó khăn đặc biệt là vào mùa mưa. Phần lớn các em có hoàn cảnh khó khăn, thiếu
thốn. Nhiều gia đình bộn bề với công việc mưu sinh chưa dành thời gian thõa đáng
cho việc giáo dục, theo dõi quá trình học tập của con cái. Thậm chí có phụ huynh
không biết con mình học lớp nào, giáo viên chủ nhiệm là ai, kết quả học tập, rèn luyện
của con như thế nào. Đây là một yếu tố gây khó khăn cho công tác giảng dạy của giáo
viên.
Khả năng tự học của đa số các em kém, tính ỷ lại vào thầy cô và các giờ học trên
lớp của nhiều học sinh còn nặng nề. Một số học sinh còn chưa có ý thức trong học tập,
có tâm lí coi nhẹ môn Văn khiến cho công việc giảng dạy khó khăn hơn nhiều.

Mặc dù tâm huyết với công việc song kinh nghiệm của tôi cũng chưa nhiều.
Nhìn vào thực tế giáo dục của Nhà trường hiện nay, chúng tôi nhận thấy: Chương
trình sách giáo khoa mới của môn Văn hiện nay hay nhưng rất khó với phần đông học
sinh. Trong chương trình Ngữ văn ở nhà trường phổ thông nói chung, lớp 12 nói
riêng, lượng kiến thức khá nặng so với tiết phân phối chương trình. Điều này cũng gây
ức chế tâm lí về thời gian của giáo viên và học sinh. Mặt khác, các em phải học quá
nhiều môn, ngoài ra còn phải đi học nhiều buổi.
Tất cả những nguyên nhân đó làm cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh không
hiệu quả, chất lượng học tập không cao đặc biệt với những môn KHXH, yêu cầu vừa
phải học thuộc bài, vừa phải có tư duy tổng hợp cao như môn văn.
II. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
2.1/ Xác định đối tượng.
Bất cứ con người làm việc gì cũng hướng tới đối tượng cụ thể với những mục đích
nhất định. Và đối tượng của giáo viên thì không ai ngoài khác chính là học sinh.
Nhưng tôi đang hướng tới một đối tượng đặc biệt hơn. Đó là những học sinh mà tiếp
thu bài học chậm, ý thức học tập kém, chây lười, ham chơi…Nên nội dung công việc
của tôi cũng có phần khó khăn hơn.


2.2/ Xây dựng đề cương - giáo án dạy phụ đạo.
- Xây dựng kế hoạch – đề cương dạy học cho một bài học cụ thể là thể hiện mối
tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh giúp học sinh đạt được
những mục tiêu bài học. Vì vậy, để tiến hành một tiết dạy trên lớp nói chung, tất cả
giáo viên cần chuẩn bị giáo án đầy đủ, kĩ lưỡng (cả về nội dung và phương pháp) để
hướng dẫn học sinh tiếp cận một đơn vị kiến thức cần đạt theo mục đích yêu cầu của
từng bài học. Đặc biệt, đối với đối tượng học sinh yếu kém thì việc xây dựng một đề
cương ôn tập như thế nào cho phù hợp với lực học các em là một vấn đề rất cần được
quan tâm.
- Theo tôi, để tiến hành dạy phụ đạo đạt được kết quả tốt thì trước hết mình phải
xây dựng một đề cương dựa trên chuẩn kiến thức đưa ra, nghĩa là phải xác định trọng

tâm. Sau đó lựa chọn phương pháp phù hợp. Cơ sở để lựa chọn PPDH phù hợp thì cần
chú ý vào mục tiêu bài học, đặc trưng của từng phân môn, trình độ, kinh nghiệm, tâm
lý của người học, điều kiện phương tiện của nhà trường…Tôi nghĩ một đề cương hay,
một giáo án tốt là điều kiện đầu tiên để tiến hành dạy phụ đạo đạt hiệu quả.
2.3/ Tiến hành dạy phụ đạo trên đề cương - giáo án đã xây dựng.
Ở trường THPT Sông Ray, hình thức tiến hành phụ đạo được tổ chức dưới hai hình
thức: tăng thêm tiết trong buổi học chính khóa và thực hiện việc rà soát số lượng học
sinh yếu kém của các lớp rồi tổ chức thành một lớp phụ đạo trái buổi. Như vậy, để tiến
hành phụ đạo, tôi thực hiện dưới hai hình thức:
µ Phân môn đọc văn:
a/ Tiến hành dạy phụ đạo trong tiết tăng của nhà trường.
- Do đặc thù của môn Văn lớp 12 là dung lượng dài, kiến thức khá nặng mà phần
kĩ năng làm văn lại hạn chế nên nhà trường thống nhất tăng thêm một tiết trên một
tuần. Để sử dụng hiệu quả thời gian tiết tăng, tổ chuyên môn đã lên kế hoạch dạy tiết
tăng và được ban giám hiệu kí duyệt. (xem phụ lục)
- Đối tượng của tiết dạy là 100% học sinh của một lớp. Nghĩa là trong đó có những
học sinh trung bình, khá giỏi và cả học sinh yếu kém. Ngoài việc đáp ứng yêu cầu nội
dung cơ bản thì với đối tượng này cần mở rộng và đi sâu vào vấn đề để đáp ứng cho
những học sinh khá giỏi.
- Không chỉ đáp ứng về lượng kiến thức mà chúng ta cần chú ý đến phương pháp
làm bài để học sinh đạt kĩ năng trong quá trình làm văn. Hướng dẫn các em phương
pháp tích hợp lượng kiến thức trong một bài làm văn.
þ Tôi lấy một ví dụ cụ thể với bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng
Phủ Ngọc Tường.
I/ Mức độ cần đạt.
- Nắm được những nét cơ bản về tác giả.
- Tóm tắt được văn bản. Hiểu chủ đề - ý nghĩa của tác phẩm.
- Những đặc điểm cơ bản về hình tượng Sông Hương trong tác phẩm.
- Vận dụng kiến thức vào làm bài văn nghị luận.
II/ Trọng tâm kiến thức, kĩ năng.

