Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Luận án tiến sĩ kinh tế đầu tư các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức đối tác công – tư ( ppp) trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.55 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------
--------

TRẦN VĂN THẾ

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐẦU TƯ
CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN THEO HÌNH THỨC
ĐỐI TÁC CƠNG - TƯ (PPP) TRONG LĨNH VỰC
HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH KINH TẾ ĐẦU TƯ

HÀ NỘI - 2021


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách quốc gia hạn hẹp cùng với sự sụt giảm các nguồn hỗ trợ chính thức ở
các nước đang phát triển đã hạn chế việc cung cấp đầy đủ cơ sở hạ tầng giao thông. Mặt
khác, “áp lực phải phát triển cơ sở hạ tầng giao thông hiện đại đáp ứng sự gia tăng mạnh
mẽ của dân số và nhu cầu vận chuyển đã thơi thúc các nước tìm kiếm kênh cung cấp
mới phù hợp hơn, và hình thức hợp tác cơng – tư” (public private partnership - PPP)
ra đời (Yescombe, 2007).
Trong hai thập kỷ qua, “PPP đã được sử dụng phổ biến ở hầu hết các nước trên thế
giới, khẳng định là phương thức hiệu quả để cung cấp các cơ sở hạ tầng” (ADB, 2008).


Thông qua PPP, “một số lợi ích được tích luỹ gồm: tiếp cận nguồn vốn tư nhân (ADB, 2000),
tăng giá trị đồng tiền, hoàn thành dự án đúng tiến độ (Li và cộng sự, 2005) và cải thiện chất
lượng dịch vụ (Akintoye và cộng sự, 2003). Nghiên cứu của Hensher và Brewer (2001) còn
cho rằng PPP có thể tạo nên kỳ tích trong cơng cuộc cải thiện nền kinh tế của một quốc
gia” và điều này tiếp tục được khẳng định trong nghiên cứu của Raisbeck (2009). “Cuộc
khủng hoảng tài chính tồn cầu năm 2008 đã tạo ra nhiều thách thức về tài trợ vốn cho các
dự án giao thông ở hầu hết các nước trên thế giới khiến thị trường PPP toàn cầu đã sụt giảm
đáng kể, nhưng nền kinh tế đã nhanh chóng phục hồi và quay trở lại điểm trước khi xảy ra
khủng hoảng (Ngân hàng thế giới, 2010). PPP được xem là một trong những giải pháp phù
hợp để đối phó với tình trạng bất ổn hiện tại” (Plumb và các tác giả, 2009; Mazars, 2009).
Ở Việt Nam, do tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng cao cùng với sự tăng lên nhanh
chóng của nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng trong khi nguồn vốn không đủ để đáp ứng được
nhu cầu này trong những năm gần đây vì vậy đang đặt ra cho đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng giao thơng nói chung và cơ sở hạ tầng giao thơng đường bộ nói riêng rất nhiều thách
thức và khó khăn phía trước. Một lý do khác nữa là giao thơng vận tải ở Việt Nam cịn chưa
đáp ứng nhu cầu vận tải trong nước và làm giảm năng lực cạnh tranh quốc gia (Diễn đàn
Kinh tế Thế giới, 2009). “Chính phủ đã duy trì mức đầu tư khoảng 2 - 2.5% GDP/năm cho
lĩnh vực này nhưng vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể về bức tranh giao thông Việt Nam.
Hơn nữa, khoảng cách giữa cung và cầu về vốn đầu tư cho lĩnh vực này ngày càng lớn.
Theo Ngân hàng thế giới từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần tăng mức đầu tư lên 4 – 4,5%
GDP/năm nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải và tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn cần thiết cho
hạ tầng giao thơng vượt q khả năng tài trợ của chính phủ (bao gồm vốn ngân sách, ODA,
trái phiếu chính phủ) và thị trường vốn trong nước chưa phát triển nên sẽ thiếu hụt nghiêm
trọng nguồn vốn đầu tư cho giao thông trong tương lai. Theo quan điểm của Davids và


2

cộng sự (2005), chúng ta đang sống trong thời đại của nguyên tắc Pele Batho, nghĩa là cầu
đến trước. Vì vậy, một hình thức khơng đáp ứng được nhu cầu thị trường sẽ khơng thích

hợp tồn tại, cần thiết phải thay thế bằng các hình thức phù hợp hơn để đảm bảo việc cung
cấp hàng hóa đáp ứng nhu cầu. Ngoài ra, thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát
triển nói chung và Việt Nam nói riêng là tìm được hình thức tài trợ bền vững khơng lệ thuộc
vốn ngân sách và ODA. PPP đáp ứng được yêu cầu này do huy động được nguồn tài trợ từ
khu vực tư nhân (trong và ngoài nước)”. Tuy nhiên, cũng cần hiểu là khơng có hình thức
nào là hồn hảo và duy nhất, đồng thời, PPP cũng không phải là một phương thuốc “thần
kỳ” để cải thiện nhanh chóng tình trạng tụt hậu của hạ tầng giao thông Việt Nam, PPP chỉ
phát huy các lợi thế khi được sử dụng trong môi trường phù hợp.
Ở Việt Nam với sự ra đời của Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về đầu
tư theo hình thức hợp tác cơng tư, cũng như sự ra đời của luật PPP và chính thức có
hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2021 thì PPP chính thức được thể chế hóa. Đây là cơ
sở quan trọng cho việc triển khai thực hiện PPP ở Việt Nam trong bối cảnh áp lực về
vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ngày một lớn nhưng nhiệm vụ kiềm chế thâm hụt
ngân sách ngày một tăng. Đặc biệt trong một số năm gần đây, việc triển khai PPP nhất
là các hình thức BOT đang gặp phải nhiều vấn đề, từ cả quản lý và thực thi. Điều này
đặt ra yêu cầu cần phải tìm hiểu và làm rõ những vấn đề liên quan đến PPP để có thể
đưa ra cơ sở giải quyết tốt những tồn tại, hạn chế.
Các dự án hợp tác công tư (PPP) đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu đặc
biệt trong ngành xây dựng và giao thông đường bộ. Nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng
cải thiện hoạt động của các dự án PPP bằng cách xác định các khía cạnh chính của các
dự án này (Erridge và Greer, 2002; Grimsey và Lewis, 2002; Li và cộng sự, 2005b).
Mặc dù cách tiếp cận PPP được thực hiện rộng rãi vào cuối những năm 1990, đầu tư
của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng cơng cộng có thể được bắt nguồn từ thế kỷ 18 ở
các nước châu Âu.
Từ năm 1997, cách tiếp cận PPP đã được sử dụng rất nhiều ở Anh (Winch, 2000).
Cụ thể, cho đến nay, các công ty tư nhân đã tham gia vào việc phát triển cơ sở, bao gồm
thiết kế, tài trợ, xây dựng, sở hữu hoặc vận hành một dịch vụ của khu vực công như
đường bộ (Akintoye et al., 2003). Mặt khác, tại Việt Nam, các cơng ty nước ngồi hoặc
các tổ chức tài chính quốc tế đã tham gia vào các dự án PPP nhiều hơn các tổ chức trong
nước (Luo et al, 2001).

Trên thực tế, có rất nhiều hình thức của PPP, bao gồm tư nhân hóa hồn tồn
và ký kết hợp đồng dịch vụ (Efficiency Unit, 2005a). Các nghiên cứu trước đây
thường nghiên cứu các lợi ích của PPP từ các nghiên cứu điển hình (James et al.,


3

2005), các nhà nghiên cứu đã đề xuất những lợi thế của các khía cạnh khác nhau của
PPP, bao gồm:
• Tăng cường hợp tác giữa khu vực công và khu vực tư nhân (Erridge và
Greer, 2002; Ysa, 2007; Zhang và Kunarawamy, 2001a; Zhang và cộng sự, 2002;
Zhang, 2004a; Zhang, 2004b),
• Quản lý rủi ro tốt hơn (Grimsey và Lewis, 2002; Li et al., 2005a; Shen et al., 2006),
• Chính sách của chính phủ rõ ràng hơn ( Ball và Maginn, 2005; Hart, 2003),
• Tiết lộ các yếu tố thành cơng quan trọng (Li và cộng sự, 2005b),
• Phân tích tài chính phù hợp hơn (Akintoye và cộng sự, 2003; Norwood và
Mansfield, 1999; Huang và Chou, 2006; Saunders, 1998).
Tuy nhiên còn khá ít các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu
vực tư nhân theo hình thức PPP vào lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ. Chính vì
vậy, tác giả đề xuất đề tài luận án “Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực
tư nhân theo hình thức đối tác cơng – tư (PPP) trong lĩnh vực hạ tầng giao thông
đường bộ tại Việt Nam” để làm nội dung nghiên cứu cho luận án của mình.

