Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Khóa luận tốt nghiệp thiết kế một số đồ dùng và sử dụng thiết bị dạy học trong môn tiếng việt lớp 2 3 ở trường tiểu học trên địa bàn thị xã phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.02 KB, 74 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà giáo dục học Đức Adolph Diesterweg (Đi-xtec-vec) đã khẳng
định: “Người giáo viên bình thường mang chân lý đến cho trị, người giáo
viên giỏi biết dạy học trị cách đi tìm chân lý”. Câu nói đó cịn ngun giá trị
trong bất cứ cấp học nào. Điều đó cũng có nghĩa là để tổ chức và thiết kế giờ
học hiệu quả bản thân trình độ chuyên môn là chưa đủ, mà quan trọng hơn là
cách thức người giáo viên truyền đạt, hướng dẫn cho học sinh tiếp thu tri
thức. Hay nói cách khác là phương pháp người giáo viên sử dụng trong dạy
học ra sao để có thể phát huy được hết tính tích cực, chủ động và sáng tạo của
học... giúp các em có thể nắm được những kiến thức cơ bản ngay tại lớp đồng
thời có thể nâng cao hứng thú, sự say mê tìm tịi nghiên cứu của học sinh.
Nghị quyết Trung Ương II khoá III của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ
rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện thói quen, nếp tư duy sáng tạo của người học, từng
bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy và
học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất
là sinh viên đại học...”. Tiểu học là bậc học có ý nghĩa nền móng quan trọng,
việc đổi mới giáo dục tiểu học đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông
và hệ thống giáo dục quốc dân. Xuất phát từ các lí do:
- Nâng cao chất lượng giáo dục thì việc đổi mới phương pháp dạy học
là biện pháp then chốt. Từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học đặt ra yêu
cầu phải đổi mới thiết bị, đồ dùng dạy học.
- Thiết bị và đồ dùng day học là những công cụ lao động của giáo viên
và học sinh, là nguồn phương tiện cung cấp kiến thức cho học sinh. Thiết kế
đồ dùng thiết bị dạy học đóng vai trị cung cấp nguồn thơng tin học tập, tạo
nhiều khả năng để giáo viên trình bày nội dung bài học một cách sâu sắc và
thuận lợi trong tất cả các môn học. Mặt khác, xuất phát từ đặc điểm nhận thức
học sinh tiểu học: Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan – hình tượng phát


triển chiếm ưu thế hơn. Giáo viên sử dụng các thiết bị và đồ dùng dạy học


2

trong quá trình giảng dạy là con đường kết hợp chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái
trừu tượng, xây dựng cho học sinh biết quan sát một cách có tổ chức có kế
hoạch, biết tư duy một cách độc lập linh hoạt, biết tưởng tượng một cách đúng
hướng và phong phú.
- Mục tiêu của giáo dục là phát triển tồn diện cho học sinh các kỹ
năng nghe - nói - đọc - viết, vì vậy thiết bị, đồ dùng học tập là phương tiện hỗ
trợ tích cực giúp giáo viên phát triển đầy đủ ở các em các kỹ năng đó.
Từ việc nhận thức, tìm hiểu về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, với
mong muốn nâng cao chất lượng giờ học, tiếp cận học sinh theo hướng tiếp
cận năng lực, tơi lựa chọn thực hiện khóa luận: “Thiết kế một số đồ dùng và
sử dụng thiết bị dạy học trong môn Tiếng Việt lớp 2- 3 ở trường Tiểu học
trên địa bàn thị xã Phú Thọ”
2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp người giáo viên hiểu được các đặc điểm,
cấu tạo, cách thức sử dụng và thiết bị, đồ dùng dạy học.
- Nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho người giáo viên có thể sử dụng các
thiết bị, đồ dùng dạy học để từ đó ứng dụng vào giảng dạy.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Thiết kế các thiết bị, đồ dùng ứng dụng vào các giờ học sẽ tạo ra động
cơ học tập tốt hơn, giúp học sinh tập trung chú ý cao và việc nắm kiến thức
mới trở nên dễ dàng sâu sắc hơn.
- Chính các đồ dùng, thiết bị dạy học được thiết kế giúp giáo viên cũng
như các em học sinh thực hiện các thí nghiệm và rèn luyện các kỹ năng, đặc
biệt là các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học.

- Thiết kế đồ dùng, thiết bị dạy học đã bổ sung cho nguồn thiết bị dạy
học cung cấp đã được sản xuất hàng loạt, phục vụ kịp thời nhu cầu dạy và học
hiện nay.


3

3. Mục tiêu của khóa luận
- Nghiên cứu thiết kế một số đồ dùng dạy học và sử dụng thiết bị dạy
học sao cho phù hợp với từng phân môn, từng bài học trong môn Tiếng Việt
lớp 2-3.
- Nắm được cách thức sử dụng chúng nhằm bổ sung thêm và làm
phong phú hệ thống đồ dùng, thiết bị dạy học hiện nay.
- Nhằm nâng cao hứng thú học tập của học sinh. Qua đó nâng cao chất
lượng dạy học mơn Tiếng Việt nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tìm ra các đặc điểm, cách phân loại, nguyên tắc sử dụng
và thực trạng của vấn đề thiết bị, đồ dùng dạy học hiện nay.
- Thiết kế các thiết bị đồ dùng và sử dụng hợp lý các thiết bị dạy học
cho môn Tiếng Việt lớp 2 – 3 ở trường Tiểu học.
- Chỉ ra được cách thức sử dụng hợp lý và hiệu quả các đồ dùng dạy
học đã được thiết kế ra và ứng dụng các thiết bị một cách sáng tạo trong giờ
dạy.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thiết bị và đồ dùng dạy học cho môn Tiếng Việt ở một số trường Tiểu học
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian và điều kiện có hạn nên khóa luận chỉ nghiên cứu thiết kế một
số đồ dùng và sử dụng thiết bị dạy học trong môn Tiếng Việt lớp 2 – 3 ở một
số hoạt động: Kể chuyện, luyện từ và câu, tập đọc, tập viết, chính tả ở một số

trường Tiểu học trên địa bàn thị xã Phú Thọ đó là trường Tiểu học Hùng
Vương – Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ, đông thời cũng kiểm chứng hiệu
quả của các đồ dùng thiết kế ra được ở 2 trường là: Trường Tiểu học Văn
Lung và Trường Tiểu học Thanh Minh – Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ


4

6. Các phương pháp được sử dụng
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa nguồn tài liệu có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho khóa luận.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp điều tra
Phương pháp điều tra nhằm khảo sát số lượng lớn các đối tượng nghiên
cứu nhằm thu thập các số liệu, hiện tượng để từ đó phát hiện các vấn đề giải
quyết, xác định tính phổ biến, nguyên nhân chuẩn bị cho các bước nghiên cứu
tiếp theo.
Thực hiện dự giờ, điều tra, phỏng vấn, trao đổi với các giáo viên giỏi, có
kinh nghiệm dạy học mơn Tiếng Việt ở trường Tiểu học về thiết kế đồ dùng,
thiết bị dạy học theo hướng tiếp cận năng lực học sinh.
Phương pháp điều tra được thực hiện ở chương 1 của khóa luận.
6.2.2. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Đó là phương pháp thu thập thông tin khoa học, nhận định, đánh giá một
sản phẩm khoa học bằng cách sử dụng trí tuệ của một đội ngũ chun gia có
trình độ cao về một lĩnh vực nhất định. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia sẽ
giúp cho người nghiên cứu có được những đánh giá cụ thể về cơng trình
nghiên cứu của mình.
Thực hiện phương pháp lấy ý kiến chuyên gia bằng cách xin ý kiến giảng
viên hướng dẫn, các giảng viên giảng dạy môn Văn ở trường đại học Hùng

Vương và một số giáo viên dạy giỏi môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học.
Phương pháp này được thực hiện trong quá trình nghiên cứu và ở giai
đoạn cuối cùng khi đã hoàn thiện.
6.2.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi
số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục
do người nghiên cứu tác động đến.


