Vùng cát ven biển nước ta là vùng sinh thái rất khắc nghiệt, hiểm hoạ cát di
động uy hiếp mạnh mẽ và trở thành khu vực rất xung yếu. Khoảng 400.000 ha
các dải cát di động trải dọc bờ biển miền Trung đã và đang bị sa mạc hoá, ước
tính mỗi năm có 20 ha đất canh tác nông nghiệp bị lấn bởi các đụn cát di động
[9]. Vì vậy việc tạo rừng trên những vùng cát này là hết sức khó khăn.
Do phải tạo rừng trên những vùng đất cát khô hạn, nghèo dinh dưỡng với
chức năng phòng hộ, chắn gió, chắn cát ven biển nên việc lựa chọn loài cây
trồng rừng rất được quan tâm, đây là một trong những khâu cốt yếu quyết định
đến thành bại của công tác trồng rừng. Viện KHLN Việt Nam đã nghiên cứu với
một số loài cây trồng trên vùng này đó là Keo lá tràm, Keo tai tượng, Phi lao,
một số loài cây chịu hạn và một số loài Bạch đàn trắng…nhưng cũng chưa đi
sâu [23].
Với các vùng đất cát ven biển, đặc biệt là các đồi cát nội đồng hoặc đồi cát
di động, bán di động thì Keo lá liềm () là cây trồng lý tưởng
để hình thành rừng phòng hộ bảo vệ đất, điều hóa khí hậu, chống cát bay, cát
nhảy, cải tạo môi trường sinh thái, tạo điều kiện thuận lợi cho canh tác nông
nghiệp và đời sống dân sinh. Bên cạnh những lợi ích của cây Keo lá liềm mang
lại cho môi trường thì nó còn đem lại nhiều lợi ích về kinh tế. Gỗ keo lưỡi liềm
khá nặng, gỗ lớn dùng đóng đồ mộc, gỗ xây dựng, làm ván ghép thanh; gỗ nhỏ
dùng làm nguyên liệu giấy, dăm, ván ép, cọc trụ mỏ… Do tán lá rộng thường
xanh, mọc chồi khỏe, có khả năng cạnh tranh với cỏ dại nên dùng để trồng trên
đồi trọc làm cây che bóng, bảo vệ đất. Ngoài ra, Keo lá liềm có rễ phát triển
mạnh, nhiều vi khuẩn cố định đạm cộng sinh nên vừa có tác dụng bảo vệ và cải
tạo đất rất tốt, đặc biệt là vùng cát trắng ven biển [20].
Rừng ven biển luôn được tỉnh Thừa Thiên - Huế xác định có vai trò to lớn
trong việc chắn cát, giảm thiểu ảnh hưởng do biến đổi khí hậu, bảo vệ môi
trường sinh thái và các các công trình hạ tầng trong vùng, tạo công ăn việc làm,
nâng cao đời sống của nhân dân. Hiện nay huyện Phong Điền - Thừa Thiên Huế
đã và đang đưa vào xây dựng các mô hình trồng Keo lá liềm nhằm giúp người
dân vùng đất cát có thể phát triển một loài cây lâm nghiệp với mục tiêu tạo lập
được các dải rừng phòng hộ để chặn đứng nạn cát bay và cố định các cồn cát di
động, tạo tiền đề cần thiết cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi và
1
nuôi trồng thuỷ sản trên đất cát, cải thiện được các điều kiện khắc nghiệt của
môi trường vùng cát và nâng cao độ phì nhiêu của đất [18].
Tuy nhiên việc trồng cây gây rừng ở những vùng cát ven biển và vùng cát nội
đồng còn gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết một trong những khó khăn đó thì chọn
kỹ thuật làm đất thích hợp và xác định tuổi cây con đem trồng là một trong những
bước đầu quan trọng nhằm tăng tỷ lệ sống và sinh khối của Keo lá liềm.
Xuất phát từ những yêu cầu đó, tôi chọn đề tài“
!"#$%&'!()*+,#+,-
./01'-2 (Acacia crassicarpa) 34#5-#167&*
'289:(;<
2
=
>?@ABCDC?EFCGA
=<<HH4(I
Vào đầu những năm 1988, CSIRO với sự khuyến khích của FAO và hỗ trợ
tích cực của các đối tác khác nhau, bắt đầu bộ sưu tập hạt giống về cây Keo
trong vùng nhiệt đới ẩm của Úc, Indonesia và Papua New Guine. Phần lớn các
thăm dò và thuần hóa keo nhiệt đới ở châu Á được báo cáo khá đầy đủ tại các
hội thảo do ACIAR, CSIRO, FAO và Viện Quốc tế Winrock nghiên cứu về
Nông nghiệp tổ chức từ năm 1986 đến 1993. Từ năm 1993 đã có những nghiên
cứu sâu hơn về sự thuần hóa của Keo nhiệt đới trong môi trường ẩm ướt và khô
cằn/bán khô cằn. Một số loài được trồng thử nghiệm, đó là ,
, và , đã cho thấy
những điểm khả quan trong các thử nghiệm ở những vùng nhiệt đới ẩm, nhưng
chỉ đã được trồng thí điểm với mục đích thương mại, chủ
yếu là ở Indonesia [17].
Theo nghiên cứu tại CSIRO lâm nghiệp và lâm sản (CSIRO FFP) được tiến
hành trong bối cảnh thuần hóa cây. Cho biết là một cây khá
lớn có thể cao lên đến 30 m. Nó có sức tăng trưởng và sức sống cao ở những nơi
khô cằn, hơi cao, đồng cỏ cao nguyên và phát triển mạnh trong vùng nhiệt đới
ẩm với tiềm năng của các loài ít được biết đến. Trong những năm qua,
đã phát triển từ một cây hầu như không được biết đến trong
những vùng hoang dã của miền Bắc Queensland và New Guinea rồi trở thành
một loài cây trồng phổ biến với khả năng cung cấp giấy và bột giấy trong khu
vực Đông Nam Á. Hơn 40.000 ha rừng trồng hiện nay đã được thành lập trên
đảo Sumatra ở Indonesia (Midgley 2000) đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và
góp phần bảo vệ môi trường trên đảo. Mặc dù Keo lá liềm tạo ra sản lượng bột
giấy ít hơn so với Keo tai tượng, nhưng tốc độ tăng trưởng cao (trung bình gia
tăng hàng năm là hơn 25m
3
/ha/năm) duy trì năng suất trên mỗi đơn vị diện
tích. Nó được trồng chủ yếu trên đất cao, có độ pH thấp và đôi khi có thể bị
ngập nước, trong khi đó Keo tai tượng có thể không phát triển tốt [12].
là một minh chứng tốt về tiềm năng phát triển nhanh
chóng của loài cây nhiệt đới. Nó đã thu hút sự đầu tư, nghiên cứu tại nhiều quốc
gia như: Úc, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc,
Tanzania. Nhiều nghiên cứu đầu được thực hiện trong các dự án ACIAR. Công
3
việc tiếp theo đã được thực hiện dưới sự bảo trợ của Nhóm tư vấn nghiên cứu và
phát triển của cây Keo (COGREDA).
