Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

SKKN: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào trong các tiết dạy văn thơ Hồ Chí minh ở lớp 11,12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.6 KB, 25 trang )











SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
LỜI VĂN NGHỆ THUẬT TRONG
VỢ NHẶT - KIM LÂN VÀ VỢ
CHỒNG A PHỦ - TÔ HOÀI



I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đọc – Hiểu văn bản văn học là khâu rất quan trọng trong quá trình
Dạy - Học Văn ở trường Trung học phổ thông. Đặc biệt, về phía giáo
viên Ngữ văn tôi luôn trăn trở làm sao giúp học sinh của mình tiếp cận
văn bản một cách hiệu quả nhất. Qua thực tế chấm bài kiểm tra, bài thi
môn của học sinh, tôi nhận thấy: bài làm của các em về văn bản tự sự
(trong phần nghị luận văn học) thường chỉ kể lan man, dài dòng, không đi
vào trọng tâm nên không đạt điểm cao. Bởi vì các em thường không nắm
được cốt truyện, chủ đề tư tưởng nghệ thuật, tình huống truyện, hình
tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật… của các văn bản tự sự học trong
chương trình. Vì thế tôi chọn đề tài :
“Lời văn nghệ thuật trong Vợ nhặt - Kim Lân và Vợ chồng A Phủ
- Tô Hoài”.
Khi thực hiện đề tài này, tôi hiểu đã có bao công trình nghiên cứu,


bao bài viết hay về văn bản tự sự. Do đó thật khó để cá nhân tôi có thể
tìm được những ý tưởng sâu sắc, độc đáo. Nhận thức rõ thực tế đó nên
trong phạm vi đề tài, tôi chỉ đi sâu tìm hiểu các văn bản tự sự với mục
đích:
- Đánh giá sự đóng góp riêng về lời văn nghệ thuật của nhà văn Kim
Lân và Tô Hoài trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Dấu ấn phong cách riêng của nhà văn Kim Lân và Tô Hoài.
1. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP
CỦA ĐỀ TÀI.
1.1.Thuận lợi:
- Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp Dạy – Học của Ngành
và của toàn xã hội.
- Yêu cầu của mục tiêu bài học trong chuẩn kiến thức, kỹ năng của
mỗi bài dạy cụ thể của Bộ Giáo Dục và Đào tạo.

- Gợi ý hướng dẫn giảng dạy của từng bài trong sách giáo viên.
- Kinh nghiệm giảng dạy của bản thân giáo viên.
- Học sinh phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong việc tìm
hiểu, khám phá tác phẩm văn học.
1.2. Khó khăn:
- Phương pháp này khó đạt hiệu quả cao nếu học sinh không tích cực
chủ động chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Xu thế xã hội, tâm lí học sinh chú trọng các môn học về khoa học tự
nhiên hơn là các môn học về khoa học xã hội.
- Văn bản tự sự đòi hỏi học sinh phải hiểu đặc trưng văn bản tự sự: tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn, phong cách nhà văn, lí luận văn học, cuộc
đời và sự nghiệp của nhà văn …
- Đọc – hiểu văn bản tự sự đòi hỏi học sinh phải trải qua nhiều công
đoạn : tóm tắt cốt truyện, cảm nhận cái hay, độc đáo của nhan đề tác
phẩm, tình huống truyện, lời văn nghệ thuật, phân tích nhân vật, giá trị

nội dung, giá trị nghệ thuật….cần thái độ chăm chỉ, chịu khó, tốn nhiều
thời gian …
2. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
Chương trình Ngữ văn 12 cơ bản, học kì 2, phần văn bản tự sự (kể cả đọc
thêm) chiếm 15 tiết, 7 tuần. Chính vì thế trong đề tài này, tôi chỉ đề cập
đến nội dung các văn bản tự sự : Vợ nhặt - Kim Lân; Vợ chồng A phủ -
Tô Hoài.
Việc Đọc – Hiểu văn bản tự sự là một khâu quan trọng trong giờ học
Ngữ văn. Chính vì thế người giáo viên dạy Văn luôn tìm cách giúp học
sinh của mình tiếp cận văn bản tự sự sao cho hiệu quả nhất. Giáo viên
phải hướng dẫn học sinh: định hướng giọng đọc, tóm tắt văn bản, nhan đề
tác phẩm, tình huống truyện, hình tượng nghệ thuật, lời văn nghệ thuật …
Tuy nhiên, việc tìm hiểu lời văn nghệ thuật trong tác phẩm văn xuôi tự sự
ở trường THPT còn sơ lược. Vì vậy, tôi chọn đề tài này với mong muốn

có thể vận dụng vào công việc giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập,
kết quả kiểm tra, bài thi ở học sinh.
II.TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Để học sinh hiểu sâu, có cơ sở lí luận chặt chẽ và vận dụng được vào
bài kiểm tra, bài thi, khi dạy văn bản tự sự, người giáo viên phải:
- Giúp học sinh nắm các khái niệm thể loại:
Truyện ngắn: là thể loại tự sự mang những đặc điểm như truyện nhưng
có quy mô nhỏ. Truyện ngắn được xem như một “lát cắt”, một “mảnh
nhỏ” của cuộc sống, cuộc đời nhân vật.
Thể loại truyện ngắn hiện đại là kiểu tư duy nghệ thuật mới, một cách
nhìn cuộc đời, cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại
với đặc điểm loại hình riêng biệt. Truyện ngắn hiện đại phát triển theo
nhiều hướng khác nhau, tùy cách sử dụng các yếu tố cốt truyện, nhân vật,
trần thuật và kết cấu truyện của nhà văn… Tác giả Phùng Hoài Ngọc với

bài giảng đại cương “Thi pháp học hiện đại” (Trường Đại Học An
Giang, 2006) có đề cập vấn đề thi pháp hiện đại chung chung, chưa xem
xét đến các truyện ngắn trong chương trình 12 THPT. Thái Phan Vàng
Anh với bài viết “Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại” đăng trên Tạp chí Sông Hương số 237, 11- 2008 chỉ bàn đến
các vấn đề có tầm khái quát, nhưng chưa chỉ ra một hướng tiếp cận cụ thể
nào trước một văn bản tự sự được học trong chương trình phổ thông.
Mặt khác, truyện ngắn lấy phương thức trần thuật (là một phương diện
cơ bản của nghệ thuật tự sự - một phương thức biểu đạt thông dụng mà
văn học lựa chọn) để hiểu biết và phản ánh đời sống. Nghệ thuật trần
thuật giúp cho người nghiên cứu đi sâu khám phá những đặc sắc trong
nghệ thuật kể chuyện của mỗi nhà văn, trên cơ sở đó, người đọc tiếp nhận
và giải mã cấu trúc bên trong tác phẩm, đồng thời có thể đánh giá những
sáng tạo, những đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển truyện ngắn
nói riêng và quá trình hiện đại hoá văn xuôi Việt Nam nói chung.