5

Thiết kế thiết bị, đồ dùng dạy học nhằm kiểm nghiệm tính khả thi để hồn
thiện đề tài của mình.
Phương pháp này được thực hiện ở chương 2 và chương 3 của khóa luận.
6.2.4. Phương pháp quan sát
Sử dụng phương pháp quan sát (dự giờ, thăm lớp) nhằm tri giác trực tiếp
đối tượng thực nghiệm một cách có hệ thống để thu được những thông tin đầy
đủ về đối tượng thực nghiệm và đối chứng.
- Phương pháp quan sát cho phép ta thu thập được tài liệu một cách cụ thể,
khách quan về điều kiện tự nhiên của con người do đó có nhiều ưu điểm.Tuy
nhiên bên cạnh đó cịn nhiều hạn chế như: mất thời gian, tốn công sức.
6.2.5. Phương pháp trao đổi, trò chuyện
Sử dụng phương pháp này nhằm hỗ trợ cho phương pháp điều tra. Qua
trao đổi trò chuyện với học sinh, giáo viên và phụ huynh học simh để tìm hiểu
thêm về những vấn đề liên quan tới điều tra tâm tư, tình cảm học sinh.


6

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm thiết bị và đồ dùng dạy học
1.1.1.1. Khái niệm thiết bị dạy học
Quá trình dạy học bao gồm hoạt động dạy và hoạt động học, trong đó diễn
ra q trình tái sản xuất những kinh nghiệm xã hội. Cũng như bất kì một quá
trình sản xuất nào, quá trình dạy học cũng phải sử dụng những phương tiện
lao động nhất định. Phương tiện lao động sư phạm rất đa dạng, gồm những
phương tiện vật chất, phương tiện thực hành, phương tiện trí tuệ. Ở đây chúng
ta chỉ nghiên cứu phương tiện dạy học vật chất với ý nghĩa là công cụ lao
động của người dạy học và được nói gọn là phương tiện dạy học (thiết bị dạy
học), tuy nhiên khi đề cập đến các thiết bị dạy học và cách sử dụng chúng thì
phần nào nói đến các thiết bị thực hành. Từ cách hiểu về các thiết bị dạy học
như vậy, có thể đi tới khái niệm như sau: “Thiết bị dạy học là tập hợp những
đối tượng vật chất được người dạy sử dụng với tư cách là những phương tiện
tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của người học thông qua đó mà thực
hiện những nhiệm vụ dạy học.”
PGS.TSKH Trần Doãn Quế cũng đưa ra khái niệm khá cụ thể về thiết bị
dạy học như sau: “Thiết bị dạy học còn gọi là phương tiện dạy học, đồ dùng
dạy học, tất cả những phương tiện vật chất cần thiết giúp giáo viên và học
sinh tổ chức và tiến hành hợp lí có hiệu quả q trình giáo dục, giáo dưỡng ở
các cấp học, các môn học, các lĩnh vực để thực hiện được u cầu của chương
trình giảng dạy. Ngồi ra thiết bị dạy học còn là nguồn tri thức, là phương tiện
chứa đựng và truyền tải thông tin, là phương tiện làm tăng giá trị lượng tin tức
giúp cho q trình trao đổi thơng tin nhanh, nhiều và hiệu quả hơn.”
Trên đây đều là những khái niệm tương đối đầy đủ về thiết bị dạy học, tuy
nhiên ta có thể hiểu hiết bị dạy học một cách đơn giản như sau: “Thiết bị dạy
học là một vật thể hoặc tập hợp những đối tượng vật chất mà người giáo viên
sử dụng với tư cách là công cụ lao động, là phương tiện điều khiển hoạt động
nhận thức của học sinh, đối với học sinh thì đây là nguồn tri thức, là các



7

phương tiện giúp cho việc lĩnh hội các khái niệm, định luật, thuyết khoa học,
hình thành ở học sinh những kỹ năng, kỹ xảo, đảm bảo việc giáo dục, phục vụ
các mục đích dạy học và giáo dục.”
Về mặt bản chất, thiết bị dạy hcọ là công cụ lao động dành cho loại hình
lao động đặc thù của xã hội, đó là lao động dạy học, là yếu tố quan trọng có
vai trị quyết định năng suất, chất lượng lao động của giáo viên và học sinh.
Thiết bị dạy học cịn phản ánh trình độ dạy học và chất lượng đào tạo của nhà
trường trong các thời đại. Các thời đại giáo dục, các trình độ dạy học khơng
phải chỉ được phân biệt ở nội dung dạy học mà còn ở chỗ dạy – học bằng cái
gì, bằng phương pháp và bằng những thiết bị dạy học nào?
1.1.1.2. Khái niệm đồ dùng dạy học
Khi nói đến việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học, người giáo viên nghĩ
ngay đến các vật dụng trực quan cụ thể, các vật tư, hố chất, mẫu vật, mơ
hình, tranh ảnh... Các tài liệu, ấn phẩm, sách giáo khoa, vở bài tập, phiếu bài
học … Trong những năm qua, các trường Tiểu học đã được cung cấp khá
nhiều trang thiết bị và đồ dùng dạy học, có những thùng đồng bộ để dạy cho
cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục
thì số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ
Đồ dùng dạy học là một tập hợp những đối tượng vật chất được giáo viên
sử dụng với tư cách là những phương tiện điều khiển hoạt động nhận thức cho
học sinh, đối với học sinh đó là nguồn tri thức phong phú sinh động, là các
phương tiện giúp cho các em lĩnh hội tri thức và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo.
Vì vậy muốn đào tạo được một học sinh có đầy đủ kiến thức thì phải sử dụng
đầy đủ, rõ ràng, chính xác các mẫu vật cũng như đồ dùng dạy học, ở đây việc
săn, tìm những đồ dùng dạy học diễn ra bằng một quá trình liên tục và lâu dài,
người giáo viên khơng đủ thời gian để có được đồ dùng đó, việc thực hiện đồ
dùng dạy học ở giờ lên lớp còn nhiều hạn chế

1.1.2. Chức năng của thiết bị, đồ dùng dạy học
Sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy- học là con đường kết hợp
chặt chẽ giữa cái cụ thể và cái trừu tượng, bằng hành động vật chất, bằng