J4@,
Theo Pan Zhigang và đồng nghiệp Yingtian thì đã được
giới thiệu vào năm 1985 với các loài được trồng ở Trung Quốc. Sau 8 năm
nghiên cứu (1985-1993), cho thấy rằng nó là một cây họ đậu
nhiệt đới phát triển nhanh chóng. Ít sâu bệnh, dịch hại nghiêm trọng và là một
loài cây cung cấp giấy và bột gỗ. phân bố ở các vùng cận
nhiệt đới, nhiệt đới và phía Nam rộng lớn ở Trung Quốc, nơi nhiệt độ trung bình
khoảng 21 - 24
0
C, có lượng mưa hàng năm 1000 - 2000 mm. Nó có thể sinh
sống ở đồi núi thấp, và bờ biển đất cát. Đặc biệt có thể làm
giàu cho đất vì nó là một loài có khả năng cố định đạm [15].
J-K
Thử nghiệm của nhiều loài có nguồn gốc ở Úc (chủ yếu là của các loài
Keo, Bạch đàn và Tràm) được trồng tại các địa điểm khác nhau trên khắp Thái
Lan trong thời gian 1985 - 1987. Kết quả ban đầu thu được từ các thử nghiệm
trồng năm 1985 và 1986 đã cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các loài trong sự
tồn tại và phát triển. Một số cây Keo (ví dụ như ,
và ) và Bạch đàn (ví dụ như
, , và
) nằm trong số những cây có khả năng sinh tồn và phát
triển tốt. Với loài Keo thì các xuất xứ phía Bắc như và
tăng trưởng nhanh hơn các xuất xứ miền Nam. Đặc biệt,
là loài có nhiều triển vọng, vừa có khả năng thích nghi tốt ở
những vùng khắc nghiệt vừa sinh trưởng tốt góp phần đem lại hiệu quả cao về
kinh tế [14].
JE.'1+
Nghiên cứu ở Nam Kalimantan - Indonesia về sự tồn tại và phát triển của
83 loài cây, nghiên cứu này đã tiến hành thử nghiệm với những loài thống trị
trên đồng cỏ ở Nam Kalimantan, Indonesia. Bố trí thí nghiệm được chọn ngẫu
nhiên, thiết kế với 6 - 8 lần lặp lại của lô, hàng 5 cây. Ở tuổi hai, năm giống
nhập ngoại: , ,
, có tỷ lệ sống sót cao từ 90 - 100%, chiều
rộng tán khoảng 3 - 6 m và chiều cao từ 5 - 8m có ý nghĩa. Đặc biệt là
và của giống nhập ngoại đã sinh trưởng rất tốt.
4
Sự phát triển nhanh chóng của năm loài cây trồng đã được nghiên cứu trong
vòng 24 tháng. Kết quả thí nghiệm cho thấy, Keo tai tượng có tỷ lệ sống cao
nhất là 98% và chiều cao đo được là 8,7 m, tiếp theo là Keo lá liềm với tỷ lệ
sống 91% và chiều cao 8,0 m. Hiệu suất cuối cùng của loài cây trồng đã được
xác nhận trong các thí nghiệm độc cấp và trồng thí điểm [11].
Khả năng tăng trưởng nhanh chóng của những loài ngoại lai trong lần tái
trồng rừng đầu tiên trên các đồng cỏ đã cung cấp một cơ sở đáng tin cậy cho các
hoạt động tiếp theo. Có thể thấy rằng Keo lá liềmlà loài cây có thể sinh trưởng
và phát triển tốt trên đồng cỏ ở Nam Kalimantan, và cần được ưu tiên nghiên
cứu thêm trong thời gian tới.
JL
Nghiên cứu này để so sánh hiệu suất của các loài Keo, loài/xuất xứ:
, và được
tiến hành tại Kongowe, Kibaha, Tanzania. Loài/xuất xứ đánh giá về tỷ lệ sống,
sinh trưởng (đường kính, chiều cao và khối lượng), mật độ cơ bản và sinh khối
gỗ. Các thử nghiệm đã được tiến hành bằng cách sử dụng một khối hoàn toàn
ngẫu nhiên với ba lần lặp lại của 22 phương pháp nghiên cứu (loài/xuất xứ). Dữ
liệu của tỷ lệ sống, đường kính ngang ngực và chiều cao được thu thập ở độ tuổi
từ 2 đến 4 năm. Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể của tỷ lệ sống, chiều cao
và tăng trưởng đường kính giữa các loài/xuất xứ tại tất cả các lần đánh giá [10].
Bảng 2.1.
C9!-- K'
MNI
"
từ Bensbach, Papua New Guinea
(PNG), với đường kính là 13,9cm
C2'I"
từ Bimadebum, PNG có chiều cao
là 12,6m
0,O+P"
#+,
từ Bensbach, PNG, có khối lượng
cao nhất (58,7 m
3
/ha) và sinh khối gỗ (53,4 t/ha) trong
khi từ Kongowe, Tanzania, có chiều
cao thấp nhất (4,6m), khối lượng (1,92 m
3
/ha) và sinh
khối gỗ (2,7 t/ha).
Q!RS6 từ Claudie, Queensland có mật độ
cơ bản cao nhất (610,6 kg/m), trong khi nhập từ
Bituri, PNG, là thấp nhất (375,2 kg/m)
5
! " "# #
$%& ' ()*+*,-+*.
