Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Nghiên cứu hội chứng lở loét trên cá chẽm (lates calcarifer) nuôi tại thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Thủy Sản
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Nghiên cứu hội chứng lở loét trên cá Chẽm (Lates
calcarifer) nuôi tại Thừa Thiên Huế
Sinh viên thực hiện: Hoàng Văn Ngọc
Lớp: Nuôi trồng thủy sản 44
Giáo viên hướng dẫn: TS. Tôn Thất Chất
Thời gian: 02/01/2014-06/05/2014
Địa điểm: Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh
Huế 2, xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
Bộ môn: Nuôi trồng thủy sản
Huế, tháng 5 năm 2014

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài
“Ảnh hưởng của các loại thức ăn đến sinh trưởng va
phát triển của tôm Chân trắng (Litopenaeus
vannamei)” nuôi tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên Huế” tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình,
sự đóng góp ý kiến quý báu của nhiều cá nhân và
tập thể.
Trước hết tôi xin chân thành gửi lời cám ơn
đến quý thầy cô giáo khoa Thủy sản cùng toàn
thểthầy cô giáo trường Đại học Nông Lâm Huế đã
trang bị cho tôi nhiều kiến thức bổ ích và quý giá
trong suốt thời gian học tập tại trường.
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành đến
thầy giáo hướng dẫnTiến sĩ Tôn Thất Chất đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ cho tôi trong suốt quá


trình tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Xin gửi lời cám ơn chân thành đến ban Giám đốc
công ty C.P Việt Nam chi nhánh Huế 2, Giám đốc
Farm Điền Môn, đặc biệt xin gửi lời cám ơn đến anh
Trần Văn Đẹp - kỹ sư trưởng, anh Nguyễn Anh Lâmky
sư khu C cùng các anh em công nhân trong công ty
đã giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè
đã động viên quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cám ơn!
Huế, tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Hoàng Văn Ngọc
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1. Dấu hiệu bệnh lí của hội chứng ở loét trên cá Chẽm 28
Bảng 4.2. Kết quả quan sát khuẩn lạc 30
Bảng 4.3. Danh sách tiêu bản 30
Bảng 4.4. Kết quả test sinh hóa trên các chủng vi khuẩn phân lập được 31

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỀU ĐỒ
HÌNH
Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Thừa Thiên Huế 2
Hình 2.2. Phân bố của giống cá chẽm trên thế giới 4
Hình 2.3. Cá Chẽm 5
Sơ đồ 2.1. Vòng đời cá chẽm 8
Sơ đồ 3.1. Nghiên cứu KST 17
Sơ đồ 3.2. Nghiên cứu vi khuẩn 18
Sơ đồ 3.3. Quy trình nhuộm Gram 20

Hình 3.1. Phản ứng test sinh hóa 20
Hình 3.2.Kháng sinh Oxy-tetracyline 23
Sơ đồ 3.4. Nghiên cứu bệnh nấm
23
Biểu đồ 4.1. Năm xuất hiện và tần xuất xuất hiện bệnh lở loét 25
tại Thừa Thiên Huế 25
Biểu đồ 4.2. Thời điểm xuất hiện hội chứng lở loét qua các tháng 26
Hình 4.1 : Cá Chẽm bị bệnh lở loét 27
Hình 4.2 : Nội quan cá bị xuất huyết 28
Hình 4.3. Kí sinh trùng trên cá Chẽm 29
Hình 4.4. Khuẩn lạc của cá Chẽm 6 tuần tuổi ở Hương Trà 29
Hình 4.5. Khuẩn lạc của cá Chẽm 8 tuần tuổi tại Thuận An 30
Hình 4.6. Vi khuẩn chủng 1 Hình 4.7. Vi khuẩn chủng 2 31
Hình 4.8. Thử nghiệm kháng sinh với VK1 32
Hình 4.9. Nuôi cấy nấm trong môi trường PYGA 33
Hình 4.10. Nấm nhìn qua kính hiển vi vật kính 40 33
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Vòng đời cá chẽm Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.1. Nghiên cứu KST Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.4. Nghiên cứu bệnh nấm Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.3. Quy trình nhuộm Gram Error: Reference source not found
Sơ đồ 3.2. Nghiên cứu vi khuẩn Error: Reference source not found
BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Năm xuất hiện và tần xuất xuất hiện bệnh lở loét Error: Reference
source not found
Biểu đồ 4.2. Thời điểm xuất hiện hội chứng lở loét qua các tháng Error:
Reference source not found
tại Thừa Thiên Huế Error: Reference source not found
MỤC LỤC
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Ảnh hưởng của các loại thức ăn