1. Kiến thức


- Chủ đề - ý nghĩa của tác phẩm.
- Những đặc điểm cơ bản về hình tượng Sông Hương
2. Kĩ năng.
- Rèn luyện kĩ năng diễn đạt.
- Biết tích hợp giữa các nội dung bài học để làm một bài văn NLVH.
(Huy động những kiến thức và cảm xúc, trải nghiệm của bản thân để viết bài
nghị luận về một hình tượng, một đoạn văn xuôi).
III/ Chuẩn bị:
- Yêu cầu học sinh chuẩn bị phần ôn tập của từng bài theo hệ thống luận
điểm, luận cứ (đầy đủ, ngắn gọn).
- GV chuẩn bị nội dung ôn tập.
- PP: Đặt vấn đề, gợi mở, đưa giả thiết từng dạng đề và yêu cầu học sinh
vạch ra ý chính cần có trong bài…

& Lượng kiến thức tôi yêu cầu cần nắm được như sau:
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(Trích) – Hoàng Phủ Ngọc Tường-
I/Tác giả.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với xứ
Huế, có vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực; là một trong những nhà văn chuyên viết bút
kí.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ
và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn
kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…thể hiện qua lối hành văn
hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
-Tác phẩm chính: Ngôi sao trên đỉnh Văn Lâu(1971), Rất nhiều ánh lửa(1979), Ai
đã đặt tên cho dòng sông?(1986), Hoa trái quanh tôi(1995), Ngọn núi ảo

ảnh(1999),…
II.Nội dung – ý nghĩa: Ai đã đặt tên cho dòng sông?(1986) là bài kí xuất sắc nhất
của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Vẻ đẹp của sông Hương được cảm nhận ở nhiều góc độ
khác nhau. Qua đó, thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông
Hương; bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với
dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương.
1. Thủy trình của hương giang.
a/ Sông Hương ở vùng thượng nguồn.
- Có quan hệ sâu sắc với dãy trường sơn. Mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh
liệt, hoang dại bí ẩn, sâu thẳm được so sánh “một bản trường ca của rừng già” với
nhiều tiết tấu hùng tráng và dự dội: .“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn… mãnh liệt
vượt qua ghềnh thác…Cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực sâu…Dịu dàng, say đắm
…như hoa đỗ quyên rừng…à Thủ pháp điệp cấu trúc + động từ mạnh tạo nên âm
hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa rừng già.


- Sông Hương có sức sống mãnh liệt, mang vẻ đẹp hoang dại và đầy cá tính,
được nhân hoá thành “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” – với bản lĩnh gan dạ,
một tâm hồn tự do và phóng khoáng…à liên tưởng thú vị độc đáo.
- Sông Hương - “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” à một cái nhìn
sâu sắc của HPNT cho thấy chiều sâu vẻ đẹp và nhân cách của dòng sông
Ä Nghệ thuật: thể hiện sự tài hoa của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên
tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm.
b/ Đến ngoại vi thành phố
- Sông Hương là “người gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại” được người tình mong đợi đến đánh thức. Thủy trình của sông Hương khi
bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc kiếm tìm có ý thức” người tình nhân đích thực… .
“Chuyển dòng liên tục”,“Vòng những khúc quanh đột ngột”,“Vẽ những hình cung
thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế”…
à

Sông Hương thể hiện một
vóc dáng mới, đầy khao khát và lãng mạn
- Đó là “vẻ đẹp trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”. Sông Hương có lúc “Mềm
như lụa”, có lúc ánh lên những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím…” Có lúc lại như “triết lí, cổ thi” “giữa đám quần sơn lô xô là giấc ngủ
nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm
kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ toả lan”
Ä Hai bút pháp kể - tả kết hợp nhuần nhuyễn, lối hành văn lịch lãm, tài hoa đã làm
nỗi bật một Sông Hương sinh động và hấp dẫn.
c/ Đến giữa thành phố Huế, sông Hương như tìm được chính mình “vui tươi
hẳn lên…uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến…dòng sông mềm hẳn đi như
tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Nó đã chuyển dòng liên tục- như phô diễn tất
cả vẻ đẹp vốn có:
+ Hình dáng: “dòng sông mềm như tấm lụa”
+ Màu sắc: “ Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
+ Dòng chảy: “Trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”
+ Mang “ Vẻ đẹp trầm mặc” như triết lí, như cổ thi”.
Sông Hương như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, So sánh Sông Hương với
sông Xen và sông Đa Nuýp, tác giả đã nâng dòng sông quê hương ngang hàng với
những dòng sông đẹp nhất thế gian. Ba con sông này có điểm tương đồng là cùng
chảy vào thành phố yêu quí của nó, được thành phố ôm vào lòng, nhưng sông Hương
có điểm đặc biệt, đó là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”à Thể hiện niềm tự
hào sâu sắc của tác giả. Và như vậy, đó là tình cảm của Sông Hương dành riêng cho
Huế hay chính là tình cảm của nhà văn đối cới sông Hương, với xứ Huế mộng mơ.
- Sông Hương “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”…là “Tứ đại cảnh”
Ä Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn
tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lý thú,
thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ,
đắm đuối”.



d/ Trước khi từ biệt Huế: SH như “người tình dịu dàng và chung thủy”. Con
sông “như nàng Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng” để nói một lời thề
trước lúc đi xa- “Đang chếch hướng Bắc…bỗng … đột ngột đổi dòng, rẻ ngoặt sang
hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối…” nhà văn gọi đó là “một chút lảng lơ
kín đáo của tình yêu”
¯ Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp cận và miêu tả từ nhiều không gian
và thời gian khác nhau. Mối góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và
mới mẻ. Ngòi bút tài hoa của tác giả đã vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, tinh tế,
những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lí thú thể hiện tình yêu say đắm với con
sông quê hương. Đó là những nét bút “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối, tài hoa“ của
HPNT
2. Sông Hương là dòng sông lịch sử.
- Là dòng sông biên thùy trong sách địa dư của Nguyễn Trãi.
- Dòng sông soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- Sống hết mình với lịch sử bi tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX.
- Chứng kiến Cách Mạng tháng tám, mùa xuân Mậu Thân 1968.
=> Khi đất nước có chiến tranh, sông Hương biết cách “tự hiến đời mình làm một
chiến công”. Sau những biến cố lịch sử, “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm
một người con gái dịu dàng” với chiếc áo dài tím rất Huế.
3. Sông Hương là dòng sông văn hóa, thi ca.
- Gắn bó với kinh thành Huế, cái nôi của nền âm nhạc dân gian và cổ điển Huế,
gắn bó với Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới.
- Là cảm hứng sáng tác của nhiều thi nhân, nghệ sĩ: Nguyễn Du, bà Huyện Thanh
Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu,…
III. Ý nghĩa văn bản:
Tác phẩm thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc
lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông
quê hương, với xứ Huế thân thương.
IV. Nghệ thuật.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp về địa lí, văn
hóa, lịch sử,…trong và ngoài nước để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác
nhau của dòng sông.
- Kết hợp, đan xen điểm nhìn không gian và thời gian,…
- Giọng điệu của nhân vật là giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, say đắm mà tỉnh táo,
tự tin nhưng không áp đặt, sắc sảo mà giàu cảm xúc,…
- Ngôn ngữ tài hoa, giàu hình ảnh, giàu sức gợi.
š{{{š
µ Với đối tượng học sinh trên lớp này, hầu hết là các em đã nắm được nội dung bài
học nên tôi chủ yếu hướng dẫn các em cách tích hợp các đơn vị kiến thức để làm bài
văn nghị luận văn học.
¸ Giả sử có một yêu cầu như sau: Phân tích hình tượng con Sông Hương qua bút
kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường.