JQ&+
Một thử nghiệm tại Trường Đại học Putra Malaysia (UPM) Serdang,
Malaysia gồm 8 xuất xứ của ở tuổi 3 đã đo đếm về tỷ lệ
sống, chiều cao, đường kính, dạng cây, trọng lượng riêng, sinh khối của các bộ
phận, khối lượng, và diện tích lá. Một là nguồn gốc từ Irian Jaya, hai là từ
Indonesia, và ba là có nguồn gốc từ phía bắc Queensland, và bốn là từ Papua
New Guinea. Tất cả các xuất xứ đều có tỷ lệ sống tốt (>94,7%), nhưng có sự
khác biệt đáng kể (P<0,05) trong quá trình phát triển của chúng. Các xuất xứ từ
Samlleberr, Irian Jaya, Indonesia, sông Olive, Queensland, Limal Malam, Papua
New Guinea đã được tìm thấy là có triển vọng nhất về chiều cao trung bình,
đường kính, dạng cây, sinh khối, khối lượng, và tăng trưởng diện tích lá.
Phương trình để dự đoán tổng sinh khối (cả trên và dưới gốc cây) các xuất xứ
của đã sử dụng dữ liệu từ 30 cây từ mỗi xuất xứ [16].
=<=<HH*
2.2.1. Nghiên cứu về Keo lá liềm
Keo lá liềm ( hay / (Acacia
Cunn. ex Benth.) Pedley.) là một cây bản địa Úc (Queensland), Indonesia
và Papua New Guinea.Ở nước ta vùng trồng Keo lá liềm nhiều nhất là vùngBắc
Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ. Keo lá liềm thích hợp nơi có nhiệt độ
trung bình 24 - 25
0
C, lượng mưa 1.500 – 2000 mm, độ cao dưới 400 – 500 m so
với mực nước biển, độ dốc dưới 20 - 25
0
. Là loài cây ưa đất có thành phần cơ
giới trung bình, thoát nước, chịu được đất chua, đất nghèo, đất cát, trồng tập
trung và phân tán đều được [21].
Trong vòng 20 năm (1980 - 2000) đã có trên 20 khảo nghiệm được triển
khai, trải dài suốt từ Bắc tới Nam, tại nhiều vùng sinh thái và trên nhiều dạng lập
địa khác nhau đã là cơ sở tốt để chọn được các loài và xuất xứ có triển vọng
trong toàn quốc và cho từng vùng. Hàng chục loài và gần 100 xuất xứ
Keo vùng thấp đã được quan tâm khảo nghiệm từ những năm 1980.
Trong số nhiều loài Keo được đưa vào khảo nghiệm thì 3 loài là Keo lá liềm,
Keo lá tràm và Keo tai tượng đã chứng tỏ có nhiều xuất xứ đáp ứng được yêu
cầu trồng rừng trên diện rộng do có khả năng sinh trưởng nhanh và khả năng
thích nghi cao [7].
6
Nghiên cứu, đánh giá khả năng sinh trưởng của các loài Bạch đàn:
và các loài Keo: ,
trồng thử nghiệm 3 năm tại trạm thực nghiệm Mang Yang,
tỉnh Gia Lai trên đất feralit rừng nghèo kiệt, việc bố trí trồng hỗn giao giữa Bạch
đàn và Keo vừa đáp ứng mục tiêu kinh tế vừa góp phần bảo vệ môi trường đất là
phương thức hợp lý, bền vững. Kết quả nghiên cứu cho thấy, việc trồng hỗn giao
theo hàng giữa 4 loài cây trong điều kiện đất rừng nghèo trong giai đoạn rừng
non đã thúc đẩy sinh trưởng tốt, nhất là chiều cao. Đất rừng Mang Yang cơ bản
thích hợp với đặc tính sinh thái của 4 loài cây đang nghiên cứu. Kết quả thí
nghiệm tại trạm thực nghiệm Mang Yang đối với : ZH
vn
=1,00
m, ZD
o
= 2,05 cm như vậy có thể thấy rằng cây Keo lá liềm là loài cây thích hợp
với vùng đất rừng nghèo Mang Yang.[1]
Năm 2011, Trung tâm KN - KN tỉnh Quảng Trị, Trạm KN - KN Triệu
Phong đã xây dựng mô hình trồng rừng thâm canh Keo lá liềm trên vùng cát nội
đồng tại thôn Sinh Thái, xã Triệu Vân, huyện Triệu Phong với quy mô 5,0 ha.
Có thể thấy rằng sau gần 1,5 năm triển khai kết quả thu thập được qua đối chứng
với Keo tai tượng: về chiều cao phát triển bình quân 2,75 m, so với Keo tai
tượng 1,4 m và tỷ lệ sống trên 95%, so với cây Keo tai tượng 93%, sinh trưởng
về đường kính gốc của cây Keo lá liềm có đường kính gốc trung bình là 5,4 cm,
so với Keo tai tượng bình quân 3,82 cm, không có sâu bệnh [19].
Qua mô hình thử nghiệm có thể thấy Keo lá liềm có tiềm năng phát triển tốt
tại huyện Triệu Phong, là một xu hướng mới mang lại lợi ích kinh tế và môi
trường cho vùng đất cát nội đồng này.
Khảo nghiệm các xuất xứ Keo lá liềm tại Bầu Bàng (Bình Dương). Một bộ
các xuất xứ Keo lá liềm đã được trồng khảo nghiệm tại Bầu Bàng (Bình Dương)
từ tháng 4 năm 1991. Bầu Bàng là lập địa đất phù sa cổ ở vĩ độ 11
0
17', lượng
mưa hàng năm 1640 mm/năm, có số giờ nắng là 2650 giờ/năm, thường bị ngập
trong mùa mưa [4].
7
Bảng 2.2.&0123454367898%:;+::+<
+);+:::,
KTJ U"P V
<W
X Y X Y X.
W
Y
4
(%)
$
4
(%)
$
4
(%)
$
16602 Dimisisi PNG 21,4 17,4 19,7 11,0 390 1,6
16993 Deri-Deri PNG 21,4 16,5 19,6 9,8 389 1,6
17869 Morehead PNG 21,0 18,0 19,7 11,9 390 1,6
17552 Bensbach PNG 20,8 18,0 19,3 12,2 387 1,6
13682 Oriomo PNG 19,6 18,9 18,9 12,3 339 1,8
13680 Wemenever PNG 19,0 19,0 18,7 12,1 313 1,9
17561 Limal PNG 19,3 18,9 17,2 11,8 285 2,1
16598 Bimadebum PNG 19,2 18,9 17,6 12,0 292 2,0
17944 Claudie Qld 18,6 19,4 15,0 11,2 241 2,4
17849 Samlenberr Indo 17,6 19,2 18,0 12,0 256 2,3
16128 Jardine Qld
A. auri. ĐN VN
16,6
8,4
20,4
28,1
12,4
8,7
23,3
21,2
169
31
3,4
12,8
8
=>?& @& ABC)**D,-E.