2. Mục tiêu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là: Phân tích ảnh hưởng của chín
yếu tố tác động đến đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao
thông đường bộ tại Việt Nam bao gồm: “(1) Lợi nhuận đầu tư, (2) Khung pháp lý, (3)
Chia sẻ rủi ro, (4) Kinh tế vĩ mô, (5) Lựa chọn đối tác”, (6) Hỗ trợ của chính phủ, (7)
Kênh tài trợ vốn, (8) Năng lực tư nhân và (9) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Các mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực hạ
tầng giao thơng đường bộ theo PPP.
- Đánh giá tình hình đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh
vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam;
- Đo lường mức độ ảnh hướng của các yếu tố đến đầu tư của khu vực tư nhân
theo hình thức PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thơng tại Việt Nam;
- Khuyến nghị các giải pháp thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân theo hình
thức PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam;


4

2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể nêu trên, luận án tập trung trả lời các
câu hỏi nghiên cứu chính như sau:
- Những nhân tố nào là nhân tố phổ biến nhất ảnh hưởng đến đầu tư của khu vực
tư nhân vào giao thơng đường bộ nói chung?
- Những yếu tố nào ảnh hướng đến đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức
PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thơng đường bộ tại Việt Nam?
- Thực trạng mức độ đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh
vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam?
- Làm thế nào để tăng cường vốn đầu tư của khu vực tư nhân vào phát triển hạ
tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam theo hình thức PPP?
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
tới đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức đối tác công- tư (PPP) trong lĩnh vực hạ
tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: các dữ liệu thứ cấp được thu thập chủ yếu trong
giai đoạn 2011 – 2020. Các dữ liệu sơ cấp phục vụ cho việc chạy mơ hình của luận án

được thu thập từ phỏng vấn sâu các chuyên gia và điều tra khảo sát các nhà đầu tư được
thực hiện trong 4 tháng từ đầu tháng 4 đến hết tháng 7 năm 2019.
2.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án này là những nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư
của khu vực tư nhân theo hình thức đối tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực hạ tầng
giao thông đường bộ tại Việt Nam.

3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu định tính
Nghiên cứu định tính được thực hiện “trên cơ sở kế thừa và vận dụng có chọn
lọc các kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm trên thế giới nhằm xác định các
yếu tố và sự khác biệt về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này đến đầu tư của khu
vực tư nhân theo hình thức PPP ở các quốc gia phát triển và đang phát triển”.
Kết quả từ bước nghiên cứu trên “được kết hợp với thông tin ghi nhận từ các
cuộc thảo luận trực tiếp của tác giả với một số cơ quan quản lý nhà nước, ngân hàng,
các tập đoàn tư nhân ngành xây dựng và giao thông, nhằm đạt được một đánh giá đa


5

chiều về PPP để có cơ sở điều chỉnh các thang đo về đầu tư của khu vực tư nhân vào
các dự án PPP đường bộ tại Việt Nam”.
3.2. Nghiên cứu định lượng
Nghiên cứu định lượng “sử dụng mơ hình hồi quy đa biến đo lường mức độ đầu
tư của nhà đầu tư tư nhân đối với các dự án PPP đường bộ bằng cơng cụ phân tích sử
dụng là phần mềm thống kê SPSS.
Nghiên cứu thử nghiệm được thực hiện thông qua thảo luận trực tiếp với một số
cơ quan nhà nước đại diện cho khu vực công, các công ty tư nhân hoạt động trong
ngành xây dựng, giao thông và ngân hàng. Kết quả từ cuộc thảo luận này cung cấp cơ
sở điều chỉnh thang đo sơ bộ. Sau đó sử dụng thang đo sơ bộ phỏng vấn 40 công ty tư

nhân trong ngành xây dựng hạ tầng giao thơng. Mục đích của nghiên cứu này nhằm
đánh giá sơ bộ thang đo trước khi tiến hành nghiên cứu chính thức. Nghiên cứu chính
thức được thực hiện thơng qua phỏng vấn trực tiếp 120 công ty tư nhân hoạt động trong
ngành xây dựng hạ tầng giao thông.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp chọn mẫu theo định mức với 3 thuộc tính
kiểm sốt là hình thức sở hữu, ngành nghề kinh doanh và qui mô doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp tham gia nghiên cứu là các công ty tư nhân trong nước, liên doanh và
cơng ty 100% vốn nước ngồi, có qui mơ từ vừa trở lên hoạt động trong lĩnh vực hạ
tầng giao thông. Lý do chọn qui mô cơng ty từ vừa trở lên vì đặc điểm của dự án hạ
tầng giao thông đường bộ sử dụng vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài. Ngoài ra, đối tượng
trả lời phỏng vấn là những thành viên trong ban giám đốc cơng ty”. Mục đích của u
cầu này nhằm đảm bảo độ tin cậy của bảng trả lời phỏng vấn.
Cơ sở lý thuyết

Xác định các yếu tố
ảnh hưởng

Xây dựng bảng câu hỏi
nghiên cứu

Phương pháp chuyên
gia, chuyên khảo

Khám phá quan điểm
của các chuyên gia

Điều chỉnh bảng câu
hỏi nghiên cứu

Nghiên cứu thử nghiệm

(pilot testing)

Tính phù hợp của bảng
câu hỏi nghiên cứu

Bảng câu hỏi nghiên
cứu chính

Nghiên cứu
chính thức

Xác định mức độ tác
động của các yếu tố

Mức độ tác động của
từng yếu tố


6

Có chín (09) nhóm nhân tố được sử dụng trong nghiên cứu này để phân tích ảnh
hưởng đến đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh vực đường bộ tại
Việt Nam bao gồm: “(1) Lợi nhuận đầu tư, (2) Khung pháp lý, (3) Chia sẻ rủi ro, (4)
Kinh tế vĩ mô, (5) Lựa chọn đối tác, (6) Hỗ trợ của chính phủ, (7) Kênh tài trợ vốn, (8)
Năng lực tư nhân và (9) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”.

4. Dự kiến các kết quả đạt được
Luận án khi thực hiện được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể đặt ra sẽ có những
đóng góp cả về mặt lý luận và thực tiễn, cụ thể là:
Về mặt lý luận:

- Luận án xây dựng được khung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư
của khu vực tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng đường bộ theo hình thức PPP
- Kiểm định nhân tố mới “(6) Hỗ trợ của chính phủ, (7) Kênh tài trợ vốn, (8)
Năng lực tư nhân và (9) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” tới đầu tư của khu vực
tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng đường bộ theo hình thức PPP.
- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố mới “(6) Hỗ trợ của chính phủ,
(7) Kênh tài trợ vốn, (8) Năng lực tư nhân và (9) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
” tới đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực hạ tầng đường bộ theo hình thức PPP.
Về mặt thực tiễn:
Dựa trên các kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án sẽ:
- Xác định và phân tích các yếu tố nào ảnh hướng đến đầu tư của khu vực tư
nhân theo hình thức PPP trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam;
- Khuyến nghị biện pháp đẩy mạnh đầu tư của khu vực tư nhân vào phát triển hạ
tầng giao thơng đường bộ theo hình thức PPP tại Việt Nam.

5. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung của luận án được bố cục thành 05 chương:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước
Chương 2: Khung lý thuyết về các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư của khu
vực tư nhân theo hình thức đối tác cơng tư (PPP) trong lĩnh vực hạ tầng giao thông
đường bộ


7

Chương 3: Thực trạng đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức đối tác cơng
tư trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam
Chương 4: Nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức
đối tác cơng tư trong lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam

Chương 5: Hàm ý chính sách và khuyến nghị


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC

1.1. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu
Từ những nghiên cứu đã được cơng bố trong và ngồi nước, tác giả tổng hợp các
cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài theo sáu nhóm nội dụng yếu tố ảnh hưởng
mang tính cốt lõi đến việc đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng giao
thông đường bộ thơng qua hình thức PPP.