¸ Vận dụng
Phần mở bài: (Giới thiệu về tác giả, nội dung tác phẩm và vấn đề nghị luận). Để
đáp ứng yêu cầu này tôi yêu cầu các em vận dụng linh hoạt hai đơn vị kiến thức cơ
bản ở mục I,II.
Phần thân bài: (Phân tích vấn đề nghị luận).
Đảm bảo các ý chính tức là phải nêu và phân tích được các luận điểm, luận cứ -
kết hợp thao tác tổng hợp để đánh giá về nội dung và nghệ thuật. Để đáp ứng yêu cầu
này tôi hướng dẫn các em vận dụng ngay phần kiến thức của mục III.
Phần kết bài: (đáng giá và nâng cao vấn đề) Vận dụng phần IV,V.
¸ Hướng dẫn học sinh rèn luyện kĩ năng thì giáo viên cần có ý thức kiểm tra, đánh
giá. Hoạt động này diễn ra thường xuyên đặc biệt là trong những bài viết theo hình
thức kiểm tra tự luận giúp các em có được một cách hành văn lưu loát và đảm bảo nội
dung trọng tâm. Đánh giá là khâu quan trọng không thể thiếu. Nó nằm ở giai đoạn
cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và là khởi điểm cho một giai đoạn tiếp theo với
yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn.

Với phương pháp này, tôi thu được kết quả khả quan.
b/ Tiến hành dạy phụ đạo ở lớp tổ chức trái buổi.
- Phụ đạo ở đối tượng này, tôi thấy đã thực hiện ở một số trường với hình thức:
Giáo viên soạn đề cương khá đầy đủ (về nội dung, hành văn), yêu cầu học sinh học
thuộc lòng rồi lên lớp khảo bài chừng nào thuộc mới cho về. Nhìn chung thì họ cũng
đã đạt được kết quả nhất định nhưng không cao. Bản thân tôi thấy, nếu áp dụng
phương pháp này vào đối tượng tôi đang trực tiếp phụ đạo sẽ không ổn. Bởi như đã
nói ở trên, đây là đối tượng đặc biệt. Tư duy chậm, ý thức học tập kém, học trước
quên sau, hôm nay yêu cầu học thuộc nhưng ngày mai khảo lại không biết gì.
Vấn đề đặt ra ở đây là gì? Các em không hiểu, không nắm bắt được nội dung cơ
bản mà chỉ học một cách máy móc, thụ động “học vẹt”. Điều đó khiến tôi trăn trở!
Làm thế nào để học sinh hiểu bài, nhớ lâu?
- Với tôi, tôi chỉ yêu cầu các em nắm được những đơn vị kiến thức cơ bản và đơn
giản nhất. Song đó là tôi còn các em thì rất khó đạt điều mình mong. Các em không
chỉ là tư duy chậm, ý thức học tập không cao mà còn bị áp lực rất nhiều từ các môn
học khác. Nếu ta cứ “trang bị” cho các em một đề cương quá ư đầy đủ thì tôi thiết
nghĩ sẽ không tài nào đối tượng “nạp” được.
Vì vậy, tôi đã thực hiện một dạng đề cương kiểu hệ thống hóa kiến thức theo sơ
đồ. Trước khi phát đề cương cho các em học, GV đứng lớp sơ đồ hóa lên bảng, chỉ
cách hình dung nội dung bài học, tạo hứng thú bằng những câu gợi mở đơn giản.
Khi thực hiện giải pháp này tôi thấy học sinh nắm bắt kiến thức nhanh hơn, nhớ
bài lâu hơn, cũng có nghĩa các em hiểu bài.
Vấn đề là chúng ta phải thực hiện thường xuyên và kiên trì để hình thành cho các
em một nếp quen tốt, điều đó tạo được hiệu quả tốt hơn trong quá trình học tập.



þ Ví dụ: Cũng với bài Kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Tôi lại thiết kế cô đọng hơn, yêu cầu kiến thức tối thiểu học sinh phải nắm
được:

A/ Trọng tâm kiến thức, kĩ năng.
1.Kiến thức
- Nét cơ bản về tác giả
- Chủ đề - ý nghĩa của tác phẩm.
- Những đặc điểm cơ bản về hình tượng Sông Hương
2. Kĩ năng.
- Biết tích hợp giữa các nội dung bài học để làm một bài văn NLVH.
B/ Tiến trình
I/Tác giả.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường - một trí thức yêu nước, nhà văn gắn bó mật thiết với
xứ Huế, hiểu biết trên nhiều lĩnh vực; là nhà văn chuyên viết bút kí.
- Nghệ thuât: kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị
luận sắc bén với suy tư đa chiều, lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài
hoa.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông?(1986) là bài kí xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
II. Nội dung – ý nghĩa: Vẻ đẹp của sông Hương được cảm nhận ở nhiều góc độ khác
nhau ðbộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với
dòng sông quê hương xứ Huế, đất nước.
1. Thủy trình của Hương Giang.
a/ Sông Hương ở vùng thượng nguồn.
- Có quan hệ sâu sắc với dãy trường sơn. Mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh
liệt, hoang dại bí ẩn, sâu thẳm được so sánh “một bản trường ca của rừng già” với
nhiều tiết tấu hùng tráng và dự dội…
- Sông Hương có sức sống mãnh liệt, mang vẻ đẹp hoang dại và đầy cá tính,
được nhân hoá thành “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”
- Sông Hương có chiều sâu vẻ đẹp và nhân cách “người mẹ phù sa của một vùng
văn hóa xứ sở”
Ä Nghệ thuật: thể hiện sự tài hoa của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên
tưởng kì thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm.

b/ Đến ngoại vi thành phố
- Sông Hương là “người gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại”.
- Thủy trình của sông Hương khi bắt đầu về xuôi tựa “một cuộc kiếm tìm có ý
thức” … “Chuyển dòng liên tục”,“Vòng những khúc quanh đột ngột”,“Vẽ những hình
cung thật tròn ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế”…
à
Sông Hương thể hiện
một vóc dáng mới, đầy khao khát và lãng mạn