8

ngơn ngữ bên ngồi để chuyển hóa thành ngơn ngữ bên trong (tư duy) phù
hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học. Thiết bị dạy học có nhiều
đặc diểm chức năng khác nhau được phát huy tác dụng trong tất cả các môn
học, đặc biệt là môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học.
1.1.2.1. Chức năng minh họa
Nội dung sách Tiếng Việt phản ánh cuộc sống của nhiều vùng miền khác
nhau trên đất nước ta và nhiều nơi trên thế giới. Sách còn phản ánh cuộc sống
hiện nay hoặc cuộc sống của các thời đại đã xa xưa. Khi học nội dung này học
sinh gặp phải những khái niệm có liên quan đến những sự vật, sự việc xa lạ
với cuộc sống thường gặp hàng ngày. Khơng có những hiểu biết nhất định về
những sự vật này có thể gây trở ngại cho việc hiểu thấu đáo nội dung thơ
văn…
Giáo viên thường dùng lời để giảng giaỉ về các đối tượng đó. Trong giờ
Tiếng Việt, ngơn ngữ đóng vai trò chủ đạo trong việc cung cấp cho học sinh
những tri thức cơ bản về Tiếng Việt, trên cơ sở đó giúp học sinh rèn luyện kĩ
năng nghe- nói- đọc- viết…để các em nắm vững và sử dụng thành thạo tiếng
mẹ đẻ trong giao tiếp, trong học tập và rèn luyện tư duy. Song nê sử dụng
thiết bị dạy học bổ trợ, minh họa thêm cho lời giảng bình, học sinh có thể
hình dung được một cách rõ ràng hơn về vấn đề này, từ đó hiểu được đầy đủ
hơn nội dung thơ văn… Với thiết bị dạy học minh hoạ cho lời giảng bình học
sinh có thể cảm thụ được, có thể hình dung được đầy đủ rõ ràng hơn.
Ở đây thiết bị dạy học khơng những có tác dụng minh họa làm sáng rõ
thêm những nội dung giáo viên trình bày bằng lời (ngơn ngữ) mà cịn hỗ trợ,

bổ sung thêm những thơng tin hình ảnh mà giáo viên khơng thể trình bày trọn
vẹn, rõ ràng bằng ngơn ngữ của mình. Mặt khác, sử dụng thiết bị dạy học
minh họa cịn có tác dụng hợp lí hóa lao động của giáo viên và học sinh;
“Tăng được giờ sống, chống được giờ chết”, có thêm thời gian để giảng giải,
rèn luyện các kĩ năng khác tốt hơn.
1.1.2.2. Chức năng thông tin


9

Khi dạy Tiếng Việt, ngơn ngữ đóng vai trị chủ yếu trong việc cung cấp
nội dung thông tin để học sinh luyện tập thực hành. Song nhiều trường hợp
thiết bị dạy học khơng chỉ đóng vai trị minh họa thêm cho lời giảng của giáo
viên mà còn là nội dung bài học, là nguồn thơng tin trực quan hình tượng
khơng thể thiếu được trong quá trình lên lớp.
Ở đây, thiết bị dạy học đóng vai trị chính trong việc cung cấp nội dung
thông tin để học sinh luyện tập, thực hành. Ngôn ngữ của giáo viên lúc này
không nhằm cung cấp nội dung kiến thức mà chủ yếu là gợi mở, dẫn dắt để
học sinh quan sát, phân tích…tranh, ảnh, đồ vật…, thực hành các phân môn
trong môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học.
1.1.2.3. Chức năng định hướng
Khi đọc một câu văn, câu thơ, một tác phẩm văn học, nhất thiết người đọc
phải làm sao hình dung được đầy đủ về đối tượng, nhân vật…trong đó. Muốn
vậy người học phải dùng tưởng tượng để “nhìn thấy” rõ ràng tồn bộ thế giới
bên trong của tác phẩm với những con người đi đứng, suy nghĩ, hành
động…Hình ảnh trong tưởng tượng của người học càng sáng rõ bao nhiêu thì
sức cảm thụ văn học càng sâu sắc bấy nhiêu.
Khi quan sát tranh minh họa, những kí ức thị giác được in rất sâu đậm và
bền chặt trong kí ức của chúng ta. Kí ức thị giác lại dễ được gợi ra hơn các kí
ức về mùi vị, âm thanh. Do vậy hình ảnh minh họa để lại một ấn tượng rất sâu

đậm trong tâm trí của chúng ta. Từ cái nhìn cụ thể trên hình ảnh minh họa, ta
lại tưởng tượng ra những hình ảnh sinh động khác trong đầu mình. Hình ảnh
minh họa đã kích thích, định hướng, chắp cánh cho hình ảnh tưởng tượng.
Khi đọc các văn bản, mỗi học sinh đã tạo ra trong trí tưởng tượng những
“bức tranh minh họa” phù hợp với vốn sống riêng của mình. Song, vốn sống
của học sinh còn nhiều hạn chế, nên những “bức tranh tự minh họa” của học
sinh có thể phản ánh đúng hoặc lệch lạc, phiến diện nội dung tác phẩm. Nghệ
thuật dạy văn là nghệ thuật khêu gợi cho học sinh “nhìn được” bằng mắt một
cách đúng đắn nhất về thế giới bên trong của tác phẩm.


10

Vấn đề được đặt ra ở đây là giáo viên cần phải sử dụng hình ảnh minh họa
như thế nào để khắc phục được tình trạng sai lệch này. Tranh minh họa có tác
dụng định hướng bằng hình ảnh thị giác, giúp cho học sinh thấy rõ hơn diện
mạo, hình dáng, cử chỉ hành động cũng như môi trường hoạt động của nhân
vật, điều chỉnh cho “bức tranh tự minh họa” trong tưởng tượng của mỗi em
đúng hướng hơn, phong phú hơn, phù hợp với nội dung tác phẩm, khắc phục
được tình trạng hiện đại hóa, địa phương hóa các nhân vật, sự vật…theo sự
hiểu biết hạn chế của mình.
1.1.2.4. Chức năng bồi dưỡng
* Bồi dưỡng vốn sống
Học sinh đã có một hiểu biết nhất định về tự nhiên, xã hội, song vốn sống
cịn nhiều hạn chế. Qua mơn Tiếng Việt, học sinh sẽ hiểu biết thêm nhiều mặt
của cuộc sống hiện nay (về xã hội xa xưa, về nhân dân, về Bác Hồ kính
yêu…)
Bằng thiết bị dạy học như tranh, ảnh, phim…có thể tạo ra điều kiện để học
sinh tham quan trực tiếp các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử, tạo điều
kiện để các em vươn xa tầm nhìn. Ở đây, thiết bị dạy học thực sự đã góp phần

bồi dưỡng vốn sống cho học sinh bằng những hình tượng sinh động phong
phú.
* Bồi dưỡng mĩ cảm
Bồi dưỡng mĩ cảm là bồi dưỡng cho học sinh những khả năng và nhu cầu
nhìn thấy, hiểu rõ và đánh giá đúng được cái đẹp trong mọi biểu hiện của sự
vật, hiện tượng, đông thời vận dụng được cái đẹp đó vào cuộc sống. Bồi
dưỡng mĩ cảm bằng nghệ thuật tạo hình “tranh, ảnh, phim…” là khai thác mặt
mạnh của loại hình nghệ thuật này làm cho tình cảm của trẻ phát triển tốt đẹp
hơn, trí tuệ trở nên phong phú, thông minh hơn.
Ở bậc tiểu học, qua nội dung các bài thơ văn, học sinh rung cảm với cái
đẹp của thiên nhiên đất nước, cái đẹp của cuộc sống mới, con người mới,
đồng thời bước đầu hiểu được cái đẹp của ngôn ngữ và văn học dân tộc. Song,
để đạt được yêu cầu này, chỉ khai thác nội dung thơ, không sử dụng thiết bị