1.1.1. Nhóm thứ nhất có liên quan đến Chính phủ
Nhóm này nhận được sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên
thế giới. Các yếu tố thuộc nhóm này bao gồm: Cam kết của Chính phủ; Hoạch định phát
triển dự án PPP; Xây dựng các chính sách thực hiện dự án PPP; Đơn vị đầu mối PPP có
năng lực; Giám sát và đánh giá dự án; Xác định dự án phù hợp thực hiện theo hình thức
PPP; Khả năng hợp tác tài chính của Nhà nước; Bảo lãnh của Nhà nước; Kinh nghiệm
của Nhà nước về PPP; Truyền thông về hình thức đối tác cơng tư. Những u tố này
được nghiên cứu trong nhiều đề tài của các tác giả như: Qiao et al (2001); Li, B., (2003);
Gupta et al (2013); Clatworthy and Scott (2016); Yun et al (2015); Jacobson et al (2008);
Abdel-Aziz A. M. (2007); Stonehouse et al (1996); Kanter (1999); Li et al (2005c);
Ismail & Ajija (2011); Cheung et al (2012a); Lê Thanh Hương (2005); Bùi Thị Hoàng
Lan (2010); Đinh Kiện (2010); Nguyễn Hồng Thái và các tác giả (2018).
Qiao và các cộng sự (2001) khi nghiên cứu ” Khung các nhân tố thành công trọng
yếu đối với các dự án BOT ở Trung quốc” đã chỉ ra bốn yếu tố mà chính phủ Trung
quốc phải thực hiện đó là ” thu hút mạnh khu vực tư nhân tham gia, xây dựng những
nguyên tắc thương mại rõ ràng, đấu thầu cạnh tranh và sự đổi mới”. Ngoài ra, nghiên

cứu cũng tiến hành phân tích và xác định được rõ ” các nhân tố thành công trong từng
giai đoạn dự án BOT: giai đoạn đánh giá sơ bộ gồm 5 nhân tố (Xác định dự án phù hợp,
tình hình kinh tế chính trị ổn định, quy định pháp luật thuận lợi, khả năng của doanh
nghiệp tư nhân, kinh nghiệm của doanh nghiệp tư nhân với dự án BOT, tình trạng thiếu
vốn cho dự án cơ sở hạ tầng); giai đoạn đấu thầu gồm 5 nhân tố; giai đoạn cho phép thực
hiện gồm 4 nhân tố; giai đoạn xây dựng gồm 5 nhân tố; giai đoạn vận hành gồm 4 nhân
tố và giai đoạn chuyển giao gồm 3 nhân tố ( Chuyển giao cơng nghệ, hoạt động trong
tình trạng tốt, bảo đảm hoạt động đại tu) ”.


9

Trong luận án tiến sĩ về ” Quản lý rủi ro đối với các dự án đầu tư xây dựng theo
hình thức PPP” của Li (2003) đã tổng kết ” có chín lý do chính giải thích cho việc tăng
cường sử dụng hình thức PPP trong đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng đó là: áp
lực phát triển kinh tế đòi hỏi nhiều cơ sở hạ tầng hơn; áp lực chính trị; áp lực xã hội của
cơ sở hạ tầng nghèo nàn; các chính sách khuyến khích tư nhân; tình trạng thiếu vốn của
Chính phủ đối với các dự án cơ sở hạ tầng; sự không hiệu quả do độc quyền và thiếu sự
cạnh tranh; cần có chất lượng dịch vụ cao; tránh đầu tư cơng; thiếu kỹ năng kinh doanh
và tạo ra lợi nhuận của khu vực Nhà nước”. Ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ ra ” 05 đặc
quyền liên quan đến sự tham gia của khu vực tư nhân trong các dự án PPP ở bối cảnh
nước Anh gồm: trách nhiệm của Chính phủ; tài chính của Chính phủ; bảo lãnh của Chính
phủ; giảm và miễn thuế; ưu đãi thâm nhập vào thị trường mới. Các đặc quyền này sau
đó được tiếp tục nghiên cứu ở nhiều nước khác và mức độ quan trọng của các đặc quyền
là khác nhau ở mỗi nước”.
Trong một nghiên cứu khác ”Dự án đối tác công tư tại Nam Phi: Mơ hình hệ
thống cho việc lập kế hoạch và thực hiện” của Nyagwachi và Smallwood (2006) đã chỉ
ra rằng ”mặc dù đã xây dựng được khung pháp lý khá đầy đủ và mạnh mẽ nhưng các dự
án đầu tư theo hình thức PPP trong lĩnh vực hạ tầng GTĐB ở Nam Phi vẫn thất bại,
nguyên nhân xuất phát từ: Chính sách hỗ trợ khơng thỏa đáng của Chính Phủ; Năng lực

quản lý dự án của các cơ quan nhà nước cịn yếu kém; Nhận thức khơng đầy đủ về PPP
ở khu vực tư nhân cũng như nhà nước. Ngồi ra, dựa trên kết quả phân tích những dự
án tại Nam Phi, Nghiên cứu cũng đã phát triển một mơ hình hệ thống để có thể lập kế
hoạch, thực hiện, kiểm tra và giám sát các dự án đầu tư theo hình thức PPP”.
Cũng trong một nghiên cứu khác ” Chuyển giao thành công các quan hệ đối tác
công tư PPP để phát triển cơ sở hạ tầng” của Abdel-Aziz A. M. (2007) đã chỉ ra ” Hai
cách tiếp cận phổ biến đã được các chính phủ sử dụng để thực hiện quan hệ đối tác công
tư (PPP): cách tiếp cận dựa trên tài chính nhằm sử dụng nguồn tài chính tư nhân để đáp
ứng nhu cầu cơ sở hạ tầng và cách tiếp cận dựa trên dịch vụ nhằm tối ưu hóa thời gian
và chi phí hiệu quả trong việc cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, việc thực hiện PPP có thể
gặp trở ngại về pháp lý, chính trị và văn hóa. Tại Hoa Kỳ, chính phủ liên bang đã cho
phép một số hành động để giảm bớt trở ngại và thúc đẩy PPP để phát triển cơ sở hạ tầng.
Dựa trên phân tích chi tiết về PPP ở Vương quốc Anh và British Columbia, Canada,
Abdel-Aziz A. M. (2007) đã mô tả các nguyên tắc đặc trưng cho việc thực hiện PPP.
Các nguyên tắc liên quan đến: tính sẵn có của khung pháp lý về PPP và các đơn vị thực
hiện; nhận thức về các mục tiêu tài chính tư nhân, hệ quả phân bổ rủi ro; duy trì tính
minh bạch của quy trình PPP; tiêu chuẩn hóa các thủ tục.”


10

Trong nghiên cứu ” Cơ quan giám sát và hợp tác liên ngành trong quan hệ đối
tác công tư PPP tại Đan Mạch ” của hai tác giả Koch, C. and Buser, M. (2006) đã khẳng
định rằng việc thực hiện các quan hệ đối tác công tư ở Đan Mạch là một quá trình lâu
dài và miễn cưỡng. Tại Đan Mạch, hình thức PPP được phát triển giữa các thành phố từ
cuối những năm 90, nhưng đã bị tạm dừng vì một vụ bê bối vào năm 2002. Năm 2004,
chính phủ Đan Mạch đưa ra một kế hoạch hành động và PPP đang nổi lên trở lại. Koch,
C. and Buser, M. (2006) đã lập luận rằng mục tiêu trong các hợp đồng PPP rất đa dạng
giữa các cơ quan công quyền khác nhau (trung ương và địa phương). Chính vì vậy Chính
phủ Đan Mạch cần phải thành lập một cơ quan hòa giải các xung đột, làm cầu nối giữa

các nhà đầu tư nước ngồi với chính quyền.
Thực hiện các quan hệ đối tác công tư ở Đan Mạch là một quá trình lâu dài và
miễn cưỡng. Hình thức PPP được phát triển giữa các thành phố từ cuối những năm 90,
nhưng đã bị tạm dừng vì một vụ bê bối vào năm 2002. Năm 2004, chính phủ đưa ra một
kế hoạch hành động và PPP đang nổi lên trở lại. Dựa trên các quan điểm quản lý công
mới, các dịch vụ công được coi như một mạng lưới bao gồm các bên tham gia hỗn hợp
với một khuôn khổ quy định, một trung tâm quản lý. Ví dụ về các sáng kiến PPP của
Đan Mạch được đưa ra. Siêu quản lý hiện tại bao gồm một bộ so sánh, hướng dẫn,
nghiên cứu khả thi và một đơn vị năng lực trung tâm. Các vấn đề mới như quan hệ việc
làm đang nổi lên. Do đó, PPP là đấu trường chính trị nổi bật.
Trong luận án tiến sĩ ” Nghiên cứu một số vấn đề về quản lý dự án đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ở Việt Nam”, Lê Thanh Hương (2005) xem xét
”phân tích, đánh giá hiện trạng quản lý dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông
vận tải của Việt Nam tìm ra các nguyên nhân, tồn tại từ đó đề xuất các giải pháp về cải
tiến thể chế quản lý dự án đầu tư, ứng dụng một số kỹ thuật, công cụ hữu hiệu nâng cao
chất lượng quản lý. Ngoài ra nghiên cứu cũng xem dự án, quản lý dự án và sự thành
công của dự án đầu tư như là một đối tượng và chịu sự tác động của QLNN đối với
đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông”.
Trong đề tài cấp bộ ” Nghiên cứu các giải pháp thu hút vốn đầu tư xây dựng cơng
trình giao thơng theo hình thức BOT”, Đinh Kiện (2010) đã tiến hành ”phân tích thực
trạng thu hút vốn đầu tư xây dựng cơng trình giao thơng theo hình thức BOT tại Việt
Nam và chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến thất bại của dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng giao thơng theo hình thức BOT bao gồm: năng lực quản lý dự án của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cịn yếu kém; hệ thống pháp lý; chính sách chưa thực sự hồn
thiện và hiệu quả; trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân tìm ra, Đinh Kiện đã đề