Với văn học hiện đại, khi ý thức tạo dựng nhiều góc nhìn thì điểm
nhìn trần thuật thực sự trở thành một phạm trù quan trọng của thi pháp
học hiện đại. Tìm hiểu điểm nhìn là tìm hiểu một kiểu quan hệ, một
phương thức tiếp cận của nhà văn với hiện thực…
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
Người giáo viên sẽ giúp học sinh hiểu được một số vấn đề liên quan
đến lời văn nghệ thuật trong các văn bản tự sự cụ thể:
Lời văn trong tác phẩm văn học nghệ thuật là một hiện tượng nghệ
thuật. Văn học, một loại hình độc lập, phát triển song song với các loại
hình nghệ thuật khác nhưng lấy ngôn ngữ là phương tiện diễn đạt. Ngôn
ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Và ngôn ngữ văn học lại có những
đặc trưng riêng: tính chính xác, trong sáng; tính hàm xúc; tính mơ hồ, đa
nghĩa; tính tạo hình, biểu cảm.
Lời văn nghệ thuật của tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng có chức

năng xây dựng hình tượng nên luôn luôn mang tính thẩm mĩ cao. Lời văn
nghệ thuật được xây dựng từ tất cả những khả năng và phương diện ngôn
ngữ toàn dân trên mọi bình diện từ ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các
phương thức tu từ … đến các hình thức ngôn từ vốn có trong kho tàng
ngôn ngữ dân tộc: từ cổ, từ địa phương, tiếng lóng và các vốn từ đã trở
thành di sản nghệ thuật dân tộc.
Truyện ngắn, một thể loại tự sự trong văn học bao giờ cũng phản ánh
cuộc sống qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể
chuyện nào đó, qua đó ta hiểu được sự nhận thức đánh giá của nhà văn
đối với cuộc sống. Do đó tác phẩm bao giờ cũng có hình tượng người
trần thuật với vai trò kể lại, tả lại những diễn biến, sự việc và khắc hoạ
nhân vật trong câu chuyện. Lời kể luôn xuất phát từ những điểm nhìn
nhất định, gắn với vấn đề vai kể, giọng kể… Trong văn xuôi tự sự điểm
nhìn có khi được di chuyển, vai kể, giọng kể cũng không thuần nhất. Xét
về chức năng xây dựng hình tượng, có thể phân loại lời người kể thành
lời kể/ lời trần thuật, lời miêu tả, lời trữ tình( lời bình luận trực tiếp).

Mỗi văn bản tự sự ( Vợ nhặt – Kim Lân; Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài) sẽ
được xem xét, phân tích lời văn nghệ thuật, cụ thể là ở các mặt sau:
- Kết cấu văn bản
- Nghệ thuật trần thuật
- Điểm nhìn nghệ thuật
- Ngôn ngữ nghệ thuật
2.1. Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân:
2.1.1. Kết cấu văn bản:
* Trong văn học, khái niệm kết cấu bao hàm không chỉ sự liên kết bên ngoài
(mối liên hệ kết nối giữa các phần, các chương đoạn) mà cả sự liên kết bên
trong (cấu trúc nội dung cụ thể) của tác phẩm. Đó là "phương tiện cơ bản và tất
yếu của khái quát nghệ thuật", có "chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư
tưởng của tác phẩm; triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn

trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện
tượng thẩm mĩ" (Từ điển thuật Ngữ văn học, nhà xuất bản Giáo dục, 1992).
Như vậy, kết cấu là một yếu tố của hình thức tham gia thể hiện chủ đề nội dung
và tư tưởng tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc biến tác phẩm thành
một chỉnh thể nghệ thuật.
Nhữ Bá Sĩ rất quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối thế kỉ XVIII đầu
thế kỉ XIX. Ông từng nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là
không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà không đóng, mở, kết
cấu thì cũng không thành văn chương”. Sách Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm
và thể loại văn học) cho rằng : “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể,
quan hệ hay quy tắc, phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là
thực tế không thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản.”
Truyện Vợ nhặt – Kim Lân cũng có một kết cấu rất riêng.
Truyện Vợ nhặt diễn ra trong không gian nghệ thuật nhỏ bé là ngôi chợ, xóm
nhỏ ngụ cư và căn nhà của gia đình Tràng. Đây là không gian một làng quê
nhưng không có ruộng đồng cò bay thẳng cánh mà chỉ là xóm ngự cư trong
những ngày cận kề bên cái đói, cái chết. Sự chết chóc hiện lên với con đường

khẳng khiu cùng những bóng người dật dờ đi lại, kèm theo âm thanh của tiếng
quạ kêu từng đàn thê thiết. Nhưng không gian ấy phát triển ấm áp dần theo tâm
lí nhân vật với ý nghĩa biểu tượng.Và truyện dẫn đến không gian ngôi nhà, tổ
ấm. Căn nhà lúc đầu được miêu tả rúm ró, lổn nhổn cỏ dại nhưng đến sáng hôm
sau quang quẻ hơn, tạo thành bước ngoặt tâm lí ở Tràng: “Bỗng nhiên hắn thấy
hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Ngoài ra, không gian bối
cảnh xã hội trong truyện là xã hội nghèo đói, loạn lạc Việt Nam những năm
trước Cách mạng tháng Tám, cụ thể là năm 1945.
Thời gian nghệ thuật cũng ngắn ngủi. Chỉ là buổi chiều Tràng đưa người vợ
về, buổi tối trong căn nhà và buổi sáng hôm sau. Ở đây, Kim Lân đã sử dụng
yếu tố hồi tưởng: nhân vật nhớ lại đã “nhặt vợ” như thế nào. Đó là thời gian quá
khứ gần, vừa mới xảy ra, cách thời gian hiện tại trong gang tấc nên sự việc vẫn