- Đó là “vẻ đẹp trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”“giữa đám quần sơn lô xô là
giấc ngủ nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch
và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ toả lan”
Ä Hai bút pháp kể - tả kết hợp nhuần nhuyễn, lối hành văn lịch lãm, tài hoa đã làm
nỗi bật một Sông Hương sinh động và hấp dẫn.
c/ Đến giữa thành phố Huế.
- Sông Hương “vui tươi hẳn lên…uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn
Hến…dòng sông mềm hẳn đi như tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.
+ Hình dáng: “dòng sông mềm như tấm lụa”
+ Màu sắc: “ Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
+ Dòng chảy: “Trôi đi chầm chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh”
+Mang “ Vẻ đẹp trầm mặc” như triết lí, như cổ thi”.
- Sông Hương như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Đó là tình cảm của
Sông Hương dành riêng cho Huế hay chính là tình cảm của nhà văn đối cới sông
Hương, với xứ Huế mộng mơ.
- Sông Hương “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”…
Ä Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn
tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lý thú,
thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ,

đắm đuối”.
d/ Trước khi từ biệt Huế: SH như “người tình dịu dàng và chung thủy”. Con
sông “như nàng Kiều trong đêm tình tự, trở lại tìm Kim Trọng” để nói một lời thề
trước lúc đi xa- “Đang chếch hướng Bắc…bỗng … đột ngột đổi dòng, rẻ ngoặt sang
hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối…” nhà văn gọi đó là “một chút lảng lơ
kín đáo của tình yêu”
¯ Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp cận và miêu tả từ nhiều không gian
và thời gian khác nhau. Ngòi bút tài hoa của tác giả đã vẽ nên những hình ảnh đầy ấn
tượng, tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lí thú thể hiện tình yêu
say đắm với con sông quê hương.
2. Sông Hương là dòng sông lịch sử.
- Là dòng sông biên thùy trong sách địa dư của Nguyễn Trãi.
- Dòng sông soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- Sống hết mình với lịch sử bi tráng của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX.
- Chứng kiến Cách Mạng tháng tám, mùa xuân Mậu Thân 1968.
=> Khi đất nước có chiến tranh, sông Hương biết cách “tự hiến đời mình làm một
chiến công”. Sau những biến cố lịch sử, “nó trở về với cuộc sống bình thường, làm
một người con gái dịu dàng” với chiếc áo dài tím rất Huế.
3. Sông Hương là dòng sông văn hóa, thi ca.
- Gắn bó với kinh thành Huế, cái nôi của nền âm nhạc dân gian và cổ điển Huế,
gắn bó với Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới.
- Là cảm hứng sáng tác của nhiều thi nhân, nghệ sĩ: Nguyễn Du, bà Huyện Thanh
Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu,…


III. Ý nghĩa văn bản:
Thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương; bộc lộ tình
yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê
hương, với xứ Huế thân thương.
IV. Nghệ thuật.

- Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp về địa lí, văn
hóa, lịch sử,…trong và ngoài nước để miêu tả và cảm nhận những vẻ đẹp khác
nhau của dòng sông.
- Ngôn ngữ tài hoa, giàu hình ảnh, giàu sức gợi.
&? SƠ ĐỒ HÓA NỘI DUNG (Tôi trích dẫn giáo án phần 1)

þ Tương tự phương pháp trên, tôi đưa ra một ví dụ về thể loại thơ. Bài “Tây Tiến”
của nhà thơ Quang Dũng. (Tôi trích dẫn giáo án phần 1)
I/ TÌM HIỂU CHUNG.
1.Tác giả. Quang Dũng (1921-1988)
- Là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc nhưng trước hết là
một nhà thơ.
- Phong cách thơ: Hồn hậu, phóng khoáng, hào hoa, lãng mạn.
2. Tác phẩm:
a/ Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa tựa đề “Tây Tiến”.
* Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập mùa xuân năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, địa bàn đóng quân là vùng núi Tây
Bắc và Thượng Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên học sinh sinh viên trí
thức Hà Nội. Họ sống trong gian khổ vẫn hồn nhiên, lãng mạn, hào hoa, anh dũng xả
thân vì nước. (GV Gợi ý cho học sinh dễ nhớ: Tây Tiến- Thành lập?, nhiệm vụ?, địa
bàn hoạt động?, thành phần – đặc điểm?)
* Quang Dũng là chiến sĩ – Tây Tiến từ đầu năm 1947, đến cuối 1948 sang đơn
vị khác. Ở Phù Lưu Chanh, Hà Đông, nhớ Tây Tiến Quang Dũng đã viết nên bài thơ.
Ban đầu bài thơ có tên là “Nhớ Tây Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến”.
b/ Bố cục: 4 đoạn.
- Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến trên địa bàn
miền Tây Bắc hoang vu, hùng vĩ và dữ dội.
- Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ và
khung cảnh thơ mộng, mĩ lệ của sông nước miền Tây bắc.
- Đoạn 3: Chân dung người lính Tây Tiến.

- Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến.
ð Mạch liên kết giữa các đoạn thơ là tâm trạng, cảm xúc nhớ nhung da diết của QD
về đồng đội, về những kỉ niệm một thời sống, gắn bó cùng Tây Tiến. Bài thơ chính
là hồi ức của người lính về đơn vị cũ, về những tháng ngày không thể nào quên
trong cuộc kháng chiến chống Pháp
1. Đoạn 1: Nhớ con đường hành quân Tây Tiến đã đi qua: Hành trình đầy gian
khổ mà hào hứng giữa vẻ đẹp hoang sơ hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc


a. Mở đầu là tiếng gọi tha thiết.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ da diết mênh mang, rợn ngợp. Nỗi nhớ gắn với khung
cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây và những chặng hành quân gian khổ.
b. Hành trình gian khổ qua:
- Miền đất xa lạ hoang vu “Sài khao”, “Mường Lát”, “Mường Hịch”… Những
địa danh lạ tai được liệt kê gợi lên cả một miền bí ẩn. Vừa dữ dội, vừa thơ mộng trữ
tình.
- Dốc đèo hiểm trở
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao/ ngàn thước xuống”…
+ Những từ láy tượng hình và cách ngắt nhịp như khắc chạm làm nỗi bật con
đường khúc khuỷu, gập ghềnh. Hình ảnh thơ gân guốc gợi cảm giác về những con dốc
gần như thẳng đứng, vút lên thật cao và đổ xuống thật sâu. Quả là “Thi trung hữu
hoạ”.
+ Đoạn thơ cũng bộc lộ nghệ thuật sử dụng từ ngữ, âm điệu tài hoa.
Câu thơ miêu tả toàn thanh trắc như mang vất vả nhọc nhằn từng bước chân
người lính trên dốc đá cheo leo… Nhưng … đã dịu lại khi được kết hợp với câu thơ
nhiều thanh bằng, để sự hoang vắng của Sài Khao, Mường Lát chợt mộng mơ