11

xuất một số giải pháp về quy hoạch và các chính sách, luật pháp, quy định nhằm tăng

cường khả năng thu hút vốn đầu tư xây dựng cơng trình giao thơng theo hình thức BOT
tại Việt Nam”.
Nghiên cứu của Bùi Thị Hồng Lan (2010) tập trung vào ứng dụng mơ hình PPP
tại Việt Nam, trong đó có những đánh giá sơ bộ về QLNN đối với dự án PPP và đưa
ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao năng lực quản lý dự án PPP trong phát triển hạ
tầng GTĐB. Tuy nhiên tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu các yếu tố liên quan tới triển khai
dự án, còn các yếu tố khác như cơ chế tạo sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, năng lực của các cơ quan nhà nước quản lý
PPP, khung chính sách và pháp lý, hoạt động giám sát và đánh giá... chưa được đề cập
thỏa đáng.
Đoàn Duy Khương (2012) trong nghiên cứu về ” Hợp tác công - tư trong phát
triển hạ tầng giao thông vận tải” đã trình bày ”thực trạng áp dụng PPP trong phát triển
hạ tầng giao thông vận tải tại Việt Nam. Từ đó nghiên cứu đề xuất một số quan điểm để
tăng cường hợp tác PPP trong việc phát triển hạ tầng giao thông ở Việt Nam bao gồm:
Xác định mục tiêu, chiến lược và năng lực ở tất cả các cấp; Quyết định về việc lựa chọn
dự án hợp tác PPP; Tăng cường môi trường thể chế; Tiến hành hợp tác cơng tư; Khuyến
khích hoạt động kinh doanh có trách nhiệm”.
Trong cuốn sách ” Quản lý dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thơng theo
hình thức hợp tác công tư”, Nguyễn Hồng Thái và các tác giả (2018) đã trình bày ”những
kinh nghiệm của các nước về đầu tư và quản lý dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
giao thơng theo hình thức hợp tác cơng. Ngồi ra nhóm tác giả đã phân tích khá kỹ thực
trạng cơng tác đầu tư và quản lý đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng theo mơ hình hợp tác
cơng tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2015. Cuối cùng nhóm tác giả đề xuất các
nhóm giải pháp nhằm hồn thiện cơng tác quản lý các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng giao
thơng ở Việt Nam theo hình thức hợp tác cơng tư”.

1.1.2. Nhóm thứ hai liên quan đến mơi trường đầu tư PPP
Nhóm thứ hai cũng nhận được sự chú ý của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước
và trên thế giới. Các yếu tố thuộc nhóm thứ hai bao gồm: Khung pháp lý đầy đủ và thuận
lợi; Ổn định chính trị; Điều kiện kinh tế thuận lợi; Thị trường tài chính thuận lợi; Dân chủ

và ít tham nhũng; Minh bạch trong thực hiện dự án PPP; Dễ dàng tìm kiếm đối tác tin cậy.
Những đề tài tiêu biểu nghiên cứu những yếu tố này như: Yescombe (2007); Pascual
(2008); Cheung et al (2012a); Osei and Chan (2017); WB (2009); Clatworthy and


12

Scott (2016); Oslen (2009); Panayotou, T., (1998); ADBI (2015); Nguyễn Thị Ngọc
Huyền (2013); Đặng Thị Hà (2013).
Theo Yescombe (2007) trong cuốn sách ” Quan hệ đối tác công tư: Nguyên tắc
chính sách và tài chính” đã chỉ ra ” có chín yếu tố đóng vai trị quan trọng trong sự phát
triển của việc áp dụng hình thức PPP trong đầu tư cơ sở hạ tầng bao gồm khung chính
sách, khung pháp lý, thống nhất các quy định pháp luật, thủ tục đấu thầu, nguồn vốn và
các cơng cụ tài chính, trọng tài, giải quyết tranh chấp, giám sát và đánh giá. Việc áp
dụng các hình thức dự án PPP được thúc đẩy bởi động lực từ phía nhà nước do trách
nhiệm đảm bảo kết cấu hạ tầng cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong giới hạn nguồn
lực hạn hẹp, tuy nhiên hình thức này cũng địi hỏi xác định rõ vai trò, trách nhiệm và rủi
ro đặt ra đối với nhà nước”.
Pascual (2008) đã nghiên cứu ”dự án đường cao tốc nối Manila Metro và trung
tâm Bắc Luzon theo hình thức PPP tại Philippines từ đó chỉ ra điều kiện tiên quyết cho
thành công dự án là việc thể chế hóa PPP thơng qua khung chính sách, pháp lý và chương
trình truyền thơng tồn diện về PPP”.
Trần Minh Phương (2012) xác định ”các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kết cấu
hạ tầng giao thông: yếu tố về cơ chế; chính sách của nhà nước; đồng thời gợi ý chính
sách thu hút vốn đầu tư đối với phát triển hạ tầng GTĐB trên quan điểm cho rằng đầu
tư có thể do chính phủ hoặc tư nhân nhưng người sử dụng đường là đối tượng có trách
nhiệm hồn trả. Trong quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cần nâng cao trách nhiệm của
các chủ thể tham gia”.
Trong nghiên cứu ” Đầu tư theo hình thức PPP trong xây dựng kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ ở Việt Nam”, Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2013) đã ”phân tích thực

trạng đầu tư theo hình thức PPP trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường
bộ cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng dưới góc độ Quản lý Nhà nước như: xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; xây dựng và tổ chức thực thi các chính sách, quy
định; xây dựng và tổ chức thực hiện khung pháp lý; bộ máy quản lý và nhân sự; giám
sát và đánh giá đầu tư”.
Đặng Thị Hà (2013) trong luận án tiến sĩ ” Huy động vốn đầu tư ngoài ngân sách
nhà nước để thực hiện các dự án xây dựng đường cao tốc ở Việt Nam” đã chỉ ra ”những
rào cản tồn tại khi áp dụng hình thức PPP để huy động vốn ngoài ngân sách nhà nước cho
dự án đường cao tốc Việt Nam, kết quả khẳng định các yếu tố cản trở như: các chính sách
chưa cụ thể; thiếu văn bản hướng dẫn chi tiết; hệ thống văn bản pháp lý chưa bao phủ hết
các tình huống phát sinh trên thực tế; thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN”.