còn mới nguyên. Mạch truyện cũng dẫn đến tương lai được mở ra với câu nói
của bà cụ Tứ: “ Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau Này ngoảnh đi
ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.
Trên trục không gian và thời gian ấy, truyện Vợ nhặt có kết cấu bốn phần:
Phần 1: Tràng xuất hiện trong bóng chiều, đi làm về qua xóm nhỏ. Khi cái đói
chưa tràn về, Tràng thường được bọn trẻ đón mừng, nhưng dạo này chúng ngồi
ủ rủ còn Tràng thì mệt mỏi lê bước. Nhưng một buổi chiều Tràng về với một
người đàn bà nữa. Xóm ngụ cư bỗng xôn xao, người ta bàn tán, người đàn bà
ngượng nghịu còn Tràng thì không giấu niềm vui, niềm sung sướng.
Phần 2: Tràng nhớ lại hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa, bốn bát bánh đúc mà
mình có vợ.
Phần 3: Bà cụ Tứ xuất hiện. Tâm trạng và tình thương của bà đối với vợ
chồng mới.
Phần 4: Sáng hôm sau, bữa cơm ngày đói trong tiếng trống thúc thuế. Vợ
Tràng nói đến đòan người đi cướp kho thóc của Nhật và Tràng nghĩ về chuyện
đó.
Đầu truyện là ánh sáng lúc chạng vạng mặt người. Tràng một mình đi về.
Cuối truyện là ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa xói vào hai con mắt Tràng,

lửng lơ như từ giấc mơ đi ra, chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân, lòng
lâng lâng nghĩ về hạnh phúc gia đình.
Đầu truyện là nạn đói, kết thúc truyện là đoàn người đi cướp kho thóc của
Nhật, phía trước có lá cờ đỏ bay phấp phới. Truyện có một kết cấu chặt chẽ,
phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
2.1.2. Nghệ thuật trần thuật:
Ngòi bút kể chuyện của Kim Lân đã dựng lại được không khí bao trùm bởi
cái đói, cái chết năm Ất Dậu qua khung cảnh xóm ngụ cư đầy tử khí. Và không
khí truyện lại sáng lên một buổi chiều Tràng về với một người đàn bà. Đây là
sự sáng tạo trong bút pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa của Kim Lân. Nhưng
thành công ở truyện là nghệ thuật dẫn truyện: khéo léo, linh họat. Truyện được

dẫn dắt theo bước chân của Tràng và người đàn bà về đến nhà.
Không khí truyện tươi sáng qua đoạn kể cuộc đối thọai giữa đôi vợ chồng mới
bỗng chùng xuống với khuôn mặt “bần thần” của người vợ và nỗi lo sợ vu vơ
của Tràng khi về đến nhà. Và nỗi lo sợ ấy dồn vào câu nghĩ: “Sao hôm nay bà
lão về muộn thế không biết!”. Sự xuất hiện của bà cụ Tứ trong truyện thật tự
nhiên và hợp lí.
Nhà văn Kim Lân lại quay về hồi tưởng để thuật lại hai lần gặp gỡ của Tràng
với người “vợ nhặt”. Cách kể đó góp phần tăng sự hấp dẫn, thuyết phục đến
người đọc.
Bà cụ Tứ chỉ xuất hiện gần cuối truyện. Việc đặt nhân vật vào đúng lúc này có
ý nghĩa trong kết cấu câu chuyện và tăng giá trị cho tác phẩm. Tác giả đã thuật
một cách đằm thắm tâm trạng của người mẹ nghèo khổ nhưng rất mực thương
con, thương dâu. Tâm trạng bà cụ Tứ được diễn tả từ ngạc nhiên, buồn vui lẫn
lộn, xen lẫn lo lắng, đến xót thương. Nếu giọng văn nhanh, gấp rút theo bước
chân sầm sập của cô gái, cái liều lĩnh của Tràng ở đoạn đầu thì ở đoạn này thật
chậm rãi, kéo dài theo tâm trạng của bà cụ Tứ. Ngôi nhà của gia đình Tràng giờ
đã có ánh sáng của đèn dầu do bàn tay anh tự thắp.
Những dòng văn tả cảnh sân vườn sáng hôm sau, với giọng điệu chân thành,
giản dị. ấm áp vô cùng. Tác giả cho Tràng thức dậy muộn trong trạng thái bồng

bềnh giữa thực và mơ. Đôi mắt Tràng đã nhận ra sự thay đổi khác thường trên
sân vườn. Với những chi tiết thực, sống động, Kim Lân đã miêu tả: áo quần
rách được phơi hong, ang khô cong đã đầy nước, đống rác đã hốt sạch và hai
người đàn bà đang giẫy cỏ, quét sân. Ánh nắng sớm mùa hè, khiến Tràng nheo
mắt nhưng lại giúp Tràng nhận rõ hơn không gian hạnh phúc của mình. Câu
chuyện dừng lại trong sự suy tư của Tràng với những lời độc thoại nội tâm của
nhân vật đã giúp nhà văn bộc lộ chiều sâu quan niệm của Kim Lân về hạnh
phúc của những người lao động nghèo.
2.1.3. Điểm nhìn nghệ thuật:
Trong tác phẩm văn xuôi tự sự, nội dung trần thuật phải được thể hiện từ điểm

nhìn, bằng quan điểm trần thuật nào đó. Vì vậy khi dạy Đọc – Hiểu văn bản tự
sự người giáo viên phải giúp học sinh xác định điểm nhìn trần thuật nghĩa là chỉ
rõ vị trí người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật, tường thuật câu chuyện trong
tác phẩm.
Truyện Vợ nhặt được khơi gợi từ nạn đói năm 1945 và chủ yếu là từ những
con người trong nạn đói. Kim Lân từng nói :“Nội dung truyện dài này (truyện
Xóm ngụ cư – tiền thân truyện vợ nhặt) nói về thân phận của những con người
bị khinh rẻ, với cuộc sống nghèo đói, bệnh tật kéo dài cho đến ngày khởi nghĩa.
Ý nghĩa truyện: trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ
nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm
đạm, để mà vui, mà hi vọng. Có những người sắp chết đói, vẫn cứ kể chuyện về
làng mình, về đất đai, bản quản của mình. Thân xác họ đã lả đi, mà vẫn cứ lởn
vởn, cứ đau đáu nghĩ tới ngày trở về làng…”
Từ cảm hứng ấy và tấm lòng nhân hậu sâu sắc Kim Lân đã tái hiện được cốt
truyện, xây dựng được các nhân vật điển hình với những tâm trạng phong phú,
phức tạp. Đọc truyện của ông ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt
giữa Kim Lân và người nông dân, nên ông mới có thể miêu tả người nông dân
trong những năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy. Ngay cả khi xây dựng
những tình tiết có vẻ buồn cười thì bên trong đó lại là những nỗi buồn và niềm
thương cảm sâu sắc. Những trang viết về những con người “dưới đáy” ấy đã

khiến ta xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt
hơn trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ. Ở đây, tác giả không
hề muốn nhấn mạnh những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và
nhân cách. Ngược lại, nhà văn đã đặt các nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,
lay lắt của cái đói, cái chết để tìm ra một cơ hội để biểu hiện niềm khao khát
được sống, được thương yêu và hy vọng mãnh liệt của họ. Kết thúc truyện có
câu chuyện về phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong óc
Tràng đã mang lại niềm tin, niềm hi vọng cho người đọc. Nhà văn muốn thông
qua nhận thức của nhân vật Tràng để chỉ rõ : con đường duy nhất thoát nghèo