11

dạy học tương ứng bổ trợ, học sinh cũng không thể có được những rung cảm
sâu sắc. Thiết bị dạy học “tranh, ảnh, băng hình…) là những tác phẩm nghệ
thuật tạo hình tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh như được trực tiếp đến
thăm quan, giúp cho việc bồi dưỡng mĩ cảm qua học tập thơ văn hiệu quả
hơn.
Khi sử dụng những tác phẩm nghệ thuật tạo hình (tranh, ảnh, băng ghi
hình...) cần chú ý khai thác cái đẹp về cả nội dung và hình thức. Thiết bị dạy
học đã thực sự góp phần giúp học sinh hiểu sâu hơn nội dung thơ văn, đồng
thời vun đắp trong tâm hồn các em những tình cảm lành mạnh, trong sáng và
nâng dần lên nhận thức lí trí, thúc đẩy các em hành động theo những tình cảm
cao đẹp.
Việc sử dụng băng, đĩa ghi âm còn đem đến cho học sinh nguồn khoái
cảm thẩm mĩ qua sức hấp dẫn của hệ thống âm thanh (lời nói, tiếng động, âm

nhạc…). Thực tiễn giáo dục đã chỉ ra rằng, nhiều bài văn, bài thơ nếu học
sinh chỉ tự đọc, và một số trường hợp do giáo viên đọc mẫu… các em chưa
thấy hết được vẻ đẹp của ngơn ngữ xây dựng nên hình tượng tác phẩm. Khi
học sinh được trực tiếp nghe ngâm thơ, kể chuyện, đọc diễn cảm… qua băng,
đĩa ghi âm, máy thu thanh… với giọng ngâm thánh thót, trầm bổng, với giọng
kể thủ thỉ, khoan thai, khi sôi nổi, căm giận… của nghệ sĩ có tài cộng với hịa
âm bổ trợ xúc cảm thẩm mĩ của các em tăng lên rất nhiều. Qua đó, chúng ta
bồi dưỡng cho học sinh, năng lực thẩm mỹ, khả năng đọc diễn cảm, kể
chuyện hấp dẫn, sinh động… cảm thụ được cái hay cái đẹp của đời sống văn
chương.
* Bồi dưỡng trí tuệ
Bộ mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ bồi dưỡng trí tuệ cho học sinh. Dạy văn
là dạy suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo. Nói một cách khác, trong q trình dạy học Tiếng Việt, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh óc quan sát, ghi nhớ,
tưởng tượng, phân tích, tổng hợp… Đó là những năng lực trí tuệ cần được
hướng dẫn, phát triển kịp thời, mạnh mẽ và đúng hướng nhằm phục vụ cho
quá trình học tập trước mắt cũng như vận dụng trong cuộc sống sau này.


12

Khi sử dụng thiết bị dạy học, giáo viên thường gợi mở, dẫn dắt, hướng dẫn
học sinh phương pháp quan sát, phân tích, so sánh… rút ra kết luận nhất định
để luyện tập, thực hành Tiếng Việt.
* Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm
Mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ và khả năng thuận lợi trong việc giáo dục tư
tưởng, tình cảm cho học sinh. Qua các bài văn hay có giá trị về nội dung và
nghệ thuật giáo dục cho học sinh tình cảm đạo đức mới, yêu cái đẹp trong
thiên nhiên, xã hội, cái đẹp trong ngôn ngữ và văn học. Đồng chí Phạm Văn
Đồng đã từng căn dặn chúng ta: “Trong một bài văn chúng ta có thể dạy cái
hay, cái đẹp của văn đồng thời có thể dạy bao nhiêu cái hay, cái đẹp khác ở

trong đó về tâm hồn, về tư tưởng, về lẽ sống…” (Trích trong Tạp chí nghiên
cứu Giáo dục số 28).
Nội dung giáo dục tư tưởng, tình cảm ở mơn Tiếng Việt được sắp xếp theo
những chủ đề lớn, nhằm giáo dục học sinh lòng yêu nhân dân lao động, yêu
dân tộc, yêu Bác Hồ… nguyện phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, trở
thành con người mới xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Sử dụng thiết bị dạy học trong dạy - học Tiếng Việt, học sinh được quan
sát những hình ảnh về cảnh đẹp đất nước, về truyền thống lao động, về truyền
thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của nhân dân ta. Những hình ảnh này tạo
điều kiện tốt để học sinh thụ cảm được cái hay, cái đẹp trong bài học, từ đó
tiếp thu các tư tưởng, tình cảm trong sáng tốt ra từ tác phẩm văn học, cũng
như từ nghệ thuật tạo hình. Thiết bị dạy học đã tạo điều kiện tốt để giáo viên
gắn nhà trường với đời sống xã hội, góp phần bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng
một cách nhẹ nhàng, sinh động.
1.1.3. Phân loại các thiết bị, đồ dùng dạy học
1.1.3.1. Căn cứ vào vai trò của đồ dùng và thiết bị dạy học trong q trình dạy
học, ta có thể phân loại như sau: Thiết bị dạy học truyền thống và thiết bị dạy
học không truyền thống.
- Thiết bị dạy học truyền thống: tranh ảnh, mơ hình, mẫu vật, dụng cụ thí
nghiệm.


13

- Thiết bị dạy học không truyền thống: các phim khoa học, băng đĩa, máy
chiếu các phần mềm dạy học
1.1.3.2. Căn cứ vào đặc trưng của từng thiết bị dạy học có thể phân loại như
sau:
- Các vật (mơ hình, tranh ảnh thô sơ và gần gũi với học sinh).
- Các thiết bị dạy học hiện đại: máy chiếu, các phương tiện nghe nhìn, các

phần mềm dạy học, internet.
1.1.3.3. Dựa vào tính chất của thiết bị dạy học Tiến sĩ Vũ Văn Dụ phân chia
thiết bị dạy học thành 3 loại như sau: Phương tiện dạy học trực quan, dụng cụ
thí nghiệm, phương tiện kỹ thuật dạy học.
- Phương tiện dạy học trực quan: vật thật, vật thay thế, mô hình, tranh ảnh
v..v
- Dụng cụ thí nghiệm: để thực hiện được các thí nghiệm trong chương
trình, có các dụng cụ thí nghiệm chuyên biệt chỉ dùng cho một thí nghiệm, có
dụng cụ có thể dùng cho nhiều bài học khác nhau như: đèn cồn, cốc, bình,
ống thủy tinh trong suốt với kích thước khác nhau.
- Phương tiện kỹ thuật dạy học: máy chiếu đa phương tiện, máy chiếu vật
thể, máy projecter, màn ảnh, đầu đĩa catset, video, các phần mềm dạy học
(phần mềm Microsoft power point để thiết kế các thí nghiệm ảo, các thí
nghiệm mơ phỏng bài học trong sách giáo khoa).
Đây là cách phân loại hợp lí và khoa học phù hợp với các tính chất đặc
trưng của thiết bị dạy học. Thiết bị dạy học ngày nay được sản suất đồng bộ,
cung cấp rộng rãi theo tiêu chuẩn kỹ thuật xác định của thế giới và trong
nước. Là các thiết bị dạy học theo danh mục thiết bị dạy học tối thiểu của bộ
Giáo dục & Đào tạoquy định. Ngồi ra cịn có đồ dùng dạy học trực quan do
giáo viên và học sinh tự làm, sưu tầm. Đáng lưu ý, phương tiệ dạy học kỹ
thuật là loại thiết bị dạy học có tính hiện đại và khả năng sư phạm cao thường
được sử dụng trên các lớp học và được trang bị một cách phổ biến ở các
trường học. Nhờ có phương tiện kỹ thuật dạy học mà một lượng thông tin lớn
của bài học được hình ảnh, mơ hình hóa, mang lại cho mơn học một không