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Trắc- Bằng phối hợp tài hoa đã làm hiện lên một thế giới khác thường vừa đa dạng,
vừa độc đáo của núi rừng miền Tây Tổ Quốc.
- Thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt đe doạ tính mạng con người “Sương” dày
đặc “lấp đoàn quân mỏi”, “Mưa” dữ dội biến rừng thành “xa khơi”…
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
- Gian khổ nhiều lúc đã vượt quá sự chịu đựng. Người lính hi sinh ngay
trên đường hành quân.
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
ð Gian khổ giúp ta hiểu sâu hơn về sự hi sinh và lòng dũng cảm của người lính,
họ vẫn không sờn lòng, vẫn vượt lên đến đỉnh cao
“ Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.
Người lính đi trên đèo cao tưởng chừng như súng chạm tới trời. Nhưng nhà thơ
đã viết “súng ngửi trời” làm hiện ra một nụ cười lính tráng hóm hỉnh hồn nhiên, một
tư thế hiên ngang bất khuất, một ý chí kiên cường. Câu thơ không chỉ miêu tả độ cao
của dốc mà còn là lời ngợi ca người lính anh hùng.


- Đoạn thơ kết thúc thật đột ngột, bất ngờ
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Đoàn binh TT dừng chân ở một bản làng nào đó. Khói nếp xôi thơm hay tình quân
dân thơm nồng xua tan mệt nhọc, gian lao? Hoàn cảnh nghiệt ngã đã không dập
tắt được tin yêu
@ Tóm lại

Cảnh núi rừng tây Bắc qua ngòi bút Quang Dũng hiện lên rõ nét. Ngôn ngữ tạo
hình, âm thanh phong phú… đã làm nổi bật vẽ đẹp Tây Bắc bí ẩn: hùng vĩ mà diễm
lệ, nghiệt ngã mà nên thơ, hoang dã mà ấm áp tình người. Làm nổi bật sự can trường
quả cảm và tâm hồn tuyệt đẹp của người lính Tây Tiến anh hùng. Đó là tài thơ của
nhà thơ Quang Dũng.
&? SƠ ĐỒ HÓA NỘI DUNG (Tôi trích dẫn giáo án đoạn 1) (trang bên)
š{{{š




















Ä Nhìn vào ví dụ trên ta thấy nội dung không mấy khác nhau nhưng ở đây tôi yêu cầu
nhẹ hơn để vẫn đảm bảo trọng tâm lại vừa sức với đối tượng học sinh. Hơn nữa, khâu
sơ đồ hóa kiến thức cho các em cũng rất quan trọng và yêu cầu học sinh phải làm

được điều này.
Lớp phụ đạo có 3 tiết trên một buổi, vì vậy giáo viên nhất định phải giúp học sinh hiểu
vấn đề và lập được một dàn ý bằng sơ đồ như thế. Chừng nào các em thành thục
phương pháp học tôi sẽ linh hoạt hướng dẫn về kĩ năng tích hợp nội dung để làm bài


làm văn. Lúc đầu, quả là khó khăn vì học sinh rất lười nhưng càng về sau tôi cảm thấy
các em nắm được bài và có hứng thú với chính bài học.

µ Phân môn làm văn:
- Phân môn làm văn có hai dạng nghị luận chủ yếu. Nghị luận văn học và nghị
luận xã hội. Ở phần nghị luận văn học, ngoài những tiết có thực trên lớp, học sinh
được rèn luyện kĩ năng sắp xếp ý, liên kết đoạn tạo mạch lạc, lôgic trong một văn bản
ngay trong các tiết tăng dạy phụ đạo. Trong phạm vi này, tôi chỉ trình bày phương
pháp, kĩ năng làm văn nghị luận xã hội.
- Nghị luận xã hội lớp 12 chia hai dạng: nghị luận về một tư tưởng, đạo lí và nghị
luận về một hiện tượng trong đời sống. Sách văn - chương trình chuẩn chỉ có hai tiết
học cho hai bài. Tôi thấy quá ít, trong khi cấu trúc đề thi học kì, thi tốt nghiệp, thi Đại
học câu làm văn này chiếm đến 3 điểm. Mặc dù ở bài học này, nội dung – phương
pháp khá rõ ràng song đối với đối tượng học sinh yếu thì khó có thể hình thành ngay
được. Vì thế, tôi cũng đặc biệt chú ý phần này. Hơn nữa, NL về một hiện tượng trong
đời sống hay vấn đề tư tưởng đạo lí không chỉ có ý nghĩa xã hội mà còn có tác dụng
giáo dục tư tưởng, đạo lí, cách sống đúng đắn, tích cực đối với học sinh, thanh niên.
- Tôi xác định rõ, muốn học sinh làm bài kiểu này tốt trước hết phải nắm thật vững
phương pháp. Sau đó mới áp dụng cụ thể trong một đề bài cụ thể. (Phương này tôi áp
dụng luôn cho cả hai đối tượng: ở tiết tăng và lớp phụ đạo, nhưng ở lớp phụ đạo tôi
tăng cường luyện tập nhiều hơn)
Tôi đưa ra hai phương pháp song song của hai dạng.
(1) VỀ PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ.
Ø Đề tài thường gặp:

- Về nhận thức (lí tưởng, mục đích học tập….)
- Về tâm hồn, tính cách (lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, sống trung thực…)
- Về quan hệ gia đình (tình mẹ con, tình anh em…)
- Về quan hệ xã hội (tình đồng loại, tình thầy trò, bạn bè…)
Ø Cấu trúc triển khai bài làm
a. Mở bài.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận.
- Dẫn đề (nếu có.)
b. Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (phần phụ) à rút ra bản chất vấn đề.
- Phân tích và chứng minh những mặt đúng của tư tưởng, đạo lí cần bàn luận.
- Bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang bàn luận (…)
- Bình luận:
+ Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí (…)
+ Đề xuất phương châm sống đúng đắn.
c. Kết bài: Khẳng định chung về tư tưởng, đạo lí đã bàn ở trên, lời nhắn gửi tới mọi
người.
Ø Ví dụ cụ thể


Đề: Trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của Hêminh-uê, ông Xan – ti – a gô nghĩ:
“Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị đánh bại”.
Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn, trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến trên.
a. Mở bài
Trong tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của Hêminh-uê, ông Xan – ti – a - gô nghĩ:
“Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị đáng bại”. Phải chăng, suy nghĩ của
Xan – ti – a - gô muốn khẳng định: con người trong bất cứ hoàn cảnh nào, bằng ý
chí và nghị lực của mình cũng có thể chiến thắng trên hành trình thực hiện ước
mơ của mình.
b. Thân bài