đói là đấu tranh cách mạng. Qua truyện, Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung
của những người nông dân “rũ bùn đứng dậy sáng loà”, chiến đấu vì đất nước,
để thoát khỏi số phận tối tăm trước mắt. Hình dáng người nông dân nổi bật
trước lá cờ đỏ sao vàng, lá cờ lý tưởng cách mạng, lá cờ của niềm tin chiến
thắng. Đây chính là quan điểm tiến bộ của nhà văn Kim Lân giác ngộ, đi theo
cách mạng. Kết thúc truyện “Vợ nhặt”cũng là nét chung chứng minh đặc điểm
thi pháp văn học cách mạng.
2.1.4. Ngôn ngữ nghệ thuật:
M. Gorki khẳng định: “Ngôn ngữ yếu tố thứ nhất của văn học”. Ngôn
ngữ của nhân vật văn học thành công thường được cá thể hóa cao độ, nghĩa là
mang đậm dấu ấn của một cá nhân. Nhà văn có tài là người biết sống với nhiều
nhân vật, nắm bắt được nhiều kiểu ngôn ngữ. Trong bài viết “Sử dụng ngôn
ngữ nghệ thuật đặc sắc của truyện Kim Lân” tác giả Bảo Nguyên đã cho
rằng “Kim Lân lựa chọn những từ ngữ còn mang hơi thở của cuộc sống hằng
ngày, để diễn đạt chúng với cuộc sống miền quê với những con người giản dị
mà đáng yêu”.
Trong truyện Vợ nhặt, Kim Lân đã sử dụng ngôn ngữ nông thôn mộc cách tự
nhiên. Trong nghệ thuật tả cảnh, tả người, miêu tả tâm lí nhân vật hay xây dựng
đối thọai, nhà văn tỏ ra có vốn từ ngữ dân quê. Con đường qua xóm chợ được
tác giả miêu tả với hai từ “khẳng khiu”, hết sức tượng hình, và sự tối tăm, của
xóm chợ được miêu tả “Hai bên dãy phố, úp súp tối om”, thật độc đáo, rất đắt.

Khi miêu tả nơi ở nghèo khó, tạm bợ của mẹ con Tràng, Kim Lân chỉ cần miêu
tả “cái nhà vắng teo”, “đứng rúm ró” trên vườn cỏ “lổn nhổn”. Còn miêu tả
về ngọai hình khác thường của Tràng, tác giả lại dùng : “gà gà”, “nhấp
nhỉnh”, Hoặc trong truyện tác giả còn dùng “dật dờ đi lại”, “gào lên từng hồi
thê thiết”, “khoặm mặt lại”, “tầm phơ tầm phào”, “ngồi vêu ra ở đấy”, “con
mắt trũng hoáy” tất cả được sử dụng rất chính xác.
Ngoài ra, những tâm trạng kín đáo nhất cũng phải hiện lên qua những cử chỉ
hành động một cách tinh tế: tiếng gắt vô duyên vô cớ, một tiếng khẽ ho bình

thường, những bước chân bước vội ra sân, thái độ điềm nhiên và miếng cám
vào trong miệng… Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, mang đậm tính
chất nông thôn, cái lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo,
giản dị mà hào hoa.
Truyện Vợ nhặt càng đặc sắc hơn là ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật.
Chúng ta đọc đoạn văn sau:
Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu
chơi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!
Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ
đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắngmấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?
Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt cười tít.
Qua đoạn văn trên, nhà văn Kim Lân giúp ta hiểu sự gần gũi, mộc mạc, sự chân
tình, dí dỏm của những người lao động nghèo, trẻ trung. Cuộc đối thoại diễn ra
tự nhiên, thoải mái : nhiều câu nói trống không( không có chủ ngữ, không có từ

xưng hô) hoặc dùng từ xưng hô kiểu thân mật của khẩu ngữ( đằng ấy, nhà tôi),
nhiều câu đùa nghịch thân mật, dùng cả hình thức hò trong dân gian. Lúc đầu
quan hệ giữa họ là xa lạ, không quen biết, nhưng sau đó thân mật hơn và có
phần suồng sã. Họ cười đùa, nói chuyện làm ăn, về công việc và miếng cơm
manh áo. Nhân vật Tràng được tác giả giới thiệu là một chàng trai hiền lành,
chân chất; thị và các bạn gái thì lanh lợi, vui vẻ. Riêng thị thì tốt bụng, rất bạo
dạn. Như vậy, qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả đã làm nổi bật tính cách, giọng

điệu riêng của từng người. Nhấn mạnh sự quê mùa, cục mịch, thô kệch của
Tràng; sự chao chát, chỏng lỏn của người “vợ nhặt” - kẻ đang gặp cảnh đói
kém, lang thang, Kim Lân đã cho họ gặp gỡ và về cùng một nhà với những câu
như: “ Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã”,
“Có ăn thì ăn thật, chả ăn giầu”,“Rích bố cu, hở”, “Hà, ngon! Về chị ấy thấy
hụt tiền thì bỏ bố”, “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra
khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Đó là ngôn ngữ giao tiếp đời thường, của tình
duyên của những người lao động nghèo trong xã hội cũ.
Khi Tràng đưa người phụ nữ về nhà, tác giả cho hai nhân vật nói những câu
cộc lốc, những câu tỉnh lược, những câu đặc biệt như: “Gì hả”, “Không”, Còn
chán”, “Khiếp”, “Nhà có ai không?”, “ Có một mình tôi mấy u”, “Đằng này
à”, “Ừ”, “Sắp đến chưa?”, “Sắp” Những lời nói đó đã bộc lộ sự mới mẻ, sự
xa lạ, sự ngượng ngùng của đôi vợ chồng mới. Thậm chí, nhà văn còn lột tả sự
thiếu hụt lời ăn tiếng nói ở anh chàng Tràng: “Hắn định nói với thị vài câu rõ
tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Hắn cứ lúng ta lúng túng ” hay cách trả lời
lúng túng, không rõ nghĩa của Tràng “Có một mình tôi mấy u”. Khi đọc truyện
Vợ nhặt, người đọc không thể quên những đoạn đối thọai đặc sắc:
“ Câu chuyện xem chừng đã thân thân. Hắn đi sát gần bên thị hơn, ngẫm
nghĩ một lúc, chợt hắn giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay khoe:
- Dầu tối thắp đây này.
- Sang nhỉ.
- Khá thôi. Hai hào đấy, đắt quá, có mà thôi chả cần.
- Hoang nó vừa vừa chứ.