13

1.1.3. Nhóm thứ ba liên quan đến khu vực tư nhân trong đầu tư dự án PPP
Nhóm thứ ba liên quan đến khu vực tư nhân bao gồm các nhân tố như: Năng lực
chuyên môn của doanh nghiệp tư nhân; Năng lực tài chính; Năng lực quản lý; Năng lực
quan hệ; Kinh nghiệm thực hiện các dự án PPP trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng; những yếu
tố này được đề cập trong nhiều nghiên cứu của các học giả. Có thể kể đến những nghiên
cứu tiêu biểu như: Li et al (2007); Shi Shiying et al (2016); Ye et al (2018); Osei and
Chan (2015a); Li et al (2006); Li et al (2005c); Ismail & Ajija (2011); Liu (2015); Ismail
(2013); Trần Thanh Sơn (2013).
Li và các cộng sự (2007) trong nghiên cứu ” Các yếu tố thành công quan trọng
đối với các dự án PPP / PFI trong ngành xây dựng tại Vương quốc Anh” đã tiến hành
phân tích 18 yếu tố tiềm năng đóng vai trị quan trọng trong sự thành cơng của dự án
xây dựng theo hình thức PPP. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra ” 3 nhóm yếu tố quan trọng
nhất bao gồm: Một tập đồn tư nhân mạnh và tốt, phân bổ rủi ro thích hợp giữa tập đồn
tư nhân và chính phủ, thị trường tài chính sẵn sàng cho tập đồn tư nhân”. Kết quả cũng
chỉ ra 5 yếu tố quan trọng nhất trong số 18 yếu tố tiềm năng là đấu thầu có hiệu quả; khả

năng thực hiện dự án PPP; bảo lãnh của Chính phủ; điều kiện kinh tế thuận lợi và thị
trường tài chính sẵn có”.
Khi nghiên cứu về ” Kiểm tra mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố thành công
quan trọng của các dự án cơ sở hạ tầng đối tác công tư” nhằm cải thiện hiệu suất cũng
như duy trì một cách bền vững việc thực hiện các dự án PPP, Shi Shiying và các cộng
sự (2016) đã tiến hành phỏng vấn các chuyên gia sau đó ” xác định, tinh chỉnh và bổ
sung thêm 04 nhân tố là kinh nghiệm thực hiện dự án PPP của doanh nghiệp tư nhân;
khả năng hoàn thành hợp đồng dự án PPP của doanh nghiệp tư nhân, khả năng tài chính
của doanh nghiệp tư nhân, giá dịch vụ hợp lý, ngồi 25 nhân tố thành cơng quan trọng
khác ảnh hưởng đến dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP được tổng hợp từ các nghiên
cứu trước đó thành 29 nhân tố tương ứng với 5 nhóm bao gồm: đặc điểm và khả năng
của Chính phủ; đặc điểm của khu vực tư nhân; đặc điểm của khu vực công; mơi trường
hợp tác và đặc điểm của q trình thực hiện dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP”.
Ye và các cộng sự (2018) trong nghiên cứu ” Phân tích thực nghiệm về sự sẵn
sàng tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức PPP”
đã xác định ”09 nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sẵn lòng của doanh nghiệp tư nhân
tham gia vào các dự án PPP gồm: hỗ trợ của Nhà nước; môi trường thể chế; sự phức tạp
của dự án; hỗ trợ cộng đồng; can thiệp của Nhà nước; khả năng kết nối chính trị của khu
vực tư nhân; kinh nghiệm thực hiện dự án của doanh nghiệp tư nhân; tình hình tài chính


14

của doanh nghiệp tư nhân; lợi nhuận của doanh nghiệp tư nhân. Mối quan hệ giữa sự
sẵn sàng tham gia và các nhân tố của nó được khám phá và thử nghiệm bởi mơ hình hồi
quy logistic trong bối cảnh thực hiện PPP”.
Sehgal và các cộng sự (2019) đã ”Xác định các yếu tố thành công quan trọng đối
với các dự án hợp tác công tư”, Nghiên cứu đã tổng hợp từ các nghiên cứu trước đó và
chỉ ra 14 yếu tố thành công quan trọng ảnh hưởng đến đầu tư thành công các dự án PPP
như: ” Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định lâu dài; sự hiểu biết lẫn nhau giữa khu vực

công và khu vực tư nhân; q trình mua sắm nhanh chóng và đúng quy định; khía cạnh
chính trị xã hội; sự tham gia và can thiệp của Chính phủ; đặc điểm của các doanh nghiệp
tư nhân; đặc điểm của các bên liên quan trong dự án PPP; thẩm định và đánh giá rủi ro;
lực lượng lao động sẵn sàng và đáp ứng đủ trình độ; khả thi về tài chính; quản lý các
mối quan hệ; yếu tố thể chế; phân tích lợi ích chi phí; và cuối cùng là lập kế hoạch dự
án”. Từ 14 yếu tố của các nghiên cứu trước, Sehgal và các cộng sự (2019) đã đề xuất ra
nhóm 17 yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công đầu tư các dự án PPP với 3 nhóm yếu tố
mới bao gồm: ” Chính sách kinh tế an tồn và bảo mật; Đội ngũ nhân viên có trình độ
và tay nghề cao; thuộc tính các bên liên quan đến dự án PPP”.
Trần Thanh Sơn (2013) đã tiến hành nghiên cứu ” Hình thức hợp tác công tư phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”, nghiên cứu đã chỉ ra các động cơ thúc đẩy Chính phủ và tư nhân tham gia vào
đầu tư dự án, cũng như chỉ ra những nhân tố tác động đến thành cơng của hình thức PPP
tương ứng với các loại hình thức PPP của các quốc gia trên thế giới.

1.1.4. Nhóm thứ tư liên quan đến sự sẵn sàng của thị trường tài chính
Nhóm thứ tư liên quan đến sự sẵn sàng của thị trường tài chính ảnh hưởng đến
việc đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ bao
gồm các yếu tố ảnh hưởng: Sự sẵn có các nguồn lực tài chính trung và dài hạn; Sự
tin tưởng vào khả năng trả nợ của khu vực tư nhân; Sự chủ động trong cho vay các
dự án PPP; Năng lực và kinh nghiệm của nguồn nhân lực tài chính. Những yếu tố
này được đề cập trong nhiều nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Có thể
kể đến những nghiên cứu tiêu biểu như: Finlayson et al (2008); Qiao et al (2001); Li
et al (2005c); Chan et al (2010a); Ismail & Ajija (2011); Huỳnh Thị Thúy Giang
(2012); Phạm Diễm Hằng (2018).
Finlayson (2008) đã nghiên cứu ”mối quan hệ giữa FDI và PPP thông qua những
bài học kinh nghiệm thực tế về việc tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng ở khu vực
Châu á mà điển hình là hai quốc gia: Hàn Quốc và Ấn Độ. Tác giả đã đưa ra những



15

thách thức chính trong việc tạo nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương thức
PPP bao gồm: Tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định; Xây dựng khung pháp lý cho
việc nhượng quyền khai thác công trình hạ tầng; Xây dựng quy trình giải quyết tranh
chấp; Đưa ra khung chính sách ổn định cho dự án; Đảm bảo biện pháp khắc phục về mặt
pháp lý cho các tổ chức cho vay trong trường hợp rủi ro; Thiết kế dự án hiệu quả và có
khả năng gọi vốn; Xây dựng cơ chế giảm nhẹ rủi ro”.
Huỳnh Thị Thúy Giang (2012), trong luận án tiến sĩ ”Hình thức hợp tác công –
tư để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ” đã khẳng định ”sự tương tác chặt
chẽ giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trong suốt quá trình hợp tác là tuyệt đối
cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn đầu mới áp dụng PPP. Sự tương tác này phải hướng
đến dung hòa sự khác biệt giữa hai khu vực và quan trọng nhất là đạt được các mục tiêu
khẩn cấp – vốn đầu tư và chất lượng hạ tầng. Trong mơ hình đề xuất, Huỳnh Thị Thúy
Giang (2012) đã bổ sung thang đo tìm kiếm đối tác vào mơ hình nghiên cứu. Kết quả
phân tích hồi qui đa biến cho thấy có năm yếu tố có ảnh hưởng đến sự sẵn lịng tham gia
đầu tư các dự án giao thông”.
Phạm Diễm Hằng (2018) trong luận án tiến sĩ ” Nghiên cứu thu hút khu vực tư
nhân tham gia đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thơng đường bộ theo hình thức đối
tác công tư ở Việt Nam” đã đưa ra mơ hình nghiên cứu đề xuất với biến phụ thuộc là ý
định đầu tư và các biến độc lập gồm: (i) Thái độ của khu vực tư nhân ; (ii) Hỗ trợ của
khu vực Nhà nước; (iii) Hỗ trợ của bên cho vay; (iv) Hỗ trợ của người sử dụng dịch vụ;
(v) Năng lực và kinh nghiệm của khu vực tư nhân; (vi) Môi trường đầu tư; (vii) Đặc
điểm của dự án. Dựa trên kết quả mơ hình nghiên cứu, tác giả cũng đã đề xuất được
những kiến nghị đối với Nhà nước và các bên liên quan trong dự án PPP.