Số liệu đo tháng 12 năm 1999 qua bảng 2.2 cho thấy sau 8,5 năm các xuất
xứ có triển vọng nhất ở Bầu Bàng là Dimisisi (PNG), Deri-Deri (PNG),
Morehead (PNG) và Bensbach (PNG). Những xuất xứ này có thể tích thân cây
387 - 390 dm
3
/cây. Trong đó các xuất xứ có sinh trưởng kém như Samlenberr
(Indonesia) và Jardine (Qld) chỉ có thể tích thân cây tương ứng là 256 dm
3
/cây
và 169 dm
3
/cây. Còn nòi địa phương Đồng Nai của Keo lá tràm chỉ có thể tích
thân cây 31 dm
3
/cây. Dimisisi (PNG) và Deri-Deri (PNG) cũng là những xuất xứ
có sinh trưởng tốt nhất của Keo lá liềm tại Ba Vì, còn Deri-Deri (PNG) là một
trong những xuất xứ có sinh trưởng tốt nhất tại Đông Hà. Chứng tỏ các xuất xứ
này là những xuất xứ có triển vọng ở các nơi khảo nghiệm tại nước ta.
Ngoài ra xuất xứ Dimisisi cũng là xuất xứ có sinh trưởng tốt nhất của Keo
lá liềm sau 3 năm khảo nghiệm tại Long Động thuộc tỉnh Quảng Châu, Trung
Quốc [4].
Theo tác giả Nguyễn Thị Liệu - Trung tâm Khoa học SX Bắc Trung Bộ:
“Qua điều tra tập đoàn cây trồng rừng chủ yếu trên đất cát nội đồng vùng duyên
hải Bắc Trung Bộ đã xác định Keo lá liềm là loài cây trồng có triển vọng nhất.
Keo lá liềm có khả năng thích nghi rộng nhất, tỷ lệ sống cao, sinh trưởng được
trên điều kiện đất cát nội đồng, cây thường đơn thân, xanh tốt. Những vùng đất
cát nội đồng úng ngập cần phải lên líp cao mới sinh trưởng tốt. Nếu không lên
líp thì sinh trưởng rất kém, lá vàng” [5].
Đầu những năm 1980 bốn loài keo vùng thấp là Keo lá tràm (
,, Keo tai tượng ( ), Keo lá liềm (
), và Keo nâu () đã được nhập trồng thử tại Ba
Vì (Hà Tây), Hóa Thượng (Thái Nguyên) và Trảng Bom (Đồng Nai). Đánh giá
sơ bộ năm 1991 đã thấy trong 4 loài keo được trồng thử năm 1982 tại Ba Vì và
năm 1984 tại Hóa Thượng thì ba loài Keo có sinh trưởng nhanh là Keo tai
tượng, Keo lá liềm và Keo lá tràm; trong đó Keo lá tràm là loài có sinh trưởng
nhanh trong năm đầu (Lê Đình Khả, Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1991) [4].
Trong các năm 1990 - 1991 thông qua các dự án UNDP một bộ giống 39
xuất xứ của 5 loài keo vùng thấp đã được khảo nghiệm nhằm tại Đá Chông
(huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây), Đông Hà (Quảng Trị) và Đại Lải (Vĩnh Phúc) [4].
9
Như vậy có thể thấy rằng, Keo lá liềm là loài cây mới được đưa vào trồng ở
nước ta vào đầu những năm 1980, là loài có sinh trưởng nhanh nhất trong các
loài keo ở vùng thấp, đặc biệt là có thể sinh trường tốt trên mọi lập địa từ feralit,
đất cát, phù sa.
2.2.2. Phát triển rừng phòng hộ ven biển ở tỉnh Thừa Thiên - Huế
Vùng cát ven biển ở tỉnh Thừa Thiên - Huế bao gồm các xã, thị trấn thuộc
5 huyện: Phong Ðiền, Quảng Ðiền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc, với chiều
dài gần 50 km, rộng hàng chục nghìn ha. Những vùng này nhiều năm qua có
điều kiện môi trường biến động khá mạnh. Trong đó, hiện tượng sạt lở bờ biển
và cát bay, cát nhảy, hoang mạc hóa là những mối đe dọa thường xuyên, làm
cho vùng đất nơi đây vốn đã khốn khó, lại càng khốn khó hơn. Theo Chi cục
Lâm nghiệp Thừa Thiên - Huế với dự án trồng rừng 661, các địa phương trong
vùng đã trồng và chăm sóc được gần 4.600 ha rừng, trong đó vùng cát ven biển
gần 1.900 ha và vùng cát nội đồng gần 2.740 ha; trồng bảo vệ đê cát ven biển và
ven phá 5.210 m; quản lý bảo vệ hơn 5.600 lượt/ha rừng. Chính vì vậy đã nâng
độ che phủ rừng của vùng dự án tăng lên 30%. Các địa phương còn trồng hơn
5.200 m cây dọc các tuyến đê ven biển để nâng cao giá trị phòng hộ. Kết quả
mang lại rất lớn, không những nâng cao chất lượng rừng trồng, mà còn làm đa
dạng hơn cơ cấu cây trồng, vừa có tác dụng phòng hộ, vừa tăng thu nhập cho hộ
dân. Diện tích đất trống, đồi núi trọc cơ bản đã được trồng rừng phủ xanh, rừng
phòng hộ ven biển, hình thành các đai rừng bảo vệ đê, phòng hộ khu dân cư ven
biển trước bão lũ và tình trạng nước biển dâng. Các dự án trồng rừng đã giải
quyết công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho 2.230 hộ gia đình và hơn 10
nghìn lao động. Bình quân mỗi năm trồng 450 ha, chủ yếu là Keo lá liềm, Keo lá
tràm, Phi lao. Theo kế hoạch thì trong giai đoạn từ nay đến năm 2015, tỉnh Thừa
Thiên - Huế tiếp tục quản lý, bảo vệ 12.000 ha rừng vùng cát ven biển hiện có;
đồng thời ưu tiên trồng mới khoảng 1.150 ha rừng vùng cát ven biển, với các
loại cây trồng như Phi lao, Keo chịu hạn, Keo lá liềm và cây ngập nước [22].