đến sinh trưởng và phát triển của tôm Chân trắng (Litopenaeus vannamei)” nuôi
tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế” tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình, sự đóng góp ý kiến quý báu của nhiều cá nhân và tập thể 3
Trước hết tôi xin chân thành gửi lời cám ơn đến quý thầy cô giáo khoa Thủy sản
cùng toàn thểthầy cô giáo trường Đại học Nông Lâm Huế đã trang bị cho tôi
nhiều kiến thức bổ ích và quý giá trong suốt thời gian học tập tại trường 3
Xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành đến thầy giáo hướng dẫnTiến sĩ Tôn
Thất Chất đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình tôi hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp 3
Xin gửi lời cám ơn chân thành đến ban Giám đốc công ty C.P Việt Nam chi
nhánh Huế 2, Giám đốc Farm Điền Môn, đặc biệt xin gửi lời cám ơn đến anh
Trần Văn Đẹp - kỹ sư trưởng, anh Nguyễn Anh Lâmkỹ sư khu C cùng các anh
em công nhân trong công ty đã giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp 3
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên quan tâm, giúp đỡ tôi
trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp 3
Xin chân thành cám ơn! 3
Huế, tháng 05 năm 2014 4
Sinh viên 4
Hoàng Văn Ngọc 4
MỤC LỤC 8
PHẦN 2 : TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG , NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
PHẦN 5 : KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 34
PHẦN 6 : TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
Ngành Nuôi trồng thủy sản của Việt Nam ngày càng phát triển, trở thành
1 trong những nghành kinh tế mũi nhọn của quốc gia, không chỉ mang lại nguồn
thu nhập đáng kể từ nước ngoài mà còn góp phần to lớn vào việc xóa đói giảm
nghèo, đảm bào an ninh lương thực, làm thay đổi đời sống dân cư của các vùng

miền ven biển.
Thừa Thiên Huế có tiềm năng lớn về nuôi trồng thủy sản, được thiên
nhiên ưu đãi với hệ thống đầm phá Tam Giang – Cầu Hai 22 ngàn ha và đường
bờ biển dài hơn 70km rất thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản đặc
biệt là tôm, cá.
Cá Chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1970) đang được coi là 1 đối tượng
nuôi vô cùng hiệu quả để thay thế các vùng nuôi tôm đang bị chết, kém hiệu
quả. Tuy nhiên vài năm trở lại đây do diện tích nuôi trông ngày càng gia tăng thì
tình hình dich bệnh cũng bùng phát nhanh chóng gây ra chết hàng loạt vào các
năm 2012, 2013.
Bên cạnh nhưng bệnh thường gặp do nấm, kí sinh trùng, vi khuẩn gây ra
thì thời gian gần đây người dân phải đối mặt với 1 bệnh khá nguy hiểm gây ra
thiệt hại lớn về kinh tế đó là hội chứng lở loét. Căn bệnh này ngày càng phổ biến
trong khi đó người dân vẫn chưa có các thông tin cần thiết để phòng và trị bệnh.
Từ thực tế trên, được sự đồng ý của nhà trường, khoa thủy sản và giáo
viên hướng dẫn, tôi tiến hành thực hiện để tài "Nghiên cứu hội chứng lở loét
trên cá Chẽm (Lates calcarifer) nuôi tại Thừa Thiên Huế" với mục tiêu :
1) Xác định đươc một số tác nhân (vi khuẩn, nấm, kí sinh trùng) và nguyên
nhân gây hội chứng lở loét trên cá Chẽm.
2) Bước đầu xây dựng phác đồ phòng và trị bệnh lở loét trên cá Chẽm
nhằm giảm thiểu tác hại đối với người nuôi cá tại tình Thừa Thiên Huế.
3) Bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học và nâng cao kiến
thức thực tế.
1
PHẦN 2 : TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
2.1.1. Vị trí địa lý
Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở duyên hải miền trung Việt Nam bao gồm
phần đất liền và phần lãnh hải thuộc thềm lục địa biển Đông. Phần đất liền Thừa
Thiên Huế có tọa độ địa lý như sau:

- Điểm cực Bắc: 16044'30'' vĩ Bắc và 107023'48'' kinh Đông tại thôn Giáp
Tây, xã Điền Hương, huyện Phong Điền.
- Điểm cực Nam: 15059'30'' vĩ Bắc và 107041'52'' kinh Đông ở đỉnh núi
cực nam, xã Thượng Nhật, huyện Nam Đông.
- Điểm cực Tây: 16022'45'' vĩ Bắc và 107000'56'' kinh Đông tại bản Paré,
xã Hồng Thủy, huyện A Lưới.
- Điểm cực Đông: 16013'18'' vĩ Bắc và 108012'57'' kinh Đông tại bờ phía
Đông đảo Sơn Chà, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc.
Hình 2.1. Bản đồ hành chính tỉnh Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế có ranh giới chung đất liền với tỉnh Quảng Trị, Quảng
Nam, thành phố Đà Nẵng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (có 81 km biên
giới Lào) và giáp biển Đông.
• Phía Bắc, từ Đông sang Tây, Thừa Thiên Huế trên đường biên dài
111,671 km tiếp giáp với các huyện Hải Lăng, Đakrông, tỉnh Quảng Trị.
• Từ mặt Nam, tỉnh có biên giới chung với huyện Hiên, tỉnh Quảng Nam
dài 56,66 km, với huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng dài 55,82 km.
2
• Ở phía Tây, ranh giới tỉnh (cũng là biên giới quốc gia) kéo dài từ điểm
phía Bắc (ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế với tỉnh Quảng Trị và nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào) đến điểm phía Nam (ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế với
tỉnh Quảng Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào) dài 87,97 km.
• Phía Đông, tiếp giáp với biển Đông theo đường bờ biển dài 120 km.
• Phần đất liền, Thừa Thiên Huế có diện tích 503.320,52ha (theo niên
giám thống kê năm 2010), kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, nơi dài
nhất 120 km (dọc bờ biển), nơi ngắn nhất 44 km (phần phía Tây); mở rộng chiều
ngang theo hướng Đông Bắc - Tây Nam với nơi rộng nhất dọc tuyến cắt từ xã
Quảng Công (Quảng Điền), thị trấn Tứ Hạ (Hương Trà) đến xã Sơn Thủy - Ba
Lé (A Lưới) 65 km và nơi hẹp nhất là khối đất cực Nam chỉ khoảng 2–3 km.
• Vùng nội thủy: rộng 12 hải lý
• Vùng đặc quyền kinh tế mở rộng đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.