Hắn chặc lưỡi:
- Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ tối đã
rúc vào ngay, hì hì
- Khỉ gió”.
2. 2. Lời văn nghệ thuật trong truyện Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài
2.2.1. Kết cấu văn bản:

Truyện Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn trong tập truyện Tây Bắc. Truyện có
hai phần, viết về hai giai đoạn của cuộc đời Mị và A Phủ: Giai đoạn ở Hồng
Ngài, trong nhà thống lí Pa Tra; Giai đoạn ở Phiềng Sa, hai vợ chồng gặp gỡ
cách mạng rồi trở thành du kích.
Đoạn trích trong sách giáo khoa Vợ chồng A Phủ thuộc giai đoạn đầu: ở
Hồng Ngài. Truyện kể không theo trật tự thời gian. Mở đầu là hình ảnh “Ai ở
xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào, cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi…Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải
con gái nhà Pa Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra”. Nhà văn đã có
cách giới thiệu nhân vật Mị đặc sắc, đầy ấn tượng, gợi ra số phận đau khổ éo le
của Mị. Từ đó, mạch truyện đưa chúng ta quay về quá khứ, về kỉ niệm gia đình,
tình yêu êm đềm của Mị; rồi tác giả kể đến chuỗi ngày sống cảnh ngục tù và
tâm trạng vô cảm của Mị khi bị bắt làm dâu gạt nợ ở nhà thống lí Pa Tra. Kế
tiếp là sức sống của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông trên núi cao. Kết
thúc truyện là Mị “người đàn bà chê chồng” này đã chạy theo A Phủ.
Không gian nghệ thuật trong truyện là không gian thiên nhiên rộng lớn của
vùng đất Tây Bắc đẹp và nên thơ. Và không gian ấy cũng chứa đựng tâm trạng
của nhân vật Mị. Bên cạnh đó còn có không gian hẹp là nhà thống lí Pá Tra,
cùng gian buồng của Mị. Ngôi nhà ấy đã hủy hoại biết bao đời con người lao
động lương thiện, dập tắt bao sự sống, khát vọng tự do, tình yêu, tuổi trẻ. Căn
buồng Mị ở, thực chất là một địa ngục giam hãm tuổi xuân, sức sống, tình yêu,
hạnh phúc của người con gái tài hoa, xinh đẹp và nết na vùng cao ấy. “Ở buồng

Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông
ta cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay lá nắng”.
Thời gian nghệ thuật trong truyện rất đa dạng: có thời gian hiện tại, quá khứ,
tương lai. Thời gian quá khứ được gợi chủ yếu qua hồi ức của Mị. Đó là khi Mị
ở nhà với bố, được sống tự do bên cạnh những người yêu thương nên được

miêu tả đều đều, chậm rãi. Thời gian hiện tại là thời gian Mị bị giam hãm của
kiếp đoạ đày nô lệ ở nhà thống lí Pá Tra nên nó được kéo căng làm cho tưởng
chừng như vô hạn. Thời gian tương lai trong truyện diễn ra nhanh, gấp rút phù
hợp với chuỗi diễn biến từ việc Mị cắt dây trói cứu A Phủ, chạy theo A Phủ và
cùng tìm đến hạnh phúc, đến sự sống, đến tương lai ngày mai.
2.2.2. Nghệ thuật trần thuật:
Truyện Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài coù cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ,
tự nhiên mà ấn tượng. Cách trần thuật ngắn gọn, việc dẫn dắt tình tiết khéo làm
cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không
trùng lặp. Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên
vách làm hiệu, rủ người yêu dở vách ra rừng chơi. Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi.
Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại
đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo, tiếng chó
sủa xa xa. Mị lúc tỉnh lúc mê. Cho đến khi trời tang tảng rồi không biết sáng tự
bao giờ”.
Ngôn ngữ trần thuật của Tô Hoài rất sinh động, có sự chọn lọc và sáng tạo.
Lối văn giàu tính tạo hình, có chỗ như quay cận cảnh, viễn cảnh của điện ảnh.
Nhà văn đã vận dụng cách nói của người miền núi hồn nhiên, đầy hình ảnh.
“Đến Tết năm ấy. Tết thì vui chơi, trai gái đánh phao, đánh quay rồi đêm đêm
rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng
chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh
vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị.”
Giọng trần thuật hòa nhập tự nhiên với tư tưởng của truyện và nội dung từng
đoạn. Các đoạn văn “Rượu đã tan lúc nào… quả Pao rơi rồi”, “ Nhìn thấy tình
cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước…Người kia việc gì phải chết thế.

A Phủ …” giọng trần thuật của tác giả nhập vào dòng tâm tư của nhân vật Mị,
diễn tả được những ý nghĩ, tâm trạng và cả những trạng thái mơ hồ, vô thức của
Mị.
Nhịp kể chậm rãi, giọng kể trầm lắng cảm thông, sẻ chia, yêu mến hai nhân