2.2.3. Ảnh hưởng của khâu làm đất tới sinh trưởng của các loài Keo
Theo Ochiai (chuyên gia lâm sinh của JICA), tại Trung Quốc, kích thước
hố ảnh hưởng rõ rệt tới sinh trưởng và tỷ lệ sống của Bạch đàn. Cụ thể, nếu hố
đào to thì tỷ lệ chết tăng lên và nguyên nhân là do mối ăn vì trong các hố đào to,
số lượng mối nhiều hơn so với hố đào bé [2].
Hiện nay, trước khi trồng rừng, đất có thể được chuẩn bị bằng nhiều
phương pháp và phương thức khác nhau tuỳ vào điều kiện cụ thể. Thường sau
10
khi xử lý thực bì, đất được đào hố để trồng cây theo kích thước và mật độ thiết
kế. Trong một số điều kiện nhất định, đất được xử lý bằng cách cày toàn diện
hoặc lên líp trước khi đào hố. Đã có một vài thí nghiệm nhằm nâng cao sản
lượng rừng trồng thông qua việc làm đất. Tại Quảng Trị, nơi thường hay bị ngập
lụt vào mùa mưa, thí nghiệm lên líp trồng được tiến hành đối với keo lá tràm
() và Keo lá liềm (). Kết quả cho thấy
sau 4,5 năm, đường kính và chiều cao của Keo lá liềm trồng trên líp tăng một
cách ý nghĩa so với không lên líp. Đường kính và chiều cao đạt tương ứng là 5
cm và 7,7 m, trong khi ở công thức đối chứng các chỉ tiêu này chỉ đạt 2,6 cm và
5,8 m. Đối với Keo lá tràm sự khác nhau rõ rệt chỉ xảy ra đối với đường kính.
Kích thước líp thích hợp cho keo lưỡi liềm là cao 0,2 m, rộng 4 m và cho Keo lá
tràm là 0,2 m chiều cao và 1,5 m chiều rộng (Nguyễn Thị Liệu, 2004). Năm
2001, thí nghiệm về làm đất được tiến hành với Keo lá tràm. Sau 4 năm, chiều
cao của cây trong thí nghiệm đối chứng (không cày) tốt hơn rõ rệt so với cây
trong công thức làm đất bằng cách cày toàn diện. Nguyên nhân có thể trong
công thức cày toàn diện đất bị rửa trôi và xói mòn (Phạm Thế Dũng, 2005). Sự
sai khác không có ý nghĩa được ghi nhận đối với tăng trưởng đường kính thân
cây và trữ lượng lâm phần. Hiện tại, hầu hết đất trồng rừng thường được xử lý
bằng cách đào hố sau khi xử lý thực bì. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của
kích thước hố tới sinh trưởng của Keo còn ít [2].
Trồng rừng thí nghiệm năm 2000, diện tích 5 ha được tiến hành tại Triệu
Trạch - Triệu Long - Quảng Trị. Rừng trồng được 1 tuổi [5].
Thử nghiệm các biện pháp làm đất (10 công thức):
- CT1: Đối chứng: Không lên líp.
- CT2: Lên líp đơn (trồng 1 hàng) rộng 1,5m, rãnh líp 1,5m, cao 0,2m.
- CT3: Lên líp đơn (trồng 1 hàng) rộng 1,5m, rãnh líp 1,5m, cao 0,4m.
- CT4: Lên líp đôi (trồng 2 hàng) rộng 4,0m, rãnh líp 2,0m, cao 0,2m.
- CT5: Lên líp đôi (trồng 2 hàng) rộng 4,0m, rãnh líp 2,0m, cao 0,4m.
- CT6: Lên líp bốn (trồng 4 hàng) rộng 10m, rãnh líp 2,0m, cao 0,2m.
Phần đối chứng Keo lá tràm:
- CT7: Không lên líp
- CT8: Lên líp đơn (trồng 1 hàng) rộng 1,5m, rãnh líp 1,5m, cao 0,2m.
- CT9: Lên líp đôi (trồng 2 hàng) rộng 4,0m, rãnh líp 2,0m, cao 0,2m.
11
- CT10: Lên líp bốn (trồng 4 hàng) rộng 10m, rãnh líp 2,0m, cao 0,2m.
Bảng 2.3.FGF7@G@7<@GA<H@I
C 07NZ V
'
X Y
#
X Y
1 CT7 Keo lá tràm không lên líp 0,73 47,75
2 CT10 Keo lá tràm líp bốn cao 0,2m 0,83 55,93
3 CT1 Keo lá liềm không lên líp 0,96 86,76
4 CT9 Keo lá tràm líp đôi cao 0,2m 1,02 67,51
5 CT8 Keo lá tràm líp đơn cao 0,2m 1,10 66,57
6 CT6 Keo lá liềm lên líp bốn cao 0,2m 1,38 88,86
7 CT4 Keo lá liềm lên líp đôi cao 0,2m 1,72 94,87
8 CT3 Keo lá liềm lên líp đơn cao 0,2m 1,86 101,29
9 CT2 Keo lá liềm lên líp đơn cao 0,4m 1,92 111,67
10 CT5 Keo lá liềm lên líp đôi cao 0,4m 2,10 102,90
=>=J@IAG)**+,-K.
Kết quả từ bảng 2.3 cho thấy:
Với Keo lá liềm lên líp đơn và líp đôi ở các độ cao đều cho kết quả tốt, tuy
nhiên các kết quả líp đơn và líp đôi cao 0,4 cho kết quả tốt hơn, nhưng không
thực sự sai khác với mức ý nghĩa 5%.
Lên líp bốn kết quả kém hơn các công thức lên líp khác, diện tích bề mặt
líp rộng, dễ bị cát bay, cát lấp nên dễ bị san phẳng líp và úng ngập trở lại.
Phần đối chứng không lên líp kém hơn và sinh trưởng chậm hơn.
Và Keo lá tràm cả 4 công thức đều cho kết quả kém, tỷ lệ chết cao, cây sinh
trưởng chậm, nhiều cành nhánh, nhiều thân.
2.2.4. Sinh khối, tỷ lệ sống
) ) E + &L0M$6NO
12
Các vật chất hữu cơ ở trên và dưới mặt đất và cả thực vật sống và thực vật
chết ví dụ như cây thân gỗ, cây hoa màu/lương thực, cây thân cỏ, thảm mục, rễ
cây, Sinh khối bao gồm cả các vật thể được xác định ở trên và dưới mặt đất.