• Trên thềm lục địa biển Đông ở về phía Đông Bắc cách mũi cửa Khém nơi
gần nhất khoảng 600m có đảo Sơn Chà. Tuy diện tích đảo không lớn (khoảng
160ha), nhưng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh
quốc phòng đối với nước ta nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
• Thừa Thiên Huế nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc-Nam,
trục hành lang Đông - Tây nối Thái Lan - Lào - Việt Nam theo đường 9. Thừa
Thiên Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn của hai vùng kinh tế phát triển nhất
nước ta. Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 660 km, cách thành phố Hồ Chí Minh
1.080 km.
• Bờ biển của tỉnh dài 120 km, có cảng Thuận An và vịnh Chân Mây với
độ sâu 18 - 20m đủ điều kiện xây dựng cảng nước sâu với công suất lớn, có cảng
hàng không Phú Bài nằm trên đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy
dọc theo tỉnh. (theo niên giám thống kê năm 2012)
2.1.2. Khí hậu, thời tiết.
Thừa Thiên - Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chất
chuyển tiếp từ á xích đới lên nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu
chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta. Thời tiết chia thành hai mùa
rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 11 với lượng mưa trung bình từ
2.500 – 2.700 mm. Mùa khô kéo dài từ tháng 3 đến tháng 7, mưa ít, lượng nước
bốc hơi lớn, thường có mưa giông. Nhiệt độ trung bình hàng năm tại Huế là
3
24
0
C. Số giờ nắng trung bình 2.000 giờ/năm. Độ ẩm trung bình 84%. Số lượng
bão khá nhiều, thường bắt đầu vào tháng 6, nhiều nhất là vào tháng 9, 10
(Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư, 2012).
2.1.3 Đặc điểm địa hình.
Địa hình Thừa Thiên Huế có cấu tạo dạng bậc khá rõ rệt.
Địa hình núi chiếm khoảng 1/4 diện tích, từ biên giới Việt - Lào và kéo

dài đến thành phố Đà Nẵng.
Địa hình trung du chiếm khoảng 1/2 diện tích, độ cao phần lớn dưới 500
m, có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng, sườn thoải và phần lớn là đồi bát úp, với
chiều rộng vài trăm mét.
Đồng bằng Thừa Thiên Huế điển hình cho kiểu đồng bằng mài mòn, tích
tụ, có cồn cát, đầm phá. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 1.400
km
2
. Tổng diện tích đất các loại cây trồng: 90.974 ha, trong đó diện tích cây
hàng năm là: 76.995 ha; diện tích cây lâu năm: 13.979 ha (số liệu năm 2008).
2.2. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ CHẼM (Lates calcarifer)
2.2.1. Phân loại
Nhiều nhà ngư loại khác đã phân loại và gọi đối tượng này với nhiều tên
gọi khác nhau. Cá chẽm được xếp vào bộ Perciformes, bộ phụ Percoidei nhưng
các tác giả khác nhau lại xếp chúng vào các họ khác nhau. Ví dụ Day (1878) xếp
cá chẽm vào họ Percinae; Fowler (1982), thì xếp vào họ Latinnea; Katayama
(1956) xếp vào Centropomidae. Theo Greewood (1976) đã chỉ ra cụ thể giống
Lates này có 8 loài trong đó Lates calcarifer phân bố ở Tây Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương, còn 7 loài khác phân bố ở Châu Phi .
Hình 2.2. Phân bố của giống cá chẽm trên thế giới
4
Theo Nguyễn Nhật Thi (1991) ở Việt Nam có duy nhất một loài trong họ
cá chẽm đó là Lates calcarifer (Bloch, 1790) và được xếp vào họ
Centropomidae (họ cá sơn biển). Tên thường gọi là cá chẽm hay cá vược.
Hình 2.3. Cá Chẽm
Năm 1974, FAO công nhận vị trí phân loại cá chẽm như sau:
Ngành: Vetebrata
Lớp: Osteichthyes
phụ: Teleostomi
Bộ: Perciformes