vật Mị và A Phủ.
“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa”.
“Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa
nhà, lại bị người nhà xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt giập
chảy máu…”
Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong của
nhân vật, vừa bộc lộ đời sống nội tâm nhân vật, vừa tạo được sự đồng cảm.
“ Trời ơi, nó bắt trói Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
Truyện của Tô Hoài sự kết hợp nhiều lời trần thuật: khi trần thuật khách quan,
khi là trực tiếp, lại có khi là nửa trực tiếp. Đọc Vợ chồng A Phủ, người đọc
thấm thía ý nghĩa của tiếng sáo gọi bạn tình vào đêm mùa xuân. Từ khi Mị trở
về chào bố để chết và hiểu rằng mình chưa thể chết, nên Mị đành chấp nhận
kiếp nô lệ, cứ “lùi lũi như con rùa trong xó cửa”. Tuổi xuân của người phụ nữ
xinh đẹp, tài hoa ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp, tăm tối, trong căn
buồng chỉ có một lỗ cửa sổ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài kia cứ thấy một
màu mờ mờ trắng trắng không biết là sương hay là nắng. Mị xem mình sống mà
như đã chết. Ở lâu trong cái khổ Mị cũng quen cái khổ rồi. Thậm chí, đến khi
người bố, già chết đi, cô cũng chẳng nghĩ đến chuyện rời khỏi nhà thống lí nữa.
Nhưng chính tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm mùa xuân ấy đã đánh thức ở Mị:
ý niệm về thời gian, hoài niệm về tuổi trẻ cùng khát vọng hạnh phúc, tình yêu
trong con người tưởng đã chai sạn, vô cảm bởi lao động cùng cực, đau khổ, bất
hạnh. Ngòi bút Tô Hoài như hồi hộp dõi theo nỗi lòng Mị để diễn tả quá trình
trỗi dậy của một sức sống tiềm tàng theo các bước ngày càng cao, càng nồng
nàn. Cũng từ đây, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật của nhà văn bắt

đầu chuyển đổi. Giọng điệu trần thuật không hoàn toàn khách quan nữa mà lúc
này có sự kết hợp với điểm nhìn trần thuật từ nhân vật, xuất hiện lời trần thuật
nửa trực tiếp:“Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị

không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy,
nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm
nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị đã ngồi xuống
giường, trông ra cái lỗ cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy
phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày
trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Trong đoạn văn này,
nhà văn từ chỗ trần thuật khách quan (từ chỗ đứng người kể chuyện) sang nhập
thân vào nhân vật; cụ thể ở ba câu cuối có sự dịch chuyển, kết hợp tự nhiên các
điểm nhìn, giọng điệu. Tô Hoài đã viết liên tiếp ba câu văn ngắn cùng một chủ
ngữ là Mị. Lời văn thay đổi bất ngờ theo nhịp hối hả, dồn dập đã bộc lộ khát
vọng sống đang trào dâng trong lòng Mị. Ở đây ta không thể phân định rạch ròi:
đâu là lời nhân vật, đâu là lời tác giả. Bởi nhà văn không đứng bên ngoài mà tả,
mà kể nữa, mà đã nhập thân vào Mị, thổn thức cùng Mị ở thời khắc ấy.
2.2.3. Điểm nhìn nghệ thuật:
Nhà văn Tô Hoài đã từng tâm sự “Đất nước và con người miền Tây đã để
thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên… Hình ảnh Tây
Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc
trong tâm trí tôi…”. Vì thế xuyên suốt tác phẩm Vợ chồng A Phủ lại là cảm
hứng hồi sinh, cảm hứng ngợi ca và cảm hứng nhân đạo. Từ cảm hứng bao trùm
đó, nhà văn đã xây dựng những hình tượng nhân vật mang số phận cộng đồng.
Mặt khác, qua truyện ngắn, nhà văn đứng về khát vọng sống, khát vọng yêu của
những con người miền núi; đồng thời ông tin vào sức sống bất diệt của con
người, đồng cảm với nguyện vọng tha thiết muốn vươn lên làm người tự do,
hạnh phúc.
Chính cảm hứng sáng tác này đã giúp Tô Hoài thành công trong việc kết hợp
nhiều điểm nhìn (bên ngoài, bên trong, xa, gần). Từ đó Tô Hoài giúp bạn đọc

dần dần khám phá thế giới nội tâm sâu thẳm và ngọn lửa sống âm ỉ sau vẻ ngoài
vô cảm của Mị.
Tác giả đã dõi theo từng bước biến diễn, phát triển của đời sống tâm hồn

nhân vật, được đặt trong một hoàn cảnh khá “điển hình” là mùa xuân về trên
vùng núi cao. Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mị bùng cháy mạnh mẻ
đấy là “đêm tình mùa xuân”. Chúng ta lắng theo tiếng sáo, tiếng khèn và tiếng
reo hò của đám trai gái và trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại:“tai Mị
văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Cái nồng nàn của một đêm xuân lại
được tăng thêm bởi bữa cơm rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ỹ và
đám người nhảy đồng, người hát… “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu,
cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Mị đã sống lại với những kỉ niệm đẹp của
ngày trước, những ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, với những bữa rượu bên bếp lửa
ấm cúng, với những tiếng sáo dặt dìu của bao nhiêu trai làng ngày đêm theo
Mị…
Tâm hồn Mị đã hồi sinh. Mị trở lại với những niềm vui sống, trong chốc lát:
“Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết
ngày trước, Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lòng ham sống ở Mị
đã trỗi dậy. Sức sống ở Mị bấy lâu nay bị đè nén bỗng trào lên, không thể dập
tắt được nữa. Phản ứng đầu tiên đến trong tâm trí Mị là một ý nghĩ “Nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại
nữa…”,“tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”), đã xâm nhập
thế giới tâm hồn Mị, trở thành một hiện hữu của đời sống bên trong “trong đầu
Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Và sự chuyển biến tâm hồn đã thành bước phát
triển quyết định, chuyển thành hành động. Mà đầu tiên là một hành động có
nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa
đèn cho sáng”. Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi
của lòng mình: quấn lại tóc, rút cái váy hoa…, sửa soạn đi chơi Tết. Giữa lúc
lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc nó bị dập xuống phũ
phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà. “Tóc
Mị xõa xuống, A Sử quấn tóc lên cột… Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng

xanh ra ngoài áo, rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa lại”. Nhà văn Tô Hoài đã
lên án sự tàn ác, dã man đến thản nhiên của một kẻ không còn tình người – A