Sinh khối trên mặt đất là sinh khối sống trên mặt đất bao gồm: thân cây,
gốc cây, cành nhánh, vỏ, hạt và lá.
Sinh khối dưới mặt đất là tất cả sinh khối sống của rễ. Những rễ cây có
đường kính nhỏ hơn 2 mm (được khuyến nghị) bỏ qua bởi vì chúng thường rất
khó để phân với vật chất hữu cơ trong đất hoặc vật rơi dụng khác.
Sinh khối rừng
Sinh khối được định nghĩa là tổng lượng vật chất hữu cơ sống trên mặt đất
trong rừng, được tính bằng tấn khô trên một đơn vị diện tích (rừng, ha, vùng,
hoặc quốc gia).
Khối lượng thể tích gỗ
Tỷ lệ giữa khối lượng khô tuyệt đối và thể tích thân gỗ tươi không vỏ. Nó
cho phép tính toán sinh khối gỗ theo khối lượng vật chất khô. Khối lượng thể
tích gỗ thông thường được tính bằng gam/cm
3
hoặc tấn/m
3
[3].
) ) E ) &L0M$6PGO
Tỷ lệ sống của rừng trồng còn là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh
giá sự thành công hay thất bại của công tác trồng rừng, đặc biệt là trồng rừng
trên vùng đất cát ven biển. Hiện nay số loài cây lâm nghiệp tồn tại được trên
vùng cát trắng ven biển còn rất ít, lý do chủ yếu do tính chất khắc nghiệt của đất
cát và khí hậu vùng cát làm cho cây trồng không thể chịu đựng nỗi.
2.2.5. Sơ lược về vùng cát nội đồng và ven biển
) ) K + 333QRQS
Đặc điểm chung của đất cát ven biển là được hình thành trên các cấu trúc
uốn nếp cổ của dải Trường Sơn có tuổi Palêzôi (pz). Trong đó cấu trúc địa chất
của vùng duyên hải miền Trung thường có hai tầng: Tầng dưới là nền móng cổ
sinh Palêôzôi, tầng trên là trầm tích trẻ với thành phần thạch học chủ yếu là cát
thô, cát nhỏ và cát mịn màu trắng tinh, trắng xám, trắng vàng… có chứa một số
quặng sa khoáng. Do tác động trực tiếp của chế độ gió mùa, đặc biệt là gió mùa
Đông (gió mùa Đông Bắc) đã hình thành trên những hệ thống đồi cát di động
với qui mô kích thước tuỳ thuộc vào đặc điểm địa lý tự nhiên tại chỗ, tích tụ dần
13
dần, dồn cao lên tạo thành những đồi - đụn cát và cũng dể dàng sụt mạnh xuống
phía sườn dốc, chuyển dịch dần vị trí từ bờ biển vào trong nội địa [8].
Đất cát nội đồng hay đồng bằng thềm biển là các trảng cát bằng phẳng
nằm sâu phía trong tiếp giáp với các khu dân cư, thường được bao bọc bởi
những cánh đồng, khu dân cư, các sông, suối. Cát ở đây không hình thành
những đụn cao mà trải rộng tương đối bằng phẳng với các trảng cỏ thứ sinh
phân bố gần các ao, hồ (trằm, bàu). Ngoài các trảng cỏ, vùng cát nội đồng còn
có các trảng cây bụi thứ sinh Đất cát nội đồng nghèo chất dinh dưỡng, kết cấu
rời rạc và thường có tầng Glây cứng phía dưới có nơi chỉ cách bề mặt đất chưa
đầy 1 mét, vì vậy mực nước ngầm thường nông vào mùa mưa, dễ gây ngập úng,
song vào mùa nắng nóng lại bị khô hạn nặng nên không thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp. Vùng cát nội đồng là "một vùng sinh thái đặc biệt, phần lớn có
điều kiện khắc nghiệt, nhiệt độ bình quân trong năm cao, úng lúc mưa và hạn lúc
nắng, độ phì đất hết sức thấp, thậm chí có nơi chỉ là một vùng đất cát trắng phau
không màu mỡ, không có thực bì, nhìn qua như một tiểu sa mạc" [5].
Đây là loại đất có diện tích rất lớn, vì vậy cần có biện pháp tổ chức sản xuất
trên loại đất này, tùy theo từng nơi để bổ trí các loại cây nông, lâm nghiệp thích
hợp. Trên cồn đụn cát cần trồng rừng để chống cát bay lấn chiếm ruộng đồng,
làng mạc. Đối với các dải cát bằng, mịn, mực nước ngầm cao thì có thể khai
thác sử dụng trồng các loại cây nông lâm kết hợp.
) ) K ) TUVG)$WQ53$VS$%Q53XQ>7GT
B6-D.
* Mô tả phẩu diện đất
Bảng 2.4. "YZGQ53$VS$%XQ>GTB6
[.*
\!7
R!]
4'4:
R!]
'4:
1#7
4'4:
167
'4:
Màu sắc
0-30cm Trắng bạc Xám nhạt Trắng bạc Trắng bạc
30-60cm Trắng xám Xám Trắng bạc Xám nhạt
60-100cm Trắng xám Xám đậm Nâu nhạt
Xám đen
nhạt
Độ sâu bắt đầu có nước
(cm)
110 115 70 75
Tỉ lệ đá (0-100cm) 3,6 1,2 2,7 0,8
14
(%)
Khối lượng tươi rễ cám/m
2
(kg)
8,3 0 6,2 0
=>=J[\A0L)*+],-D.
- Về màu sắc: Càng xuống sâu thì màu sắc càng đậm dần nhưng thay đổi
không đáng kể, từ trắng bạc đến trắng xám, xám nhạt ta có thể quan sát bằng
mắt thường.
- Độ sâu bắt đầu có nước: Ở ven biển độ sâu có nước cạn hơn ở nội đồng, chênh
lệch giữa hai đầu khoảng 40 - 45cm.
- Tỉ lệ đá: Ở nội đồng cao hơn ven biển, cụ thể là vùng nội đồng là từ 1,2 - 3,6%,
còn ở ven biển là từ 0,8-2,7%.
- Khối lượng rễ cám: Ở nội đồng rất nhiều 8,3kg rễ cám tươi trên 1 m
2
, ở ven biển
là 6,2 kg/1m
2
, điều này cho thấy ở vùng nội đồng rễ phát triển rất nhanh.