1.1.5. Nhóm thứ năm liên quan đến đối tượng hưởng thụ dự án PPP
Nhóm nhân tố liên quan đến đối tượng hưởng thụ dự án cũng nhận được sự chú
ý mặc dù khơng có nhiều nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới đề cập. Các yếu tố
thuộc nhóm thứ năm bao gồm: Sự đồng thuận đối với hình thức PPP; Sự sẵn lịng để trả

cho dịch vụ sử dụng; Những nghiên cứu tiêu biểu đề cặp đến nhóm yêu tố này như:
Cuttaree et al (2008); Chileshe et al (2020); Boyer (2016); Jamali (2007) Ye (2018);
Mia et al (2007); Osei and Chan (2017); Zhang (2005b); Jefferies et al (2002); Vives et
al (2010).
Trong dự án nghiên cứu ”Thành công và thất bại của các dự án PPP” được tài trợ
bởi Tổ chức WB, Cuttaree (2008) đã nêu ”những câu chuyện thành công về đầu tư của
khu vực tư nhân theo hình thức PPP tại Chile và những câu chuyện thất bại về đầu tư


16

của khu vực tư nhân theo hình thức PPP tại Mexico từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm về các yếu tố thành công cũng như thất bại về đầu tư của khu vực tư nhân theo
hình thức PPP trong điều kiện sau khủng hoảng như: quy hoạch dự án PPP tốt, nghiên
cứu khả thi dự án tốt, dự báo doanh thu và chi phí chính xác, khn khổ luật pháp phù
hợp, thể chế nhà nước mạnh, quản lý kinh tế vĩ mơ tốt, người sử dụng có khả năng thanh
toán, đấu thầu cạnh tranh và minh bạch”.
Trong nghiên cứu ” Các yếu tố thành công quan trọng đối với các dự án nhà ở và
cơ sở hạ tầng theo hình thức Đối tác Cơng-Tư (PPP) ở Kenya”, Chileshe và các cộng sự
(2020) đã điều tra nhận thức của các bên liên quan cả khu vực công cộng và tư nhân ở
Kenya liên quan đến các nhân tố thành công đối với việc thực hiện đầu tư các dự án cơ
sở hạ tầng và nhà ở theo hình thức PPP. Nghiên cứu cho thấy “Sự chấp nhận và ủng hộ
của cộng đồng; tính khả thi của dự án; luật pháp; quy định và hướng dẫn được áp dụng;
thị trường tài chính sẵn có; có một cơ quan cơng được tổ chức tốt và cam kết; là những
yếu tố ảnh hưởng được xếp hạng cao. Ngược lại, Phân bổ và quản lý nguồn lực hiệu quả
và đủ; minh bạch và cơng bằng trong mua sắm quy trình; đào tạo nhân viên phù hợp và
hiệu quả; là những yếu tố ảnh hưởng được xếp hạng thấp nhất. Những phát hiện có thể
được sử dụng như một lộ trình để thực hiện thành công các dự án PPP, cung cấp thông
tin chi tiết về các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng và nhà ở theo
hình thức PPP.


1.1.6. Nhóm thứ sáu liên quan đến dự án PPP
Nhóm nhân tố liên quan chủ yếu đến đặc điểm của dự án PPP nhận được sự chú
ý của nhiều nhà nghiên cứu khơng chỉ trong nước mà cịn cả trên thế giới. Các yếu tố
thuộc nhóm này bao gồm: Phân bổ và chia sẻ rủi ro hợp lý; Tính khả thi về tài chính của
dự án PPP; Tính khả thi về kỹ thuật của dự án PPP. Những yếu tố này được đề cập trong
nhiều nghiên cứu của các học giả trong và ngồi nước. Có thể kể đến những nghiên cứu
tiêu biểu như: Sader et al (2000); Young et al (2009); Qiao et al (2001); Grimsey, Lewis
(2002); Hardcastle et al (2006); Clerck et al (2012); Grant (1996); Li et al (2005c);
Zhang (2005b); Cheung et al (2012a); Tiong (1996); Askar & Gab-Allah (2002);
Nguyễn Hồng Thái, Thân Thanh Sơn (2013); Nguyễn Hồng Thái, Thân Thanh Sơn
(2014); Đinh Trọng Thắng và Phạm Thiên Hoàng (2015).
Trong nghiên cứu ” Thu hút vốn FDI vào đầu tư cơ sở hạ tầng đường bộ, tại sao
lại khó như vậy” của Sader (2000) đã chỉ rõ ” để thu hút được vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi nói chung và vốn đầu tư từ khu vực tư nhân nói riêng tham gia vào PPP, Nhà nước
phải thỏa mãn được bốn yếu tố: Lợi nhuận đầu tư, chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước với các


17

nhà đầu tư, điều kiện kinh tế vĩ mô và phải xây dựng được một khung pháp lý thực sự
hiệu quả. Chia sẻ rủi ro trong đầu tư dự án theo hình thức PPP được Sader (2000) nhấn
mạnh thơng qua khía cạnh như vai trị của chính phủ trong những bản thỏa thuận hỗ trợ
nhà đầu tư ”. Ngoài ra nghiên cứu cũng chỉ ra những trở ngại mà nhà đầu tư nước ngoài
gặp phải khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng đường bộ theo hình thức PPP như: “những quan
điểm trái ngược nhau trong Chính phủ; thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền; không đủ chuyên môn để thực hiện các dự án PPP; đàm phán trực tiếp chứ
không thông qua đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư; quy tắc đấu thầu khơng rõ ràng; sự
can thiệp chính trị; các điều kiện để thâm nhập thị trường không rõ ràng; thiếu khung
pháp lý đầy đủ; khó khăn trong q trình hoạt động; cam kết chính trị của các Chính phủ

kế nhiệm” .
Trong nghiên cứu ” Hướng tới sự hiểu biết toàn diện về PPP đối với phát triển cơ
sở hạ tầng” được thực hiện bởi Young và cộng sự (2009) đã chỉ ra ” PPP có thể mang
lại một số lợi ích cho khu vực công như: giảm bớt gánh nặng tài chính cho khu vực cơng
do chi phí phát triển cơ sở hạ tầng tăng cao; cho phép chuyển rủi ro từ khu vực công
sang khu vực tư nhân; và tăng giá trị đồng tiền chi cho các dịch vụ cơ sở hạ tầng bằng
cách cung cấp các dịch vụ hiệu quả hơn, chi phí thấp hơn và đáng tin cậy hơn”.
Nghiên cứu cũng đưa ra ” các nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả dự
án PPP trên các khía cạnh như: vai trị của Chính phủ; lựa chọn nhà thầu; rủi ro và tài
chính của hình thức PPP, tương ứng với từng khía cạnh, nghiên cứu cũng chỉ ra những
bài học kinh nghiệm bao gồm: Sử dụng hình thức PPP khơng phải là dễ; Năng lực và sự
tín nhiệm của Chính phủ đóng vai trị quan trọng trong phát triển KCHT theo hình thức
PPP; Nhà đầu tư có năng lực tài chính mạnh, có năng lực kỹ thuật và trình độ quản lý sẽ
đảm bảo cho sự thành cơng của hình thức PPP; Tất cả các rủi ro nên được xác định và
đảm bảo sự phân bổ rủi ro cơng bằng; Một kế hoạch tài chính đầy đủ là cần thiết; Ưu
đãi tài chính hợp lý và doanh thu ổn định là điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư của
khu vực tư nhân”.
Trong một nghiên cứu khác ”Mở đường cho quan hệ đối tác công tư trong phát
triển cơ sở hạ tầng” của Zhang et al (2005b) đã chỉ rõ ” Một loạt các rào cản đối với
quan hệ đối tác công tư (PPP) trong phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm: (1) rủi ro xã hội,
chính trị và pháp lý; (2) điều kiện kinh tế và thương mại không thuận lợi; (3) khung mua
sắm công kém hiệu quả; (4) thiếu các kỹ thuật tài chính thuần thục; (5) các vấn đề liên
quan đến khu vực công; và (6) các vấn đề liên quan đến khu vực tư nhân. Để khám phá
các biện pháp loại bỏ những rào cản này, một phương pháp nghiên cứu có hệ thống đã


18

được thực hiện để rút kinh nghiệm, rút ra bài học và đánh giá các thông lệ tốt nhất trong
quan hệ đối tác công - tư quốc tế ”.