- Giải thích:
+ Suy nghĩ trên của ông lão được xuất hiện khi ông ở vào hoàn cảnh gay cấn:
con cá mập đầu tiên tấn công con cá kiếm (thành quả lao động của ông). Mặc dù suy
kiệt về thể xác sau ba ngày chiến đấu với con cá kiếm, ông lão vẫn kiên cường chiến
đấu với con cá mập. Khi ông giết được nó rồi ông vẫn dự cảm đàn cá mập khác sẽ
kéo đến, ông khó giữ được thành quả lao động của mình.
+ Câu nói thể hiện quyết tâm đương đầu với đàn cá mập trong mọi tình huống,
hoàn cảnh bất lợi của ông. Cho nên ở đây, “hủy diệt” có thể hiểu là con người có thể
bị thương, có thể chết hoặc mất mát, thất bại về vật chất. Nhưng “con người không
thể bị đánh bại” về ý chí, nghị lực, khao khát. Câu nói khẳng định niềm tin vào sức
mạnh, ý chí và khả năng tồn tại của con người trong bất kì hoàn cảnh nào
- Phân tích và chứng minh
+ Trong cuộc sống con người phải đối diện với nhiều thử thách, có khi rất nghiệt
ngã. Nếu thiếu niềm tin, không có ý chí thì người ta dễ dàng buông xuôi, nản lòng,
chấp nhận đầu hàng hoàn cảnh.
+ Ngược lại, nếu tin tưởng vào bản thân, tin vào khả năng và sức sống mạnh mẽ thì
sẽ vươn lên, quyết tâm vượt qua mọi thử thách.
Ví dụ: Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta (dẫn chứng), Thực tế lao động của
nhân dân ta.
- Bác bỏ, phê phán lối sống vô trách nhiệm, thiếu ý chí, nghị lực (dẫn chứng.)
- Bình luận:
+ Phải có nghị lực và niềm tin (…)
+ Phải có niềm kiêu hãnh bằng sự quyết tâm của con người.
c. Kết bài: Suy nghĩ của ông lão Xan-ti-a-gô có thể được coi là một phương châm
sống đúng đắn. Mỗi người cần biết xử lí hành động của mình như thế nào để có thể
vượt qua hoàn cảnh trong cuộc sống.

(2) VỀ PHƯƠNG PHÁP LÀM BÀI VĂN NL VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI
SỐNG:
Ø Đề tài thường gặp: Những hiện tượng xấu hoặc tốt đang diễn ra trong mỗi con

người và đời sống xã hội có thể nhìn nhận ở các phương diện:
- Hiện tượng tốt:


+ Hiến máu nhân đạo, ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, ủng hộ đồng bào
lũ lut…
+ Phong trào mùa hè xanh, quỹ thắp sáng ước mơ…
+ Mái ấm tình thương, ngôi nhà tình nghĩa, ngôi nhà mơ ước…
- Hiện tượng xấu
+ Ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông…
+ Bệnh thành tích, bệnh vô cảm…
+ Bệnh quay cóp trong thi cử…
+ Tình trạng bạo lực học đường, nghiện game…
Ø Cấu trúc triển khai bài làm
a. Mở bài
- Nêu rõ hiện tượng cần bàn.
- Chỉ rõ bản chất của hiện tượng đó
b. Thân bài
- Giải thích về hiện tượng đ/s được nêu ở đề bài (phần phụ) …
- PT-CM thực trạng đã nêu:
§ Nêu tình hình thực trạng (địa phương, trong nước, thế giới)
§ Hậu quả tác hại (nếu là hiện tượng xấu)/ tác dụng tích cực (nếu là hiện
tượng tốt) (đ/v cộng đồng, xã hội; đ/v cá nhân)
§ Phân tích những nguyên nhân gây ra hiện tượng (khách quan, chủ
quan)
- Phê phán, bác bỏ những quan niệm và nhận thức sai lầm…
- Đề xuất biện pháp khắc phục (nếu là hiện tượng xấu), giải pháp phát huy
(nếu là hiện tượng tốt) ( đề xuất từ phía cơ quan chức năng, cá nhân…)
c. Kết bài:
- Bày tỏ, thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội vừa nghị luận.

- Rút ra bài học về nhận thức, hành động cho bản thân.
Ø Ví dụ cụ thể.
Đề: Bệnh thành tích – một căn bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của
xã hội ta hiện nay.
a. Mở bài
- Đất nước ta đang trên đà phát triển nhưng vẫn còn nhiều mặt tiêu cực.
- Một trong những mặt tiêu cực ấy là “Bệnh thành tích” – một căn bệnh nguy
hiểm cần phải được giải quyết triệt để.
b. Thân bài
- GT: Thành tích là gì? Vì sao thành tích lại được xem là một căn bệnh?
+ Thành tích: là những kết quả được đánh giá tốt, là cái mà người ta đặt ra
làm mục tiêu để vươn tới à về bản chất là tốt.
+ Thành tích chỉ được xem là “bệnh” khi nó bị biến dạng để biến nhận thức
và hành động của một người, một tập thể, một xã hội rơi vào tình trạng ảo tưởng
để mưu cầu quyền lợi, hư danh một cách thấp hèn, vị kỉ à vì thế nó chẳng khác
nào là một căn bệnh âm ỉ, lây lan trong xã hội.


- PT- CM thực trạng đã nêu:
§ Nêu thực trạng – những biểu hiện (địa phương, trong nước, thế giới)
§ Hậu quả - tác hại (đ/v cá nhân, đ/v cộng đồng, xã hội )
§ Nguyên nhân (khách quan, chủ quan)
- Phê phán, bác bỏ những quan niệm và nhận thức sai lầm…
- Đề xuất biện pháp khắc phục (nếu là hiện tượng xấu)- ( đề xuất từ phía cơ
quan chức năng, cá nhân…)
c. Kết bài:
- Bày tỏ, thái độ, ý kiến về hiện tượng xã hội vừa nghị luận.
- Rút ra bài học về nhận thức, hành động cho bản thân.
š{{{š