Bộ phụ: Percoidae
Họ: Centropomidae
Giống: Lates
Loài: Lates calcarifer Bloch, 1790
Cách phân loại này được hệ thống phân loại chấp nhận. Trong thời gian
qua cá chẽm được xếp vào vài họ khác nhau tùy theo tác giả (Ví dụ: họ
Serrnidae và Latidae). Tuy nhiên họ Centropomidae là họ được chấp nhận rộng
rãi đối với loài này, và có tên giống là Lates.
Các quốc gia khác nhau thậm chí trong cùng một quốc gia nhưng giữa các
vùng khác nhau thi tên gọi của loài Lates calcarifer cũng không giống nhau.
5
2.2.2. Đặc điểm sinh trưởng
Sinh trưởng của cá chẽm có dạng đường cong sigma. Trong đó cá tăng
trưởng chậm ở giai đoạn đầu nhưng tăng trưởng nhanh khi cá đạt kích cỡ 20 –
30 gam và giảm dần khi cá đạt khối lượng khoảng 4 kg (Kungvankij, 1986). Môi
trường sống khác nhau cũng ảnh hưởng tới tốc độ sinh trưởng của cá. Cá sống
trong môi trường nước ngọt có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn trong môi trường
nước mặn (Wantanabe et al. 1984). Cá chẽm có chiều dài và khối lượng tối đa là
2m và 50 kg (Bahanal & Soseanto, 1982).
2.2.3. Đặc điểm dinh dưỡng
Cá chẽm là loài cá dữ điển hình. Khi cá còn nhỏ chúng có thể ăn các loài
phiêu sinh vật (Chiếm 20%) mà chủ yếu là tảo khuê, nhưng thức ăn chính của
chúng vẫn là cá, tôm nhỏ (Chiếm 80%). Phổ thức ăn của cá chẽm rộng, nhưng
khả năng sử dụng thức ăn của chúng thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau của
cơ thể. Theo David (1986), cá có kích thước 10 – 20 mm đã bắt đầu ăn các loài
cá nhỏ với tỷ lệ 0,8% trong khẩu phần ăn và tăng dần đến 87% khi cá đạt 1m.
Theo Chacko, 1958 thức ăn chủ yếu của cá chẽm là các loài cá đối, cá
măng… và bọn giáp xác như: Cua, tôm, ngoài ra chúng còn ăn các động vật thân
mềm hai mảnh vỏ như: Sò, vẹm, ngao… Tame & Marichamys (1986) cho rằng:
Ấu trùng cá chẽm ăn sinh vật phù du rồi chuyển sang ăn ấu trùng côn trùng. Ở

giai đoạn cá bột cá ăn các loài động vật nổi như: Copepoda, ấu trùng nhuyễn
thể… Khi cá đạt cỡ 5 – 15 cm thì thức ăn chủ yếu của chúng là tôm và cá. Giai
đoạn này cá thể hiện tính ăn lẫn nhau. Kết qủa này cũng phù hợp với nghiên cứu
của Jena & Patnaik (1976), Russell & Greett (1985). Cá chẽm có tập tính ăn săn
mồi, cá con 10 – 40 mm có thể sử dụng thức ăn bất kỳ lúc nào trong ngày nhưng
mạnh nhất vào lúc xế chiều (Barlow et al. 1995).
Lương Công Trung (1999), nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá chẽm từ cá
bố mẹ được bắt ngoài tự nhiên và thấy rằng. Cá chẽm bắt mồi mạnh vào lúc trời
tối từ 17h trở đi. Cá bắt mồi ngay khi cho ăn thức ăn xuống và ăn rất nhanh (80
– 100%). Cá mới được thuần dưỡng chưa quen với môi trường mới chúng
thường tránh xa khi có tiếng động hoặc bóng người.
Cá chẽm sẽ ăn thịt đồng loại đối với những con cá có chiều dài lên đến
xấp xỉ 67% chiều dài của con cá lớn. Tính ăn thịt đồng loại chủ yếu ở những con
cá có chiều dài nhỏ hơn 15 cm. Những con cá có chiều dài nhỏ hơn 16 mm rất
khó khăn trong viêc tập cho chúng ăn thức ăn chế biến.
2.2.4. Đặc điểm sinh sản
6
Mùa vụ: Cá chẽm đẻ quanh năm (Kungvankij, 1984). Mà thời điểm chính vụ
từ tháng 4 đến tháng 8. Cá con cỡ 1 cm có thể thu được nhiều từ tháng 5 đến tháng
8 (Bhatia & Kungvankij, 1971). Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến mùa vụ sinh
sản của cá chẽm trong đó có sự tác động của thời tiết, khí hậu là rất lớn.
Phân biệt giới tính: Thông thường rất khó phân biệt giới tính của loài cá
này nếu chỉ dựa vào hình dạng bên ngoài, ngoại trừ vào mùa sinh sản. Trong
mùa sinh sản để phân biệt giới tính của cá có thể dựa vào một số đặc điểm sau:
Cá đực có mõm hơi cong, trong khi đó con cái thì mõm thẳng. Cá đực có
thân thon dài hơn cá cái (Cùng tuổi), còn cá cái kích cỡ lớn hơn so với cá đực.
Đến vụ sinh sản, những vẩy gần lỗ huyệt của cá đực sẽ dày lên, còn những con
cá cái bụng to hơn cá đực.
Chuyển đổi giới tính: Đặc điểm nổi bật trong sinh sản của cá chẽm là có
sự thay đổi giới tính từ cá đực thành cá cái sau khi tham gia sinh sản một vài lần.