Sử.
Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt
giữa niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh
lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn sống trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, với
những đám chơi Tết ngoài kia. “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi”. Mị như quên mình là đang bị trói, quên những đau đớn thể
xác, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộc sống mãnh liệt. Mị đã vùng
bước đi!”. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh
trái ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào vách
khô khan: Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào
vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không
bằng con ngựa”. Thực tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát
vọng tươi sáng ở Mị. Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một hoàn cảnh thật
căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm hồn
nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp qui luật. Tác giả đã
miêu tả tâm lý khá sâu sắc và tinh tế, có thể nói rằng tác giả đã đạt đến “biện
chứng pháp của tâm hồn nhân vật”. Ngòi bút của nhà văn cũng thấm nhuần
tinh thần nhân đạo, thể hiện trong niềm tin, sự trân trọng đối với khát vọng
sống, khát vọng hạnh phúc ở những con người bị đọa đày đau khổ. Đấy cũng là
sự tiếp nối tự nhiên tinh thần nhân đạo trong truyền thống văn học dân tộc, và
được phát triển lên một mức cao hơn. Nếu như những nhà văn trước 1945 đã
không thể tìm ra con đường thoát cho những nạn nhân đau khổ trong tác phẩm
của họ, còn cô Mị – cũng như nhiều nhân vật khác trong các tác phẩm văn học
hiện đại – thì đã tìm thấy con đường giải phóng thật sự, tìm thấy sự thực hiện
những ước vọng chân chính của mình trong quá trình đến với cách mạng, dưới
ánh sáng của Đảng. Quá trình giác ngộ và trưởng thành ấy sẽ diễn ra ở phần sau
của tác phẩm nhưng động lực thúc đẩy thì đã được phát động lên từ trong hành
động đấu tranh tự phát ở ngay trong đoạn đầu. Như vậy, chính tấm lòng nhân

ái, sự đồng cảm sâu sắc ở những số phận bất hạnh như Mị, A Phủ đã khiến cho

Tô Hoài có cách phản ánh, miêu tả, lí giải cuộc đời, số phận và con đường thoát
khỏi thân phận nô lệ đi đến giành cuộc sống tự do, hạnh phúc cho mình.
2.2.4. Ngôn ngữ nghệ thuật:
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ xuất phát từ đời sống
quần chúng. Tô Hoài quan niệm đó là kho của cải vô giá và ông đã biết cách
chọn lựa, nâng cao và nghệ thuật hóa trong các sáng tác của mình để tăng thêm
giá trị của nó. Ở từng vùng đất, từng đối tượng, từng loại nhân vật, ông đều có
cách sử dụng ngôn ngữ thích ứng với đặc điểm của nó. Mặt khác, ông còn sử
dụng thành công những từ ngữ giàu sức tạo hình, từ chỉ màu sắc, từ địa phương;
những câu văn hàm súc, cô đọng Điều đó tạo cho tác phẩm của ông vừa có vẻ
đẹp giản dị, vừa không kém phần kì thú. Ông khẳng định: “Mỗi chữ phải là một
hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm
được, do phong cách văn chương của mình mà có”…“Câu nói là bộ mặt của ý.
Ý không bao giờ lặp lại, cũng như cuộc sống không bao giờ trở lại giống nhau
như đúc thì lời văn cũng phải thế”(Sổ tay viết văn).
Ở truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, hay nhất có lẽ là những trang Tô Hoài diễn tả
sự trỗi dậy từng bước của sức sống tiềm tàng trong lòng Mị, quá trình hồi sinh
của tâm hồn cô trong đêm mùa xuân nghe tiếng sáo gọi bạn tình. Mị sống trong
tâm trạng thiết tha bổi hổi rồi ngày càng rạo rực của nhân vật khi bỗng nghe
tiếng sáo. Đó là lúc mùa xuân về trên vùng núi cao. Người Hmông ở Hồng Ngài
ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu họach mùa màng. Cái
Tết năm ấy đến “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ
dội”, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân. “những chiếc
váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòa như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện
vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi sang màu tím man mát”. Và
còn những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi Tết, chơi quay,
cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Sự sống của tạo vật và con người như được
khởi động, bừng tỉnh. Cũng từ ngoại cảnh ấy, tâm hồn Mị đã có sự thay đổi:

“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo

vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”
“Anh ném pao, em em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi ”
Khi miêu tả tâm trạng ngân vật Mị trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ, Tô
Hoài viết “ đám than đã vạc hẳn lửa”. Đó cũng là thời khắc Mị nhớ lại đời
mình. Ngọn lửa sức sống tiềm tàng như than hồng trong tro đã giúp cô vượt lên
nỗi sợ hãi, hình thành ý định giải cứu A Phủ – dẫu phải trói thay, chết trên cái
cọc ấy, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Rồi nhà văn viết tiếp một câu diễn tả
khoảnh khắc sau phút hốt hoảng của Mị: “Mị đứng lặng trong bóng tối”.
Tiếp liền đó, ông đảo trật tự câu tả ở đoạn sau: “Rồi Mị cũng vụt chạy ra.
Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Đây mới là thời điểm Mị thật sự cắt sợi
dây trói vô hình, tự giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Hành động ấy đã khẳng định khát
vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt của nhân vật Mị. Chỉ vài câu văn ngắn
nhưng Tô Hoài đã làm rõ sự thức tỉnh và gặp gỡ của những con người đau khổ,
vượt lên bóng tối đời mình.
Một trong những mặt thành công khác của truyện Vợ chồng A Phủ là xây
dựng ngôn ngữ đối thoại. Tác giả sử dụng những từ ngữ gần với lời ăn tiếng nói
hàng ngày của người dân miền núi.Từ những chi tiết nhỏ nhất như cách xưng
hô “tao- mày”, đến cách nói tự nhiên, mộc mạc không khoa trương, không ẩn ý
cầu kì, thấm đượm tính tình chân chất. Thông thường, tác giả thường dùng
những câu văn đối thoại ngắn, ý rõ ràng, dễ hiểu mang cách đối đáp của người
vùng núi Tây Bắc; đồng thời cũng thể hiện vị thế xã hội, tâm trạng nhân vật.
Đoạn đầu truyên tác giả dựng cuộc đối thoại giữa ba người : thống lí Pá Tra,
bố của Mị, Mị. Dù lời nói của thống lí Pá Tra không hướng về Mị, nhưng nó lại

liên quan trực tiếp đến cuộc đời của Mị, nên Mị đã lên tiếng cũng là cách trả lời

thay cho bố.
“Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:
- Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc
ngô, nhưng cũng thương con quá. Ông chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố
rằng::
-Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ
thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Khi muốn nhấn mạnh sự vô cảm của nhận vật Mị trước sự đoạ đầy về thể
xác lẫn tinh thần, Tô Hoài đã tạo dựng đoạn đối thoại giữa Mị và A Phủ nhưng
thực chất chỉ xuất hiện một chiều - một mình A Sử nói. Ta theo dõi cuộc đối
thoại sau:
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa.”
Một đoạn đối thoại khác lại diễn đạt sự đối lập giữa A Sử, con thống lí Pá
Tra với A Phủ. A Sử cậy con quan hiếp đáp, phá đám cuộc vui của trai làng. A
Phủ khỏe mạnh, ngang tàng, một mình đã đánh trả lại A Phủ.
“ Bọn kia đứng dồn cả lại, xôn xao:
- Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.
- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!”
Ta xét thêm một đoạn đối thoại nữa:
“Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói trong hơi
gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.