^Độ pH của đất
Bảng 2.5.?3I^2Q513QIQS$%QXUN3
Địa điểm Vị trí phẫu diện Độ sâu lấy mẫu (cm) pH
Nội đồng
Trong rừng
0-30 5,0
30-60 5,8
60-100 6,2
_ `8a
Ngoài rừng
0-30 5,2
30-60 5,8
60-100 6,6
_ `8b
Ven biển Trong rừng 0-30 4,6
30-60 5,4
60-100 6,4
15
_ `8`
Ngoài rừng
0-30 5,4
30-60 5,8
60-100 6,6
_ `8b
=>=J[\A0L)*+],-D.
- Độ pH của 2 vùng đất cát ven biển và đất cát nội đồng ở trong và ngoài
rừng không chênh lệch nhau lớn.
- Có thể thấy pH của cả khu vực biến động từ 4,6-6,6 tương đương với đất
chua nhiều đến chua ít. Việc trồng cây đã cải thiện pH của cây không nhiều.
* Hàm lượng mùn trong đất
Bảng 2.6.UF%0MW_,Q5
BL$I_,
Địa điểm Vị trí phẫu diện
Độ sâu lấy mẫu
(cm)
Hàm lượng mùn (%)
Nội đồng
Trong rừng
0-30 3,7
30-60 2,3
60-100 1,6
_ =8`
Ngoài rừng
0-30 1,7
30-60 1,1
60-100 0,8
_ 8=
Ven biển
Trong rừng
0-30 2,6
30-60 1,3
60-100 0,4
_ 8c
Ngoài rừng
0-30 1,1
30-60 0,7
60-100 0,3
_ d8a
16
=>=J[\A0L)*+],-D.
- Hàm lượng mùn (%): Nằm trong khoảng từ 0,3 - 3,7% tương đương nằm
trong khoảng từ đất nghèo mùn tới đất có mùn trung bình. Việc trồng cây đã nâng
hàm lượng mùn của đất lên đáng kể, ví dụ như ở vùng nội đồng là 1,3% và ở ven
biển là 0,7%.
- Từ bảng 2.6 có thể kết luận: Hàm lượng mùn trong đất của vùng cát nội
đồng ở trong và ngoài rừng đều cao hơn vùng ven biển.
Bảng 2.7.BX`GQO2Q5$VS$%XQ>
BL$I_,
Địa điểm Vị trí phẫu diện
Độ sâu lấy mẫu
(cm)
Độ ẩm tuyệt đối
(%)
Rừng Keo lá
liềm ở nội
đồng
Trong rừng
0-30 5,1
30-60 9,3
60-100 14,7
Trung bình 9,7
Ngoài đất trống
0-40 4,9
40-80 8,5
80-120 12,8
Trung bình 8,7
Rừng Keo lá
liềm ở ven
biển
Trong rừng
0-30 7,3
30-60 13,5
60-100 17,4
Trung bình 12.7
Ngoài đất trống
0-30 6,7
30-60 12,6
60-100 16,2
Trung bình 11,8
=>=J[\A0L)*+],-D.
-Độ ẩm của đất cát dao động từ 4,9 - 17,4%, có sự thay đổi theo chiều tăng
lên. Cụ thể là ở vùng cát ven biển tăng lên 1%, vùng cát ven biển là 0,9%. Như
vậy, việc trồng Keo lá liềm đã làm tăng độ ẩm của đất.
- Theo bảng 2.7 cho thấy, độ ẩm tuyệt đối của vùng cát ven biển ở trong và
ngoài rừng đều cao hơn vùng cát nội đồng.
17
W
QeCEFA8fEgh?8iEVA?j
gk?D?EFCGA
W<<Ql#ZJ #
3.1.1. Mục tiêu nghiên cứu
] + + + "a
-Xác định được phương pháp làm đất và tuổi cây con thích hợp cho loài
Keo lá liềm từ đó góp phần làm cơ sở bổ sung cho việc xây dựng bảng hướng
dẫn kỹ thuật trồng rừng Keo lá liềm trên vùng cát ven biển huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
] + + ) "aaS
-Nghiên cứu ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến tỷ lệ sống và tạo
sinh khối loài Keo lá liềm từ đó xác định phương thức làm đất thích hợp trên
vùng cát.
18
-Xác định được tuổi cây con thích hợp với tỷ lệ sống và sinh khối cao nhất
nhằm góp phần phục vụ cho công tác lựa chọn tiêu chuẩn cây con khi xuất
vườn.
- Chọn được 4 dòng có tỷ lệ sống và sinh khối cao nhất để có thể nhân
giống đại trà.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài thực hiện tại 2 xã: Điền Môn và Phong Hòa huyện Phong Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế. Thời gian nghiên cứu từ ngày 9/1/2014 đến ngày 24/06/2014.
W<=<,O
Đề tài tập trung nghiên cứu về loài Keo lá liềm (tên gọi khác là Keo lưỡi
liềm vì lá có hình lưỡi liềm), kỹ thuật làm đất và tuổi cây con.
Tên khoa học: hay / (A.Cunn.
ex Benth.)
Họ trinh nữ (",.
Bộ đậu (bV,.
Lớp hoa hồng (/,
Ngành hạt kín (,
W<W<R.
3.3.1. Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội địa phương
3.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của kỹ thuật làm đất đến tỷ lệ sống và sinh khối
của một số dòng Keo lá liềm
- Ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến tỷ lệ sống và sinh khối của
một số dòng Keo lá liềm ở vùng cát nội đồng.
- Ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến tỷ lệ sống và sinh khối của
một số dòng Keo lá liềm ở vùng cát ven biển.
3.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi cây con đến tỷ lệ sống và sinh khối của
Keo lá liềm
- Ảnh hưởng của tuổi cây con đến tỷ lệ sống của Keo lá liềm.
- Ảnh hưởng của tuổi cây con đến khả năng tạo sinh khối của Keo lá liềm.
W<c<SZ-Z
19
3.4.1. Thu thập số liệu thứ cấp
- Thông qua niên giám thống kê hàng năm của khu vực về điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội.