14

gian học tập có tính mục đích và hiệu quả cao. Chính ưu thế về mặt sư phạm
này mà phương tiện kỹ thuật có tác động lớn trong việc giúp giáo viên thực

hiện đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường.
1.1.4. Tầm quan trọng của việc sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học môn
Tiếng Việt ở trường Tiểu học
* Vị trí của thiết bị dạy học trong dạy học
Quá trình dạy học diễn ra với sáu yếu cơ bản là: Mục tiêu dạy học, nội
dung dạy học, phương pháp dạy học, giáo viên, học sinh và thiết bị dạy học.
Thiết bị dạy học là một thành tố khơng thể thiếu của hệ thống dạy học, nó tồn
tại, vận động và có mối liên hệ mật thiết với các yếu tố khác trong hệ thống.
* Vai trò của thiết bị dạy học trong quá trình dạy học
Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là một trong các điều kiện quyết định sự
thành công của cải cách giáo dục, vì sự thành cơng của cải cách giáo dục phụ
thuộc vào ba điều kiện cơ bản sau:
- Chương trình và sách giáo khoa mới
- Bồi dưỡng giáo viên
- Đổi mới về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
Thiết bị dạy học chẳng những là phương tiện minh họa cho lời giảng của
giáo viên mà còn là phương tiện giúp giáo viên tổ chức và điều khiển hoạt
động nhận thức của học sinh, là phương tiện phát triển tư duy. Thiết bị dạy
học giúp học sinh dễ dàng nhận ra những đặc điểm bên ngoài của sự vật hiện
tượng, nhưng thiết bị dạy học cịn có khả năng giúp học sinh thấy được những
thuộc tính bên trong, thuộc tính bản chất của sự vật hiện tượng. Thiết bị dạy
học đã thực sự góp phần phát triển tư duy của học sinh. Thiết bị dạy học thực
sự đã là điều kiện cần và đủ giúp giáo viên thiết kế hoạt động học tập cho
hoạc sinh, để học sinh có cơ hội tự mình phát hiện ra kiến thức giúp đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập, chủ động
nhận thức của người học. Sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học có
tác dụng là giảm sự phụ thuộc cuả học sinh vào lời giảng của giáo viên, dó đó


15


góp phần đổi mới phương pháp học một cách có hiệu quả. Đối với quá trình
dạy học, thiết bị dạy học là phương tiện dạy học rất quan trọng thiện ở ba mặt:
- Phương tiện minh họa kiến thức
- Phương tiện nâng cao năng lực tư duy
- Phương tiện nâng cao năng lực thực hành
+ Thiết bị dạy học là phương tiện minh họa kiến thức
Tất cả mục tiêu dạy học ở Tiểu học nói chung và mục tiêu dạy học mơn
Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng đều có thể dễ dàng thực hiện thông qua các
công cụ trực quan (Thiết bị dạy học). Thiết bị dạy học với việc trực quan hóa
thơng tin thuận lợi hơn hẳn so với dạy học bằng phương pháp thuyết trình
giảng giải: chứa nhiều thông tin và tổ chức thuận lợi các thông tin trong cùng
một số lượng chỗ, làm đơn giản các khái niệm, làm sáng tỏ các dựa trên ngôn
ngữ trừu tượng. Đặc biệt các kết quả nghiên cứu cho thấy tranh, ảnh trực quan
và việc sử dụng thiết bị dạy học trong quá trình dạy học sẽ làm tăng sự nhớ
trong học tập – đây một trong những mục tiêu hàng đầu của giáo dục.
+ Thiết bị dạy học là phương tiện nâng cao năng lực tư duy
Những hình ảnh trực quan đảm bảo mối liên hệ thừng xuyên tư duy giữa
hiện tượng hoặc đối tượng nghiên cứu khi cung cấp cho tư duy tài liệu thông
tin cần thiết. Phươnng tiện trực quan là trợ thủ không thể thay thế được cảu
người giáo viên ở giai đoạn hình thành tư duy trừu tượng cho học sinh. Ở giai
đoạn này, những ình ảnh trực quan cảm tính bao giờ cũng là thành phần và là
tiền đề bắt buộc của tư duy. Tư duy dù đạt đến mức độ cao như thế nào nhưng
ít nhiều cũng cần đến trực quan cảm tính, cần đến hình ảnh. Các tài liệu trực
quan, thiết bị dạy học chẳng những cung cấp cho học sinh những kiến thức
chính xác mà cịn giúp cho học sinh Tiểu học kiểm chứng lại tính đúng đắn
của những kiến thức lý thuyết. Đứng trước vật thật hay hình ảnh của chúng
học sinh sẽ học tập hứng thú cao hơn, tăng cường sức chú ý đối với các hiện
tượng để rút ra các kết luận đúng đắn.
+ Thiết bị dạy học là phương tiện nâng cao năng lực thực hành



16

Mục tiêu của giáo dục đào tạo là tạo ra được những con người nắm vững
cá kiến thức khoa học, giỏi thực hành có bàn tay khéo léo để thực hiện những
điều mà bộ óc suy nghĩ. Khi hoạt động với công cụ, học sinh sẽ lôi kéo các
vật vào hình thức tác động tương hỗ. Điều đó làm lộ rõ những mối liên hệ nội
tại giữa các vật, làm xuất hiện những bức trang chân thực về thế giới. Trong
q trình thí nghiệm, thực hành, quan sát trực quan, các kiến thức lý thuyết
mà học sinh tiếp thu trên lớp thường ở dạng tĩnh cô lập với kiến thức khác sẽ
tác động tương hỗ với nhau làm cho chúng trở nên động, làm lộ rõ bản chất
và khả năng của chúng. Nhờ vậy, học sinh tiểu học sẽ thấy rõ vị trí vai trị của
mỗi kiến thức trong hoạt động thực tiễn (qua thực hành), qua thực hành hứng
thú thực hành của học sinh sẽ được kích thích. Khi tiếp xúc với thực tiễn, tư
duy của học sinh luôn ln đước đặt trước tình huống mới buộc học sinh phải
suy nghĩ, tìm tịi, phát triển trí sáng tạo. Qua thực hành, đức tính kiên trì, cẩn
thận, chính xác, kỷ thuật được rèn luyện, ý chí và tình u lao động sẽ được
nảy nở. Đó là những phẩm chất cần thiết đối với người lao động và phải được
hình thành qua một quá trình rèn luyện lâu dài, bằng những hoạt động thực
hành đa dạng.
* Yêu cầu khi sử dụng thiết bị dạy học
Các phương tiện trực quan, thiết bị dạy học nếu được chuẩn bị, sử dụng
khéo léo sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp được
2 hệ thống tín hiệu, tạo điều kiện cho người học dễ hiểu, nhớ lâu, gây hứng
thú học tập, phát triển năng lực quan sát, bồi dưỡng sựu say mê, óc tị mị tìm
tịi phát hiện những tri thức mới. Vì thế mà khi tiến hành sử dụng các thiết bị
dạy học trong bài dạy cần giúp học sinh nắm vững, vận dụng tốt nhất những
tri thức cơ bản và biến chúng thành những phương tiện để tiếp tục lĩnh hội tri
thức ở mức độ cao hơn. Các thiết bị dạy học cần được chuẩn bị cẩn thận, đẩm