Ä Qua việc thực hiện phương pháp trên tôi lại rút ra một bài học khác cho học
sinh.
- Học sinh cần phải biết dựa vào dàn ý chung để áp dụng cho việc xây dựng bài
văn theo những đề bài cụ thể.
- Cần sử dụng đầy đủ các thao tác lập luận và sắp xếp trình tự các thao tác cho
chặt chẽ và hợp lí.
- Kiến thức về xã hội để sử dụng làm bài là không quá khó đối với học sinh.
Vì vậy, muốn làm một bài nghị luận tốt, không chỉ phụ thuộc vào phương pháp mà
bản thân phải tích lũy vốn sống, vốn hiểu biết và quan trọng hãy sống thực với mình
để có những điều tâm đắc khi bàn luận.
Phương pháp tôi nêu ra không phải là mới song điều quan trọng là phân phối chương
trình chỉ có hai tiết nên giáo viên phải luôn ý thức thực hiện song hành cả hai phương
diện để hình thành ở học sinh những kĩ năng làm văn tốt. Hình thức nghị luận xã hội
nêu trên chỉ đến lớp 12 mới học đầy đủ nhưng khi dạy lớp 11 tôi cũng đã hình thành
cho các em những bước cơ bản trong mỗi lần ôn tập. Tôi nghĩ đấy là việc cần làm để
giảm tỉ lệ học sinh yếu ở lớp 12.
2.3/ Một số vấn đề tôi quan tâm trong quá trình dạy phụ đạo.
Ban Giám hiệu nhà trường chỉ đạo cho bộ phận văn phòng thực hiện việc rà soát
số lượng học sinh yếu kém của từng lớp, từng bộ môn. Sau đó, nhà trường căn cứ vào
kết quả đó lập danh sách học phụ đạo gửi về các lớp. Đồng thời cũng phân công giáo
viên trực tiếp giảng dạy và một giáo viên hỗ trợ trong quá trình lên lớp. Khi nhận
trách nhiệm này, tôi đặc biệt chú ý vào một số vấn đề sau:
- Khâu tổ chức- quản lí lớp học phụ đạo.
Tôi quan niệm rất rõ, đã là một lớp học thì cần có một tổ chức gồm đầy đủ các
thành phần như lớp trưởng, lớp phó học tập, lớp phó lao động, thủ quĩ và tổ trưởng.
Bộ máy này hoạt động như trên lớp chính khóa.
+ Thành lập ban cán sự lớp để có sự điều hành dễ dàng hơn giữa GV và HS.
+ Phân công chỗ ngồi – ghi sơ đồ chổ ngồi dễ kiểm soát.
+ Cập nhật số điện thoại – địa chỉ gia đình để tiện liên lạc khi cần thiết.
+ Có sự thống nhất về nội qui của lớp học rõ ràng.



- Xác định vị trí của mình - giáo viên dạy phụ đạo học sinh yếu (đây là yếu tố
quan trọng nhất).
Tôi xác định rõ đây là lớp học đặc biệt nên công tác chủ nhiệm lớp cũng như quá
trình lên lớp của giáo viên vô cùng quan trọng vì đa số các em có học lực yếu kém lại
có tinh thần học tập không cao. Giáo viên dạy sẽ quyết định việc duy trì hoạt động của
lớp cũng như việc nâng cao chất lượng học sinh yếu kém. Vì thế giáo viên không chỉ
đảm bảo năng lực chuyên môn mà cần một tinh thần trách nhiệm, sự nhiệt tình,
kiên nhẫn cao. Nghĩa là trong công việc này đòi hỏi “chữ tâm” của người thầy.
Tôi lại nghĩ đến câu thơ đầy ý nghĩa của Nguyễn Du “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ
tài” (Truyện Kiều). Chúng ta cần động viên, nhắc nhở cũng như có những phát hiện
về sự tiến bộ mặc dù rất nhỏ để khen - để khuyến khích. Điều này có tác dụng rất tích
cực đến tâm lí của học sinh giúp, các em tự tin hơn rất nhiều vào bản thân và trước đối
tượng khác. Tôi vẫn thường của “thủ thuật” nho nhỏ: mỗi lần phát hiện có học sinh
tiến bộ là tôi thưởng các em, có thể bằng điểm số tốt cũng có thể là hiện vật nho nhỏ
phù hợp mà vui. Hơn nữa phải tạo được một không khí lớp học thoải mái để các em
tiếp nhận kiến thức một cách chủ động hơn. Chính chúng ta là cầu nối quan trọng
trong việc duy trì việc các em đến lớp đều đặn.
- Phối hợp với các đoàn thể và phụ huynh học sinh, phát huy sức mạnh tập thể
trong công tác phụ đạo học sinh yếu kém.
Đối với tập thể giáo viên nhà trường: Để bộ máy hoạt động tốt thì toàn thể Hội
đồng sư phạm phải đoàn kết, nhất trí cao, phát huy những mặt tích cực, nghiêm túc
phản ánh, nhắc nhở về những tồn tại, yếu kém, những việc chưa làm được để kịp thời
khắc phục. Tích cực tham mưu, đóng góp ý kiến trên tinh thần xây dựng nhằm mục
đích đưa các hoạt động của trường trong đó có việc dạy phụ đạo học sinh yếu đạt đến
hiệu quả cao nhất.
Đối với đội ngũ giáo viên chủ nhiệm: Giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối quan
trọng giữa học sinh, phụ huynh với nhà trường. Một mặt, họ là người nắm bắt đầy đủ,
chính xác tình hình học tập và tâm tư, nguyện vọng của các em học sinh cũng như tư

tưởng của cha mẹ các em. Mặt khác họ cũng là những người truyền đạt, vận động học
sinh và phụ huynh thực hiện đúng, thực hiện đầy đủ các kế hoạch hoạt động của nhà
trường. Hơn ai hết họ có điều kiện thuận lợi nhất để gần gũi, nhắc nhở và động viên,
giám sát học sinh một cách thường xuyên bằng các buổi sinh hoạt chủ nhiệm, 10 phút
đầu giờ và những cuộc gặp gỡ riêng tư khác. Với các em học sinh thì thầy cô chủ
nhiệm luôn là người có uy hơn cả. Nếu chúng ta có một đội ngũ giáo viên chủ nhiệm
có năng lực, có trách nhiệm, nhiệt tình … thì việc phụ đạo học sinh yếu nói riêng, việc
thực hiện các nhiệm vụ dạy học và giáo dục của nhà trường nói chung chắc chắn đạt
kết quả cao.
Đối với tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong nhà trường: Trong trường học
Đoàn thanh niên và Hội liên hiệp thanh niên chính là những tổ chức tập hợp học sinh
một cách tốt nhất bằng nhiều hoạt động bổ ích. Ban giám hiệu các trường cần phát
huy vai trò của tổ chức này trong việc hỗ trợ nhà trường thực hiện các mục tiêu giáo
dục. Với những em học yếu thì ý thức tự giác tham gia vào những những hoạt động


học tập là rất hạn chế, các em lại hay tự ti, thụ động. Vậy làm gì để cải thiện tình trạng
này? Chúng ta cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể dục- thể thao để lôi kéo đối
tượng này tham gia. Dần dần các em sẽ tự tin hơn, lúc đó việc động viên các em chăm
chỉ học tập chắc sẽ hiệu quả hơn.
Đối với cha mẹ học sinh: Nhà trường thông qua tổ chức Hội cha mẹ học sinh để
động viên sự hợp tác của toàn thể phụ huynh nhà trường trong việc thực hiện nhiệm
vụ dạy phụ đạo cho học sinh yếu. Đặc biệt, đối với những phụ huynh có con đang trực
tiếp phụ đạo thì cần liên lạc thường xuyên để có những biện pháp kịp thời như động
viên, khuyến khích hay nhắc nhở con mình… Hội cũng có các phần thưởng cho các
em học sinh tiến bộ, đạt thành tích tốt trong kì thi.