Đặc tính này không hoàn toàn là tuyệt đối, có những con cá đực không chuyển
thành cá cái trong suốt cuộc đời (Moore, 1979). Hiện nay vẫn chưa có những
giải thích rõ ràng về hiện tượng này. Những con cá cái được chuyển đổi giới
tính từ con cá đực được gọi là con cái thứ cấp, còn cá cái phát triển trực tiếp từ
trứng được gọi là cá cái sơ cấp.
Sức sinh sản: Sức sinh sản của cá chẽm có liên quan tới kích thước và
khối lượng cơ thể cá. Các quan sát của Vụ nông nghiệp Australia (Annon, 1975)
cho thấy cá 12 kg cho 7,5 triệu trứng, cá 19,5 kg cho 8,5 triệu trứng, và cá 22 kg
cho 17 triệu trứng.
Tập tính sinh sản: Dựa trên những nghiên cứu về tập tính sinh sản của cá
trong bể cho thấy, cá đực và cá cái thành thục sẽ tách đàn và ngừng ăn một tuần
trước khi đẻ. Khi cá cái thành thục sinh dục tốt nó gia tăng các hoạt động sinh
dục với cá đực. Cá đực và cá cái thành thục chín mùi sinh dục, sẽ bơi lội thành
từng cặp thường xuyên ở tầng mặt khi sắp đẻ trứng. Cá đẻ thành nhiều lần trong
khoảng 7 ngày thời gian đẻ trứng vào lúc chiều tối (khoảng từ 18h đến 22h).
2.2.5. Vòng đời cá chẽm
Cá chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2 – 3 năm) trong các
thuỷ vực nước ngọt như: Sông, hồ nối liền với biển. Cá có tốc độ sinh trưởng
nhanh thường đạt cỡ 3 – 5 kg, sau 2 – 3 năm. Cá trưởng thành 3 – 4 tuổi di cư từ
vùng nước ngọt về vùng cửa sông và ra biển nơi có độ mặn 30 – 32 ppt để phát
triển tuyến sinh dục và đẻ trứng sau đó.
Vòng đời của cá chẽm ở phía bắc Australia cũng được nhiều tác giả
nghiên cứu như Moore (1978, 1980, 1982); Moore & Reynolds (1982); Russell
7
& Grrett (1983, 1985); Griffin (1985, 1986); Davis (1982, 1985) đều có nhận
định vòng đời của cá chẽm ở phía bắc Australia giống với vòng đời của cá chẽm
ở Thái Lan và đưa ra sơ đồ vòng đời của cá chẽm.
Bãi đẻ(S
o
/