- Thông qua các tài liệu có sẵn, số liệu từ các đơn vị thiết kế trồng rừng,
các chương trình, dự án đã và đang thực hiện, các số liệu của Sở, Ban, Ngành có
liên quan…
- Thông qua điều tra, thu thập số liệu từ hạt Kiểm lâm, Phòng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
3.4.2. Điều tra số liệu sơ cấp
* Tiến hành thí nghiệm ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến tỷ lệ
sống của một số dòng Keo lá liềm ở vùng cát nội đồng như sau:
Có 4 công thức làm đất được bố trí trên 10 dòng Keo lá liềm khác nhau
Công thức 1: Cuốc hố
Công thức 2: Lên líp đơn rộng 1,5m, cao 0,5m trồng 1 hàng
Công thức 3: Cày đất + cuốc hố
Công thức 4: Lên líp đôi rộng 3,5m, cao 0,5m trồng 2 hàng
Sơ đồ bố trí thí nghiệm như sau:
Bảng 3.1.&LQ>VOFFG0120L%Q5Q
PGO2XOc36
V/ 1 2 3 4 5
C 2 4 3 1 4 2 1 3 1 2 4 3 4 1 2 3 1 2 3 4
6 7 8 9 10
3 4 2 1 2 4 1 3 1 3 4 2 4 1 2 3 1 4 3 2
20
Tiến hành đo đếm số lượng cây sống, cây chết của các dòng Keo lá liềm
sau 15 tháng trồng.
Bảng 3.2.8ZQQPGO2+*c+D3d
V/ C%&+, C%&( $ )*+,XmY
1
2
4
5
6
7
8
9
10
Tổng
Bảng 3.3. 8ZPGO2+*c36$eEY
%Q51$W3XQ>
21
CT C%&
+,
C%&
(
$ )*+,XmY
Cuốc hố
Lên líp đơn (1,5m) trồng 1 hàng
Cày đất + cuốc hố
Lên líp đôi (3,5m) trồng 2 hàng
Tổng
* Ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến tỷ lệ sống của một số dòng
Keo lá liềm ở vùng cát ven biển.
- Tiến hành đo đếm số lượng cây sống, cây chết của 10 dòng Keo lá liềm ở
vùng cát ven biển.
- Tiến hành thống kê tỷ lệ sống của 10 dòng Keo lá liềm với 3 công thức
làm đất.
Bảng 3.4. 8ZPGO2+*c36$e]Y%Q5
1$W3$VS
CT C%&+, C%&( $
)*+,
XmY
Không làm đất, cuốc hố
Cày đất, cuốc hố
Lên líp, cuốc hố
Tổng
* Ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến sinh khối của một số dòng
Keo lá liềm ở vùng cát nội đồng và ven biển
22
- Sau khi lấy cây, tiến hành cân tươi cây gồm rễ, thân, cành và lá, nốt sần
để xác định sinh khối tươi của cây trong các dòng Keo lá liềm.
- Tiến hành sấy cây ở nhiệt độ 105
0
C với thời gian 2 giờ.
- Sau khi sấy tiến hành cân sinh khối khô của rễ, thân, cành và lá, nốt sần.
* Ảnh hưởng của tuổi cây đến tỷ lệ sống của Keo lá liềm
Tiến hành lập 3 ô tiêu chuẩn tương ứng với 3 tuổi cây, mỗi ô 500 m
2
sau đó
đo đếm thống kê số cây sống, cây chết trong mỗi ô sau 16 tháng trồng.
Bảng 3.5.8Z43QIPGO2U3dU
H 4J
%&
$%&
C%&+, C%&( $
) * +,
XmY
4 tháng
6 tháng
8 tháng
Tổng
* Nghiên cứu ảnh hưởng của tuổi cây con đến sinh khối của Keo lá liềm.
Đo sinh khối tươi và khô toàn thân Keo lá liềm với tuổi cây con: 4 tháng, 6
tháng, 8 tháng.
Bảng 3.6.8ZQNO2UdU
$
%&
Kn\Z
c- o- p-
4
6H
1
2
3
Trung bình
3.4.3. Phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel 5.0 để xử lý số liệu.
23
* Để đánh giá ảnh hưởng của kỹ thuật làm đất đến tỷ lệ sống Keo lá liềm
vùng cát ven biển và nội đồng, cũng như ảnh hưởng của tuổi cây con đến tỷ lệ
sống ta dùng tiêu chuẩn khi bình phương
2
χ
.
Giả thuyết H
0
: Các mẫu về chất thuần nhất.
Giả thuyết H
0
được kiểm tra bằng tiêu chuẩn phù hợp
−
×
=
∑
1*
2
2
@V@
@&
χ
2
là giá trị bình phương của các số hạng từ cấp i đến j
=
@&
@@
V
×
Nếu
2
χ
≤
2
05
χ
tra bảng với k= (a-1)(b-1) bậc tự do thì giả thuyết H
0
được
tạm thời chấp nhận.
Ngược lại nếu
2
χ
2
05
χ
tra bảng với k= (a-1)(b-1) bậc tự do thì giả thuyết
H
0
bị bác bỏ, các mẫu về chất là không thuần nhất với nhau.
Bảng 3.7. &f43N
Công
thức
Cấp
1 2 j b
∑
1
2
i
f
11
f
12
f
1j
f
1b
f
21
f
12
f
2j
f
2b
f
21
f
12
f
2j
f
2b
Ta
1
Ta
2
Ta
i
24
A
f
a1
f
a2
f
aj
f
ab
Ta
a
∑
Tb
1
Tb
2
Tb
j
Tb
b
TS
Trong đó: f
ij
là tần số quan sát của mẫu i cấp chất lượng j.
Ta
j
là tổng tần số quan sát của mẫu thứ i.
Tb
j
là tổng tần số quan sát của cấp chất lượng j.
TS là tổng tần số quan sát của toàn thí nghiệm.
∑∑∑∑
= ===
===
V
V
@V@@&
1 111
* Để đánh giá ảnh hưởng của các phương thức làm đất đến sinh khối Keo
lá liềm ở vùng cát nội đồng, vùng đất ven biển
- Sau khi đo sinh khối tươi và khô toàn thân Keo lá liềm với các phương
thức làm đất.
- Tiến hành xử lý số liệu bằng phân tích phương sai hai nhân tố 1 lần lặp và
thông qua tiêu chuẩn t (Student) để tìm dòng tốt nhất.
Bảng 3.8.AgVF
B
A
C"Z%,_ Si (A) Xi (A)
1 2 3 4 5 6
C"Z%
,B
1 X
11
… … … … X
1b
2 … … … … … …
3 X
1a
… … … … X
ab
Sj (B) S
Xj (B) S
Trong đó: A là các dòng Keo lá liềm
25