Trong nghiên cứu ” PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ” hai
tác giả Nguyễn Hồng Thái, Thân Thanh Sơn (2013) đã chỉ ra ” 07 rào cản cho phát triển
cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam theo hình thức PPP: khung pháp lý cho
hình thức PPP chưa hồn thiện; chồng chéo khi lựa chọn dự án; quy trình đấu thầu cịn
chưa đảm bảo minh bạch và chưa tạo được sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân; tiến độ giải phóng mặt bằng và huy động
vốn cịn chậm; các nhà đầu tư chưa dự tính được hết chi phí và tăng giá cũng như phân
bổ rủi ro; chưa tạo được sự đồng thuận của nhân dân trong việc thu phí sau khi hồn
thành dự án; năng lực của các cơ quan quản lý PPP còn hạn chế”.
Thân Thanh Sơn và Nguyễn Hồng Thái (2014) đã tiến hành nghiên cứu ” Nghiên
cứu phân bố rủi ro trong hình thức hợp tác cơng tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông
đường bộ Việt Nam”, nghiên cứu đã phân tích ”thực trạng xác định và phân bổ rủi ro
trong hình thức hợp tác cơng tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thơng đường bộ Việt Nam.
Ngồi ra, nghiên cứu cũng đã xác định và phân bổ rủi ro trong các dự án giao thông
đường bộ theo hình thức hợp tác cơng tư ở Việt Nam thơng qua phương pháp định lượng
mơ hình. Từ đó, nghiên cứu đề xuất kiểm soát một số yếu tố rủi ro cơ bản nhằm phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ ở Việt Nam”.
Đinh Trọng Thắng và Phạm Thiên Hồng (2015) trong nghiên cứu ” Cơ chế tài
chính thúc đẩy hợp tác công tư trong đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2016
– 2020 ”đã chỉ ra ”03 nhóm nhân tố thu hút khu vực tư nhân: hỗ trợ chi phí chuẩn bị đầu
tư thơng qua quỹ phát triển dự án (PDF); hỗ trợ trực tiếp cho dự án PPP dựa trên phần
tham gia của Nhà nước trong giai đoạn xây dựng; hỗ trợ gián tiếp cho dự án PPP. Nghiên
cứu cũng khẳng định cơ chế tài chính ln là những nội dung khó khăn nhất để thu hút
khu vực tư nhân vì nó liên quan đến phần tham gia góp vốn của Nhà nước, bảo lãnh
doanh thu, bảo lãnh tỷ giá hối đoái”.

1.2. Khoảng trống nghiên cứu rút ra từ tổng quan các cơng trình liên quan
Từ những nghiên cứu đã được công bố trong và ngồi nước đề cập phía trên, có
thể thấy các cơng trình này đã cung cấp một cách tổng quan toàn diện cả về lý thuyết
lẫn thực tiễn việc thực hiện các dự án đối tác cơng tư nói chung cũng như các yếu tố ảnh

hưởng mang tính cốt lõi đến việc đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng
giao thông đường bộ thông qua hình thức PPP nói riêng.


19

Hầu hết các cơng trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước đều khẳng định tầm
quan trọng của việc đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng giao thơng
đường bộ thơng qua hình thức đối tác cơng tư PPP bởi rất nhiều lợi ích mang lại cho các
bên liên quan như Chính phủ, doanh nghiệp, người dân và xã hội.
Các cơng trình nghiên cứu cũng đã chỉ ra rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến
việc đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ thơng qua
hình thức PPP trong điều kiện và bối cảnh khác nhau của các nước trên thế giới. Có thể
nhóm lại thành các nhóm như sau: Nhóm thứ nhất có liên quan đến Chính phủ, nhóm
thứ hai liên quan đến mơi trường đầu tư PPP, nhóm thứ ba liên quan đến khu vực tư
nhân trong đầu tư dự án PPP, nhóm thứ tư liên quan đến sự sẵn sàng của thị trường tài
chính, nhóm thứ năm liên quan đến đối tượng hưởng thụ dự án PPP, nhóm thứ sáu liên
quan đến dự án PPP.
Từ tổng quan nghiên cứu ở trên, ta thấy mỗi cơng trình đều có những đóng góp
tích cực cả về lý luận và thực tiễn trên các giác độ tiếp cận khác nhau, với đối tượng,
phạm vi và thời điểm nghiên cứu khác nhau. Đây là những thơng tin hữu ích, làm cơ sở
quan trọng cho việc thực hiện hướng nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên các cơng trình
nghiên cứu này vẫn cịn có một số khoảng trống nghiên cứu vì hầu hết chưa xem xét
trong một chỉnh thể thống nhất.
- Các cơng trình nghiên cứu đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng
giao thơng đường bộ thơng qua hình thức PPP chủ yếu trong điều kiện và hoàn cảnh các
nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh và điều kiện của Việt Nam hiện nay với
sự thiếu hụt ngày càng trầm trọng nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thơng nói
chung và giao thơng đường bộ nói riêng thì vai trị đầu tư của khu vực tư nhân vào dự
án cơ sở hạ tầng giao thơng đường bộ thơng qua hình thức PPP là hết sức cấp thiết.

- Các cơng trình nghiên cứu đầu tư của khu vực tư nhân vào dự án cơ sở hạ tầng
giao thơng đường bộ thơng qua hình thức PPP chủ yếu tập trung vào các nhân tố ảnh
hưởng đứng ở góc độ Chính phủ muốn thu hút khu vực tư nhân tham gia vào đầu tư
trong khi các nhân tố ảnh hưởng từ góc độ của bên tài trợ vốn, cho vay hay xã hội thì lại
khơng được chú ý nhiều.
- Sau khi tiến hành tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngồi nước trên
cơ sở tìm ra những khoảng trống của những nghiên cứu này. Tác giả tập trung vào nghiên
cứu các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP vào lĩnh
vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam.


20

- Trong nghiên cứu này, 4 thang đo mới được xem xét bao gồm (6) Hỗ trợ của
chính phủ; (7) Kênh tài trợ vốn; (8) Năng lực tư nhân; và (9) Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp.
Đây là những nội dung cần được tiếp tục bổ sung, làm rõ và hoàn thiện ở cả
phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư theo hình thức PPP
trong xây dựng hạ tầng giao thơng đường bộ trong điều kiện của Việt Nam.
Như vậy từ khoảng trống nghiên cứu rút ra được từ việc tổng quan các nghiên
cứu trong và ngoài nước cũng như để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu và những câu
hỏi nghiên cứu mà tác giả đã đề xuất ra trong phần mở đầu của luận án này. Tác giả định
hướng khung nghiên cứu bao gồm các bước như sau:
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Các nhân tố ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực tư
nhân theo hình thức đối tác công - tư (PPP) trong
lĩnh vực hạ tầng giao thông đường bộ tại Việt Nam

Cơ sở lý thuyết
Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư của tư

nhân theo hình thức PPP

Nghiên cứu định tính
Các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư của tư nhân theo
hình thức PPP ở Việt Nam

Nghiên cứu định lượng
Phân tích tác động của các yếu tố đến đầu tư trong
lĩnh vực hạ tầng giao thơng đường bộ theo hình
thức PPP của khu vực tư nhân

Những phát hiện và khuyến nghị

Hình 1.1. Khung nghiên cứu


21

TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận án tập trung vào trình bày tổng quan nghiên cứu các cơng
trình liên quan đến đầu tư của khu vực tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao
thơng đường bộ trong nước cũng như nước ngồi theo sáu nhóm nhân tố ảnh hưởng.
Những nghiên cứu của các tác giả trên thế giới về vấn đề đầu tư của khu vực tư nhân
theo hình thức PPP cũng được trình bày và thảo luận từ năm 2000 đến năm 2020.
Chương này cũng đã trình bày nghiên cứu của các tác giả trong nước phản ánh sự tác
động của các nhân tố đến đầu tư của tư nhân theo hình thức PPP. Từ tổng quan nghiên
cứu luận án đã chỉ ra những khoảng trống nghiên cứu liên quan đến đầu tư của khu vực
tư nhân theo hình thức PPP trong lĩnh vực giao thơng đường bộ. Những khoảng trống
này là nội dung cần được tiếp tục bổ sung, làm rõ và hoàn thiện ở cả phương diện lý
luận và thực tiễn của luận án.