bảo các yêu cầu sau:
- Thiết bị dạy học phải gắn với nội dung sách giáo khoa


17

Thiết bị dạy học nhằm mục đích minh họa kiến thức, rèn luyện kỹ năng
thực hành luyện tập mà bài học yêu cầu. Vì vậy thiết bị dạy học phải thống
nhất, phù hợp với nội dung sách khoa.
- Sử dụng thiết bị dạy học phải đúng mục đích
Mỗi thiết bị dạy học có chức năng riêng nên phải được nghiên cứu sử
dụng đúng mục đích và phù hợp với quá trình dạy học. Các thiết bị dạy học là
chỗ dựa trực quan để phát triển tư duy, để dạy các nội dung kiên thức trừu
tượng, khái quát. Sách giáo khoa ở đầu cấp kênh hình nhiều giảm, càng về
cuối cấp càng giảm dần.
- Các thiết bị dạy học phải sử dụng đúng lúc, đúng chỗ
Nghĩa là thiết bị dạy học phải được đưa ra lúc học sinh cần nhất, được đặt
ở ví trí thích hợp nhất, lúc mà nội dung bài học và phương pháp dạy học cần
đến, học sinh tiếp nhận được thông tin bằng các giác quan khác nhau với
trạng thái tâm lí phù hợp.
- Sử dụng thiết bị dạy học phải đúng mức độ, cường độ
Sử dụng đúng mức độ, cường độ thiết bị dạy học để tạo được hứng thú
học tập chó học sinh, giúp các em hoạt động một cách chủ động, sáng tạo và
tích cực. Cần chuyển dần, chuyển kịp thời các dạng trực quan từ cụ thể sang
trừu tượng hơn. Cần tránh sử dụng thiết bị dạy học quá lâu, nhiều một loạt
trong thiết bị trong một tiết học. Nếu sử dụng thiết bị dạy không đúng lúc,
đúng chỗ, đúng mức độ sẽ hạn chế khả năng phát triển tư duy của học sinh,
học sinh ngại suy nghĩ, làm việc máy móc.
- Phải kết hợp sử dụng các thiết bị dạy học được trang bị với việc khai thác cơ
sở vật chất, thực tế xung quanh

Môi trường dạy học là nơi diễn ra hoạt động dạy và học, là nơi có các
nguồn thơng tin phong phú giúp giáo viên và học sinh khám phá, khai thác và
sử dụng vào mục đích dạy – hoc. Môi trường dạy học hiểu theo nghĩa hẹp là
những yếu tố vật chất, kỹ thuật của nhà trường, tranh thực tế của lớp học, là
mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh. Viết kết hợp sử dụng thiết bị dạy
học được trang bị với việc khai thác cơ sở vật chất, môi trường dạy học không


18

những gây hứng thú cho việc dạy, việc học mà còn tạo dựng được mối quan
hệ hợp tác trong học tập.
Ngoài những yêu cầu trên, khi sử dụng thiết bị dạy học cần phải lưu ý:
+ Thiết bị dạy học phải phù hợp với khả năng lĩnh hội tri thức của học sinh,
đảm bảo tính khoa học, phản ánh chính xác bản chất của các sự vật, đảm bảo
sự quan sát của tập thể lớp, dễ sử dụng, không chiếm mất nhiều thời gian khi
sử dụng.
+ Đảm bảo tính thẩm mĩ, sử dụng đến đâu thì đưa ra đến đó, dùng xong phải
cất đi để không làm phân tán sự chú ý vào bài học của học sinh. Phải chú ý
thiết lập hệ thống câu hỏi định hướng sự quan sát của học sinh.
+ Mỗi thiết bị có điểm mạnh, điểm yếu, để sử dụng một cách có hiệu quả thiết
bị dạy học đòi hỏi giáo viên phải hiểu rõ cấu tạo, nguyên lý hoạt động, tác
dụng của mỗi thiết bị dạy học. Căn cứ vào mục đích, nội dung bài học, lựa
chọn, sử dụng và phối hợp các thiết bị dạy học một cách hợp lí sẽ góp phần
nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
1.1.5. Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học
Là thực thể hồn nhiên tiềm tàng khả năng phát triển (khả năng hiện thực
và khả năng tiềm ẩn).
Là thực thể hồn nhiên nên trẻ em ngây thơ, trong sáng. Bản tính của trẻ em
ln được thể hiện ra bên ngồi khơng hề che giấu, khơng hề “đóng kịch”.

Là nhân cách đang hình thành. Trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học là thực
thể
đang lớn lên, đang hoàn thiện về cơ thể (sinh lí) và đang phát triển về tâm hồn
(tâm lí). Trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học là nhân cách đang hình thành chứ
chưa phải là một cá nhân đã định hình đầy đủ, ổn định (cho dù chỉ là tương
đối), chưa trưởng thành đạt độ chín như một nhân cách cơng dân.
Có hoạt động học là hoạt động chủ đạo. Trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu
học thực hiện bước chuyển từ hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo sang
hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo.
Học sinh tiểu học là phạm trù tương


19

Đặc điểm tâm lí của học sinh tiểu học
Đặc điểm quá trình tri giác của học sinh Tiểu học: Tri giác của học sinh
tiểu học mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và nặng về tính khơng chủ
định, do đó mà các em phân biệt các đối tượng cịn chưa chính xác, dễ mắc sai
lầm và có khi còn lẫn lộn. Tri giác về thời gian và không gian cũng như ước
lượng về thời gian và không gian của học sinh tiểu học còn hạn chế.
Đặc điểm chú ý của học sinh: Chú ý có chủ định của học sinh tiểu học còn
yếu, khả năng điều chỉnh chú ý một cách có ý chí chưa mạnh. Đến cuối bậc
Tiểu học thì các em đã có thể duy trì chú ý có chủ định ngay cả khi chỉ có
động cơ xa (như các em chú ý vào cơng việc khó khăn nhưng khơng hứng thú
vì biết chờ đợi kết quả trong tương lai).
Chú ý không chủ định của học sinh tiểu học phát triển nhờ những thứ
mang tính mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ, khác thường dễ lôi cuốn sự chú ý của các
em, khơng có sự nỗ lực của ý chí. Chú ý có chủ định phát triển cùng với sự
phát triển động cơ học tập, cùng với sự trưởng thành
Đặc điểm trí nhớ của học sinh: Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan –

hình tượng phát triển chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ – lơgíc, vì ở lứa tuổi
này hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở các em tương đối chiếm ưu
thế. Các em nhớ và giữ gìn chính xác những sự vật, hiện tượng cụ thể nhanh
hơn và tốt hơn những định nghĩa, những câu giải thích bằng lời.
Đặc điểm quá trình tưởng tượng của học sinh: Tưởng tượng là một trong
những quá trình nhận thức quan trọng của học sinh tiểu học. Tưởng tượng của
học sinh tiểu học đã phát triển và phong phú hơn so với trẻ em tuổi mẫu giáo
lớn. Nó được hình thành và phát triển trong hoạt động học và các hoạt động
khác của các em. Tuy nhiên tưởng tượng của học sinh tiểu học cịn tản mạn, ít
có tổ chức, hình ảnh của tưởng tượng còn đơn giản, hay thay đổi, chưa bền
vững. Càng về những năm cuối bậc Tiểu học, tưởng tượng của học sinh càng
gần hiện thực hơn.
Đặc điểm tư duy của học sinh: Tư duy của trẻ em mới đến trường là tư duy
cụ thể, dựa vào những đặc điểm trực quan của đối tượng và hiện tượng cụ thể.