III. KẾT QUẢ
Trong hai năm qua, tôi nói riêng và tổ tôi nói chung đã thực hiện những giải
pháp của đề tài này góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập của bộ môn Văn,

cũng như chất lượng giáo dục chung của nhà trường.
Cụ thể: Tỷ lệ học sinh được xếp loại học lực từ trung bình trở lên đã gia tăng
đáng kể, tỷ lệ học sinh yếu kém giảm nhiều, tỷ lệ đậu tốt nghiệp của nhà trường tăng,
năm sau cao hơn năm trước.
Năm học
THPT
Sông Ray

THPT Võ
Trường
Toản
THPT Xuân
Mỹ
Ghi chú
2009- 2010
26%
42% 38% KQ thi TN khi chưa
thực hiện đề tài.
2010-2011
66,72%
60,12% 52,49% KQ thi TN khi thực
hiện đề tài
2011-2012
79%
51,5% 59,8% Kết quả thi học kì 2
(vì chưa có kết quả
thi TN)
- Kết quả thi học kì ở trên ba lớp 12 tôi trực tiếp giảng dạy (đề thi của Sở GD&ĐT
Đồng Nai), và kết quả như sau (so sánh trước và sau khi thực hiện đề tài)
Lớp (sĩ số)


Điểm
12A1(44) 12A7(39) 12A14 (44)
Trước Sau Trước

Sau Trước Sau
0-2,5 0 0 1 0 2 0
3-4,5 8 2 9 5 17 8
5-7,5 34 31 30 21 25 33
8-10 2 11 0 13 0 3
Tổng đạt điểm 5 trở lên 36 42 30 34 25 36
Tỉ lệ % 81,8% 95,5%

76,9%

87,1% 56,8% 81,8%
- Sang học kì 2, nhà trường đã phân loại học sinh yếu kém và tôi đã trực tiếp phụ đạo
một lớp (gồm những học sinh của ba lớp cơ bản 12B13, 12B14, 12B15), và tôi đã


thống kê điểm của học kì II như sau (lớp phụ đạo lấy điểm từ 4.8 trở xuống và sĩ số
43):
Điểm
Trước khi thực
hiện ĐT
Sau khi thực
hiện ĐT
0-2,5 1 2
3-4,8 42 15
5-6,5 0 21

7-10 0 5
Tổng đạt điểm 5 trở lên 0 26
Tỉ lệ % 60,5%
Trên đây là những số liệu chính xác từ kết quả học tập của học sinh các lớp (xem thêm
phụ lục)
IV. KẾT LUẬN
Đứng trước kết quả của hoạt động dạy học phụ đạo, giáo viên cần có thái độ thích
hợp. Kết quả như mong muốn thì cần động viên, khuyến khích biểu dương nhưng nếu
kết quả chưa như ý cũng cần phải bình tĩnh, kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân và điều
chỉnh, không được nóng vội. Giáo dục là một quá trình, việc phụ đạo cho học sinh yếu
cũng vậy, phải trải qua một khoảng thời gian nhất định, có sự tích luỹ cần thiết về
lượng thì mới có sự thay đổi về chất. Mọi sự nóng vội chủ quan duy ý chí đều không
đem lại kết quả tốt đẹp.
Phương pháp này tôi nghĩ không khó, nhưng lại yêu cầu chữ Tâm rất lớn của
người thầy. Rõ ràng, trong đề tài, tôi đề cập đến biện pháp khá đơn giản song tạo được
hiệu cao. Vì vậy, tôi cho rằng có thể áp dụng với những trường có điều kiện giống
trường tôi. Nhưng kết quả như thế nào còn phụ thuộc rất lớn đến sự tận tâm của người
đứng lớp. Bản thân tôi cũng luôn nghĩ rằng để đạt mục đích hạ thấp tỷ lệ học sinh yếu
kém thì đây không phải là giải pháp duy nhất. Vì vậy trong thời gian tới tôi sẽ học hỏi
thêm kinh nghiệm, tìm tòi thêm giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng dạy học của
chính mình.
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Ngữ văn 12 (tập 1, 2) – Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) - Nhà xuất
bản Giáo dục - 2008
2. Thiết kế bài học Ngữ văn 12 (tập 1, 2) - Phan Trọng Luận (Chủ biên) - Nhà
xuất bản Giáo dục - 2009
3. Sách giáo viên Ngữ văn 12 (tập 1,2) - Phan Trọng Luận (Chủ biên) - Nhà
xuất bản Giáo dục - 2008




Phan Thị Hường










SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI
Đơn vị



CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

, ngày tháng năm

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học:
–––––––––––––––––
Tên sáng kiến kinh nghiệm:

Họ và tên tác giả: Đơn vị (Tổ):
Lĩnh vực:
Quản lý giáo dục 1 Phương pháp dạy học bộ môn: 1

Phương pháp giáo dục 1 Lĩnh vực khác: 1
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới 1
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 1
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 1
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn
ngành có hiệu quả cao 1
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 1
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có
hiệu quả 1
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách:
Tốt 1 Khá 1 Đạt 1
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào
cuộc sống: Tốt 1 Khá 1 Đạt 1
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong
phạm vi rộng: Tốt 1 Khá 1 Đạt 1

XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
(Ký tên và ghi rõ họ tên)

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
(Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)







· Lưu ý:
- Sáng kiến kinh nghiệm soạn thảo trên máy vi tính và in ra giấy khổ A4; quy định
canh lề: Trên 2,0 cm, dưới 1,5 cm, phải 3,0 cm, trái 1,5 cm; Font chữ Việt Nam UNICODE (Times
New Roman); size chữ 14.
- Tất cả biểu mẫu đóng thành tập theo thứ tự: Bìa (BM01-Bia SKKK), Lý lịch khoa
học (BM02-LLKHSKKN), Thuyết minh đề tài (BM03-TMSKKN), Phiếu nhận xét, đánh giá của
đơn vị (BM04-NXĐGSKKN).
BM04-NXĐGSKKN


- Các sản phẩm gửi kèm sáng kiến kinh nghiệm như đĩa CD (không nhận đĩa mềm),
phim ảnh đóng gói trong 01 phong bì theo mẫu (BM05-SPSKKN), các mô hình gửi kèm sáng kiến
kinh nghiệm cùng với mẫu BM05-SPSKKN.

×