A Phủ nói : “ Đi với tôi”.
Ở đây, nhà văn đã sử dụng câu có sự tỉnh lược cao về các thành phần, phù
hợp tâm trạng lo lắng, hồi hộp của cả hai nhân vật Mị và A Phủ, khi đứng trước
ngưỡng cửa sự sống và cái chết.
Như vậy, nhân vật Mị được xây dựng là nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là
của hành động, cho nên nhà văn kiệm các câu đối thoại. Truyện ngắn của Tô
Hoài chủ yếu là sử dụng dạng độc thoại nội tâm để phù hợp tâm trạng nhân vật,
phục vụ cho chủ đề tư tưởng tác phẩm.
* KẾT LUẬN CHUNG
Trong nhà trường phổ thông, môn Văn là môn học luôn thể hiện, khẳng
định được vị trí, vai trò tích cực của nó. Đó là môn học vừa hình thành nhân
cách vừa hình thành tâm hồn cho con người. Trong thời đại hiện nay, dù khoa
học kĩ thuật phát triển rất nhanh, nhưng môn Văn sẽ mãi là môn học lưu giữ cho
tâm hồn con người những gì nhân văn, nhân bản nhất. Sau khi viết đề tài này,
bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về
phương pháp Đọc – Hiểu văn bản tự sự. Từ đó, tôi tin rằng kết quả học Văn của
học sinh sẽ cao hơn; các em sẽ yêu thích, ham mê môn Văn hơn nữa.
III- HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
- Trước hết, học sinh đã biết cách Đọc - Hiểu văn bản tự sự theo thể loại,
vận dụng tương đối tốt vào viết bài nghị luận văn học về một phân tích một
đoạn văn, một truyện ngắn.
- Tỉ lệ điểm bài kiểm tra trên trung bình cao hơn trước khá rõ.
- Học sinh hứng thú chuẩn bị bài, hăng say phát biểu xây dựng bài
KẾT QUẢ
KHI CHƯA THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

LỚP

Tỉ lệ
học sinh

giỏi
Tỉ lệ
học sinh
khá
Tỉ lệ
học sinh
trung
bình
Tỉ lệ
học sinh
yếu
Tỉ lệ
học sinh
kém

12A
7
(SS 42)
9,5 %

(4/42)

16,7 %

(7/42)
31 %
(13/42)

19 %
(8/42)


23,8 %

(10/44)



12 A
9
(SS 41)

12,2 %
(5/41)

32 %
(13/41)


41 %
(17/41)


14,6 %
(6/41)

12,2 %

(5/41)



KHI THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


LỚP

Tỉ lệ học
sinh giỏi
Tỉ lệ
học sinh
khá
Tỉ lệ
học sinh
trung bình

Tỉ lệ học
sinh yếu
Tỉ
l
họ
c sinh
kém


12A
7
(SS 42)

14,2%
(6/42)


23,8%
(10/42)
50 %
(21/42)
11,9 %
(5/42)
0 %

( 0 )
12 A
9
(SS 41)
17 %
(7/41)
34,1 %
(14/41)
37 %
(15/41)
4,9 %
(2/41)
0 %

(0)

IV- ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
1. Đối với phụ huynh, nhà trường, học sinh:
a. Đối với phụ huynh:
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời
gian cho con cái học tập, không nên để cho các em phụ giúp nhiều công việc
gia đình.

- Phụ huynh nên tạo điều kiện thuận lợi cho con trong việc học và trau dồi
kiến thức Văn (thời gian, mua sách, tìm tài liệu hỗ trợ…).

- Phụ huynh nên phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn Văn
để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
b. Đối với nhà trường, giáo viên, học sinh:
- Ban giám hiệu nên bố trí phòng học, quản lí học sinh, hỗ trợ về vật chất và
tinh thần cho giáo viên Văn trong việc sọan giảng.
- Giáo viên dạy Ngữ văn sẽ tổ chức những buổi sinh họat chuyên đề, ngọai
khóa để truyền tải hết các vấn đề về lời văn nghệ thuật của văn bản tự sự.
- Học sinh chủ động, tích cực phối hợp nhịp nhàng với giáo viên giảng dạy
ở lớp.
2. Đối với Sở giáo dục
- Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Văn trong từng năm để
giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực
nâng cao chất lượng dạy học môn Văn
- Có kế hoạch tham mưu với cấp trên có chế độ đãi ngộ hợp lí đối với giáo viên
giảng dạy phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém môn Văn
- Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông
tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy Văn
3. Đối với địa phương
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không
lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ
sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
Việc đưa ra đề tài trên chỉ là kinh nghiệm có tính chất cá nhân được rút ra
trong quá trình giảng dạy của bản thân. Vì thế, đề tài này khó tránh khỏi những
khiếm khuyết và hạn chế nhiều mặt. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
chân tình từ phía thầy cô và các bạn đồng nghiệp trong tỉnh.










V- TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Khravchenko,
Nxb Tác phẩm mới, 1978.
2. Lí luận và thi pháp tiểu thuyết M. Bakhtin, Phan Vĩnh Cư dịch, trường
viết văn Nguyễn Du xb, 1992.
3. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, Thái Phan
Vàng Anh, TCSH số 237- 11-2008.
4. Phân tích phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, Đỗ Việt Hùng,
Nguyễn Thị Ngân Hoa, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 2004.
5. Từ điển tu từ- phong cách - thi pháp học, Nguyễn Thái Hòa, nxb Giáo
dục.
6. Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975,
Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết, Nxb Đại học sư phạm, 2007.
7. Nhập môn ngôn ngữ học, Nhiều tác giả (Mai Ngọc Chừ chủ biên), Nxb
Giáo dục, 2007.
8. Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12, Trần Nho Thìn, Nxb Giáo dục, 2008.
9. Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử, Nxb Giáo dục, 2006.
10. Các kiểu kết cấu của truyện ngắn Pháp đương đại, Phạm Thị Thật, Đại
học Quốc gia HN, 2009.

NGƯỜI THỰC HIỆN


LÊ THỊ MỸ NGỌC


×