20

Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, khả năng tư duy trừu tượng kém. Phần lớn
các em tư duy phải dựa trên mơ hình, vật thật, tranh ảnh. Do vậy trong giờ
học việc sử dụng đồ dùng là không thể thiếu được. Đồ dùng dạy học khơng
chỉ là mơ hình, tranh ảnh, vật thật, mà có thể là những trang phiếu học tập,
được sử dụng dưới nhiều hình thức như : Trao đổi nhóm, hoặc mỗi học sinh
một phiếu trong các giờ học: Kiểm tra, ôn tập ... ở tất cả các môn học. Là
phương tiện chuyển tải thông tin và nó cịn là nội dung của q trình truyền
thu tri thức giáo dục tư cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh. Nó
điều khiển mọi hoạt động nhận thức của học sinh từ trực quan sinh động đến
tư duy trừu tượng. Nó tác động to lớn trong việc phát huy trí sáng tạo, kích
thích hứng thú trong việc dạy và học của thầy và trò. Đặc biệt sử dụng đồ
dùng dạy học hợp lý bao giờ cũng cho những kết quả đúng về tính khoa học

sư phạm và tính mĩ thuật.
Có nhà giáo dục trẻ cho rằng: “Trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học
đơn điệu nhàm chán”. Học sinh tiểu học cảm thấy mệt mỏi và chán học khi
chỉ nhìn thấy mãi một hình ảnh của giáo viên. Lúc đó học sinh mong muốn
được nhìn thấy một cái gì khác ngồi giáo viên để tạo ra một cảm giác thoải
mái khi có cái mới để thu nhận kiến thức, thường cái mới đó là đồ dùng dạy
học – Trong đó nếu nội dung đồ dùng dạy học phù hợp với nhận thức của học
sinh thì sẽ nâng cao hiệu quả giờ dạy của giáo viên lên rất nhiều. Sử dụng đồ
dùng dạy học phù hợp , linh hoạt trong q trình dạy học có tác dụng làm
giảm sự phụ thuộc của học sinh vào lời giảng của giáo viên do đó góp phần
đổi mới phương pháp học một cách có hiệu quả.
Chính vì thế mà luật giáo dục đã quy định rất rõ về tiêu chuẩn trường, lớp.
Thiết bị dạy học ở trường tiểu học như sau: “...Thiết bị giáo dục trang bị cho
nhà trường phải thiết thực. Trước mắt cần tập trung trang bị những thiết bị tối
thiểu , cần thiết phục vụ yêu cầu đồng bộ giữa thiết bị chứng minh của giáo
viên và thiết bị thực hành của học sinh, cần kết hợp trang thiết bị truyền thông
đơn giản và thiết bị hiện đại (phương tiện nghe, nhìn, phịng học tiếng, vi tính
...) từng bước hiện đại hố nhà trường tiểu học theo sự phát triển của xã hội và


21

kinh tế đất nước, khuyến khích giáo viên và học sinh làm đồ dùng dạy học
bằng nguyên liệu địa phương giá thành thấp...”.
Thực tế hiện nay việc sử dụng đồ dùng dạy học ở các khối lớp cũng tương
đối phong phú, ở tất cả các môn học. Bên cạnh những đồ dùng phục vụ giảng
dạy trong các giờ lên lớp như mơ hình tranh ảnh, tranh tĩnh, tranh động, đèn
chiếu cịn có những nội dung của bài được sử dụng theo phiếu gây sự hứng
thú học tập cho các em: Nhưng so với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và
học hiện nay thì việc sử dụng phiếu và nội dung soạn phiếu vẫn chưa thực sự

đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho các hình thức học. Chính vì vậy đồ dùng
dạy học phải được đưa ra đúng lúc và phù hợp với nhận thức của học sinh,
phải đảm bảo được tính chất học tập, ơn luyện, củng cố các tri thức, kĩ năng kĩ
xảo là hết sức cần thiết trong các giờ học căng thẳng nhằm :
- Tạo cho trẻ thay đổi hình thức hoạt động trên lớp (Thơng qua hình thức trao
đổi phiếu theo nhóm).
- Tạo ra sự vui vẻ thoải mái
- Tạo ra một khơng khí đồn kết thơng hiểu lẫn nhau. Nếu biết kết hợp khéo
léo các bước hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng dạy học với nội dung bài
giảng thì bao giờ học sinh cũng tiếp thu nhanh hơn, hiểu bài giảng nhanh hơn,
nhất là những nội dung ở bài trắc nghiệm: Đúng – Sai. Biết rằng sử dụng đồ
dùng dạy học trong giờ học là một nghệ thuật, là cần thiết. Song nhiều giáo
viên đã không thực hiện được, hoặc thực hiện khơng thành cơng mang tính
hình thức chính vì vậy hiệu quả giờ dạy không cao
Đặc điểm nhân cách của học sinh tiểu học
Tính cách: Những nét tính cách của các em mới được hình thành, chưa ổn
định nên có thể thay đổi dưới tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã
hội.
“ ... Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
(Hồ Chí Minh)


22

Những ảnh hưởng của hoạt động thần kinh cấp cao biểu lộ khá rõ trong hành
vi của học sinh tiểu học như: tính nhút nhát, tính cơ độc (xa lánh mọi người)
có thể là sự biểu hiện trực tiếp của thần kinh yếu, tính nóng nẩy, khơng bình
tĩnh có thể là sự biểu hiện của quá trình ức chế thần kinh yếu.
Ở lứa tuổi này dễ nhận ra tính xung động trong hành vi của các em