22

CHƯƠNG 2
KHUNG LÝ THUYẾT VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐẦU TƯ
CỦA KHU VỰC TƯ NHÂN THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ
(PPP) TRONG LĨNH VỰC HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
2.1. Cơ sở hạ tầng và đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ
Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, ”Cơ sở hạ tầng giao thông như là xương
sống của nền kinh tế hiện đại, cạnh tranh, hiệu quả và không thể thiếu được cho sự phát
triển kinh tế. Đặc biệt, tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông giúp cho dễ dàng
vận chuyển hàng hoá và dịch vụ, thúc đẩy giao dịch và thương mại, kết nối chuỗi cung
ứng và giảm chi phí hoạt động trong một loạt các ngành cơng nghiệp khác nhau.
Cơ sở hạ tầng giao thông bao gồm mạng lưới đường để kết nối các khu vực khác
nhau trên đất nước cũng như với các khu vực khác trên thế giới. Cơ sở hạ tầng giao
thông gồm: đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, cảng biển, sân bay. Cơ sở hạ tầng
giao thông hiệu quả đưa tới lợi ích kinh tế và xã hội cho cả nền kinh tế tiên tiến và các
nền kinh tế mới nổi bằng cách cải thiện khả năng tiếp cận và năng suất thị trường, đảm
bảo phát triển kinh tế khu vực cân bằng, tạo thêm việc làm và kết nối cộng đồng.
Cơ sở hạ tầng giao thơng đường bộ là hình thức lâu đời nhất của hệ thống giao thông
và giữ vai trò quyết định cho sự phát triển kinh tế và đời sống người dân của một quốc gia
bởi tính linh hoạt và phổ biến của nó trong hoạt động vận chuyển. Kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ là không thể thiếu được để phát triển kinh tế của một quốc gia”.
Maluleka định nghĩa ”cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là mạng lưới đường bộ
và đường cao tốc, bao gồm kết cấu (cầu, đường hầm, cống, tường chắn), biển báo, hệ
thống điện (đèn đường và đèn giao thông), hành lang (lề đường, vỉa hè, cảnh quan) cũng
như các cơng trình khác hỗ trợ chuyển động hàng hóa, dịch vụ, nhân lực,… cho nhiều
mục đích khác nhau”.
Luật đường bộ Việt Nam định nghĩa ”cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là tài

sản dài hạn, hữu ích với đời sống kinh tế và thường áp dụng các công nghệ hiện đại để
tạo ra nó. Bao gồm: cơng trình đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ và các cơng
trình phụ trợ khác trên đường bộ phục vụ giao thơng và hành lang an tồn đường bộ ”.
Theo đối tượng đầu tư: Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông tĩnh: là đầu tư
để cải tạo, nâng cấp, xây mới các điểm đầu cuối, các điểm trung chuyển hàng hóa và các
điểm dừng dọc tuyến đường bộ như bến xe, nhà chờ xe bus, bãi đỗ xe… Đầu tư phát


23

triển cơ sở hạ tầng giao thông động: là đầu tư để cải tạo, nâng cấp, xây mới mạng lưới
đường bộ và các cơng trình trên tuyến như đường, cầu, cầu vượt, nút giao thơng.
Theo mục đích đầu tư: Cải thiện điều kiện là chi phí để cải thiện điều kiện của cơ
sở hạ tầng giao thông đường bộ hiện tại nhằm giảm thiểu chi phí bảo trì liên tục. Nâng
cấp loại cơng trình là chi phí để nâng cấp loại cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ hiện
tại đến một mức độ phù hợp với yêu cầu của nó. Mở rộng mạng lưới là chi phí để tạo cơ
sở hạ tầng giao thông đường bộ mới mà trước đây chưa tồn tại. Bảo trì tài sản là chi phí
để bảo trì mạng lưới cuối cùng trong việc cải thiện, nâng cấp hoặc mở rộng nó.
Theo nguồn vốn đầu tư:
”Vốn Nhà nước bao gồm vốn ngân sách Nhà nước; cơng trái quốc gia, trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương; vốn hỗ trợ phát triển chính thức; vốn vay
ưu đãi của các nhà tài trợ; vốn từ quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước; vốn tín dụng do Chính phủ bảo lãnh; vốn vay được bảo đảm
bằng tài sản của Nhà nước; vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước; giá trị
quyền sử dụng đất”.
Đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước bao gồm: ”Đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà
nước. Đầu tư bằng vốn Nhà nước ngồi ngân sách: trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước”…
Đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài: ”Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là toàn bộ
phần tích lũy của cá nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ các nước

có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của các nước sở tại. Vốn tài trợ phát triển
chính thức ODA. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế. Nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI”.
Đầu tư bằng nguồn vốn khác: Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ thị
trường vốn.

2.2. Đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư
2.2.1. Khái niệm về hợp tác công tư
Trong hai thập kỷ qua, PPP đã trở thành một từ phổ biến cho các học giả và nhà
hoạch định chính sách khơng chỉ trong nước mà cịn trên thế giới. Hiện nay, đã có
nhiều nghiên cứu định nghĩa về PPP, tuy nhiên chưa có định nghĩa nào rõ ràng, thống
nhất, tích cực.
Khái niệm của PPP có nguồn gốc từ hai quan điểm “PPP như là một cơng cụ mới
của chính phủ” và “PPP là một trị chơi ngôn ngữ” (Teisman và Klijin, 2002). Tuy nhiên,


24

theo quan điểm “ngơn ngữ trị chơi”, PPP được hiểu như là một trò chơi được thiết kế
để “che đậy” các chiến lược và mục đích riêng khác của mình. Nghĩa là, PPP chỉ là một
tên gọi khác nhau cho tư nhân hóa và ký kết hợp đồng ra ngồi. Để tránh sử dụng thuật
ngữ “tư nhân hóa” và “ký kết hợp đồng ra ngoài”, những người đề xướng tư nhân hóa
đặt ra một thuật ngữ mới và dễ chấp thuận, thuật ngữ PPP. Từ bối cảnh đó, thuật ngữ
PPP có thể được định nghĩa như là một chuỗi các thành quả hợp tác trong các dự án về
tài chính, cơ sở hạ tầng và xã hội hoặc các chính sách chia sẻ rủi ro và tin cậy lẫn nhau
(Kim, 2009).
Alfredo E. Pascual (2008) cho rằng “PPP là sự cộng tác dựa trên một hợp đồng
để cung cấp tài sản hoặc dịch vụ giữa khu vực công cộng và khu vực tư nhân, trong đó
có sự phân định rõ ràng và hợp lý về vai trò cũng như sự chia sẻ cơng bằng trách nhiệm,
chi phí, rủi ro giữa khu vực công cộng và khu vực tư nhân, những rủi ro này được chuyển

cho bên nào có thể quản lý tốt nhất, đảm bảo chuyển giao rủi ro ở mức tối ưu, chứ không
phải là tối đa cho khu vực tư nhân. Ngồi ra, khu vực tư nhân sẽ đóng góp khơng chỉ có
vốn mà cịn cả cơng nghệ và năng lực quản lý, việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, mang
đến sự sẵn có, chất lượng và tính hiệu quả của dịch vụ”.
Theo OECD (2012), trên thế giới khơng có định nghĩa về PPP được cơng nhận
rộng rãi. Các tổ chức như Eurostat, IASB, IMF, IFRS và các tổ chức khác có những định
nghĩa khác nhau. Theo đó, một số định nghĩa khác nhau của các quốc gia về PPP như sau:
Hàn Quốc định nghĩa dự án đối tác công tư là “một dự án xây dựng và vận hành
cơ sở hạ tầng như đường, cảng biển, đường sắt, trường học và các cơ sở hoạt động môi
trường theo truyền thống được xây dựng và vận hành bằng vốn của Nhà nước nhưng
nay bằng vốn tư nhân nhằm tận dụng sự sáng tạo và hiệu quả của khu vực tư nhân”.
Nam Phi định nghĩa đối tác công tư là “một giao dịch thương mại giữa cơ quan
nhà nước và đối tác tư nhân. Trong giao dịch này đối tác tư nhân thay mặt cho cơ quan
này thực hiện chức năng thể chế trong một thời kỳ xác định, hoặc sử dụng tài sản quốc
gia cho mục đích thương mại riêng của mình trong một thời kỳ xác định. Đối tác tư nhân
nhận được lợi ích cho việc thực hiện các chức năng hoặc bằng cách sử dụng các tài sản
của nhà nước hoặc bằng cách nhận tiền đền bù từ một quỹ doanh thu, hoặc thu phí từ
những người sử dụng dịch vụ, hoặc sự kết hợp giữa tiền đền bù và phí”.
Anh Quốc định nghĩa đối tác công tư là “sự sắp xếp cùng làm việc giữa khu vực
cơng và tư. Theo nghĩa rộng nhất, chúng có thể bao gồm tất cả các loại hợp tác trong
khu vực công tư liên quan tới cùng làm việc và chia sẻ rủi ro khi thực hiện các chính
sách dịch vụ và cung cấp hạ tầng. Loại hình PPP phổ biến nhất ở Anh Quốc là Sáng kiến


×