(khuynh hướng hành động ngay lập tức dưới ảnh hưởng của kích thích bên
trong và bên ngoài). Do vậy mà hành vi của học sinh tiểu học dễ có tính tự
phát, dễ vi phạm nội quy và thường bị xem là “vô kỉ luật”.
Nguyên nhân của hiện tượng này là sự điều chỉnh của ý chí đối với hành vi
của trẻ em lứa tuổi tiểu học còn yếu, các em chưa biết đề ra mục đích hoạt
động và theo đuổi mục đích đó đến cùng.
Tính cách của học sinh tiểu học có nhược điểm thường bất thường, bướng
bỉnh. Đó là hình thức độc đáo phản ứng lại những yêu cầu của người lớn,
những yêu cầu mà các em xem là cứng nhắc, để bảo vệ cái mình “muốn” thay
cho cái mình “cần phải”.
Học sinh tiểu học thường có nhiều nét tính cách tốt như tính hồn nhiên,
ham hiểu biết, lịng thương người, lịng vị tha. Hồn nhiên trong quan hệ với
mọi người, với thầy, cô, với người lớn, với bạn bè. Hồn nhiên nên trẻ em rất
cả tin, tin vào thầy cô, tin vào sách, tin vào người lớn và tin vào khả năng của
bản thân. Niềm tin của hoc sinh tiểu học còn cảm tính, chưa có lí trí soi sáng
dẫn dắt. Giáo viên nên tận dụng đặc tính này để giáo dục học sinh của mình,
nhưng cần ln nhớ rằng mọi điều đưa đến cho các em cần phải đúng, phải
chính xác, vì nếu khơng thì khi trẻ đã có niềm tin vào điều gì đó, khi niềm tin
được định hình, khắc sâu thì rất khó thay đổi cho dù điều đó là sai trái.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tính bắt chước của các em vẫn còn đậm nét.
Các em bắt chước hành vi, cử chỉ của giáo viên, của những người được các
em coi như “thần tượng”, kể cả những nhân vật trong truyện, trong phim ảnh.
Tính bắt chước của trẻ lợi hại như “con dao” hai lưỡi, cũng có thể tích cực,
cũng có thể “lợi bất cập hại”. Chính vì vậy mà giáo viên cần hiểu biết thấu
đáo và biết tận dụng tính bắt chước của trẻ để giáo dục các em có hiệu quả.


23

Học sinh tiểu học thích hoạt động và thích làm việc gì đó phù hợp với mình,

nên có thể sớm hình thành ở các em thói quen đối với lao động: lao động tự
phục vụ và trợ giúp người lớn những việc phù hợp tâm sinh lí. Hoạt động lao
động cịn hình thành cho các em những phẩm chất tốt đẹp như tính kỉ luật, sự
cần cù, óc tìm tịi sáng tạo, tính tiết kiệm, tình cảm đối với người lao động.
Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học:
Nhu cầu nhận thức hình thành và phát triển ở trẻ em từ tuổi thơ, đến lớp
mẫu giáo lớn thì nhu cầu này phát triển mạnh, xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu
cầu nhận thức và phương thức thoả mãn nó ở mẫu giáo, nghĩa là phương thức
hoạt động vui chơi với tư cách là hoạt động chủ đạo ở mẫu giáo và xuất hiện
hoạt động học tập với tư cách là hoạt động chủ đạo.
Trở thành học sinh lớp một, nhu cầu nhận thức của trẻ em phát triển và thể
hiện rõ nét, đặc biệt là nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh, khát vọng hiểu
biết mọi thứ có liên quan.
Đời sớng tình cảm của học sinh Tiểu học
Tình cảm là một mặt rất quan trọng trong đời sống tâm lí, trong nhân cách
mỗi người. Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu
trọng yếu gắn nhận thức với hoạt động của trẻ em. Tình cảm tích cực sẽ kích
thích trẻ em nhận thức và thúc đẩy trẻ em. Học sinh tiểu học rất dễ xúc cảm,
xúc động và khó kìm hãm xúc cảm của mình. Tính dễ xúc cảm được thể hiện
trước hết qua các quá trình nhận thức: quá trình tri giác, tưởng tượng, tư duy.
Hoạt động trí tuệ của các em đượm màu sắc xúc cảm, tình cảm của học sinh
tiểu học còn mỏng manh, chưa bền vững, chưa sâu sắc. Các em đang ưa thích
đối tượng này, nhưng nếu có đối tượng khác hấp dẫn hơn, đặc biệt hơn thì dễ
dàng bị lơi cuốn vào đó và lãng quên đối tượng cũ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Giới thiệu về trường Tiểu học Hùng Vương
Trong những năm gần đây với sự quan tâm của các cấp chính quyền địa
phương đã tạo điều kiện giúp đỡ trường về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất,



24

nâng cao đảm bảo các điều kiện dạy và học, ngoài ra các hoạt động khác của
nhà trường cũng được nâng cấp.
Nhà trường có hai dãy nhà, tổng số phịng học hiện có là 20 phịng học
đảm bảo 100% học sinh có chỗ ngồi.
Làm tốt cơng tác tham mưu với chính quyền địa phương, tăng cường cơ sở
vật chất cho giảng dạy. Số phòng học đảm bảo 1 lớp/ 1 phòng học. Các phòng
chức năng đã đầy đủ.
Trang thiết bị dạy học đảm bảo yêu cầu tối thiểu cho giảng dạy. Thư viện
có đủ sách giáo khoa, sách tham khảo cho giáo viên và học sinh sử dụng. Có
đầy đủ thiết bị phục vụ thí nghiệm quan sát và thực hành trong các giờ.
Trường có xây thư viện tiên tiến và trong mỗi lớp học có một tủ sách thư
viện.
Trường chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng cho việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong giảng dạy. Điều kiện sử dụng thiết bị về máy tính rất linh hoạt
nên việc giáo viên tiếp cận với giảng dạy bằng giáo án điện tử rất tốt, học sinh
thi giải toán trên mạng.
Trong trường hiện nay có tổng số cán bộ là 30 cán bộ cơng nhân viên,
khơng có giáo viên thiếu, 100% gi viên có trình độ đạt chuẩn, khơng có
giáo viên hợp đồng.
Nhìn chung nhà trường có một đội ngũ giáo viên giỏi, tay nghề chuyên
môn cao, thực hiện tốt nội quy, quy chế dân chủ, công khai về quyền lợi và
nghĩa vụ của giáo viên. Mọi thành viên trong nhà trường đều được tham gia
bàn bạc về kế hoạch hoạt động và cùng nhau xây dựng chỉ tiêu, phương
hướng phát triển.
Làm tốt công tác kiểm tra đánh giá, phát hiện kịp thời những thiếu sót để
có biện pháp nhằm khắc phục, đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tổ
chuyên môn.
Hàng năm nhà trường tở chức thăm lớp dự giờ để kiểm tra toàn diện chất

lượng học sinh.


25

Nâng cao ý thức tự học, tự bồi dưỡng cho giáo viên, 100% giáo viên soạn
bài bằng máy tính và nối mạng internet để khai thác kiến thức trên mạng phục
vụ tốt cho giảng dạy.
1.2.2. Đánh giá thực trạng sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học cho môn
Tiếng Việt lớp 2 – 3 ở trường Tiểu học Hùng Vương
* Khảo sát
Đối tượng khảo sát
22 giáo viên các khối lớp thuộc trường Tiểu học Hùng Vương, Thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ.
216 học sinh lớp 2 -3 trường Tiểu học Tiểu học Hùng Vương, Thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Nội dung khảo sát
Tiến hành phát phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên và học sinh lớp 2 và
lớp 3 thuộc trường Tiểu học Hùng Vương, Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Mặt
khác, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Quan sát, trò
chuyện, lấy ý kiến chuyên gia...
Nội dung phiếu thăm dò ý kiến (phụ lục)
* Thống kê
Phiếu thăm dò ý kiến
Tổng số phiếu phát ra: 238
Tổng số phiếu thu vào: 238, đạt tỉ lệ 100%
Để tìm hiểu nhận thức của giáo viên về sự cần thiết của đồ dùng thiết bị
dạy học trong giờ Tiếng Việt, chúng tôi đã khảo sát, tiến hành tổng hợp và có
được bảng thống kê sau:



×