oo
=30-32)
Sơ đồ 2.1. Vòng đời cá chẽm
Smith (1965) ghi rằng, một số con cá có vòng đời trong nước ngọt nơi chúng
lớn lên cỡ 65 cm và khối lượng đạt 19,5 kg. Tuyến sinh dục của những con cá đó
thì không phát triển. Trong môi trường nước lợ, cá chẽm đạt 1,7 m được tìm thấy ở
vùng Indonesia. Hiện nay điều chưa biết là cá trưởng thành có di cư ngược dòng
không hay chúng giữ giai đoạn còn lại của chúng với đời sống ở biển.
2.3. TỔNG QUAN VỀ BỆNH CÁ CHẼM TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.3.1. Trên thế giới
Cá chẽm (Lates calcarifer, Bloch) là một trong những đối tượng nuôi rất
phổ biến, tốc độ sinh trưởng nhanh và có giá trị kinh tế cao. Nghề nuôi cá chẽm
được hình thành từ thập kỷ 70 ở Thái Lan và được nhân rộng ra các nước Châu
Á như Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia, Indonesia và Việt Nam.
Hiện nay cá chẽm đang được nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Theo
thống kê của FAO (2006) tổng sản lượng cá chẽm nuôi của thế giới tăng 37,4%
so với năm 1990. Ở Việt Nam, nghề nuôi cá chẽm cũng bắt đầu phát triển trong
vài năm gần đây.
Tuy nhiên, bên cạnh lợi thế đó nghề nuôi cá chẽm thường xuyên gặp phải
những tác hại do dịch bệnh gây ra và gây thiệt hại lớn cho các quốc gia. Nhiều
bệnh đã được thông báo ở Australia, Hồng Kông, các nước Đông Nam Á và
Nhật Bản.
8
Bãi sinh trưởng cá
con (S
o
/
oo
=25-30)
Bãi sinh trưởng ở

thủy vực nước ngọt
hay lợ
Di cư xuôi dòng
Trứng trôi dạt,ấu
trùng phát triển
Ở Thái Lan năm 1989 dịch bệnh trên cá chẽm, cá mú gây thiệt hại 1,9
triệu USD, hằng năm có 80% người nuôi báo cáo là dịch bệnh gây chết 30-50%
tổng sản lượng. Nhật Bản năm 1992 thiệt hại 114,4 triệu USD. Malaysia dịch
bệnh do Vibrio làm thiệt hại 20 triêu Ringit năm 1992. Năm 1993, ở Singapore
chỉ riêng hai trại nuôi cá biển đã bị thiệt hại 360000 USD. Phillipines thông
thường khoảng 75% trại nuôi cá biển bị bệnh hằng năm.
Theo Liley & ctv (1999), bệnh xuất huyết ở cá tại một số nước châu Á
trước năm 1990 đã gây tổn thất hơn 10 triệu USD. Trong khoảng 10 năm từ năm
1983 đến 1993, riêng bệnh xuất huyết lở loét đã gây thiệt hại khoảng 100 triệu
USD (Chinabut, 1994).
Theo Schipt (1996) thì những con đường chính làm nhiễm bệnh ở cá
Chẽm là lây nhiễm qua nguồn nước, thức ăn hay cá khác Ruangpanit (1981,
1984) cho rằng tác nhân gây bệnh ở cá Chẽm là ký sinh trùng, vi khuẩn, virus,
bệnh do suy dinh dưỡng và bệnh do sốc môi trường, trong đó bệnh do ký sinh
trùng khá phổ biến.
Theo Juario (1987) thì bệnh do vi khuẩn (Vibrio sp) gây chết toàn bộ ở ngày
thứ 22-25 khi ương cá Chẽm ở bể chứa ngoài trời với nhiệt độ (26-32
o
C), độ mặn
(35-37‰), sự chiếu sáng và tảo khuê nở hoa dầy đặc (Bagarinao & Kungvankij,
1986). Theo Kungvankij & Ctv (1986) dấu hiệu bệnh lý thường thấy ở cá Chẽm
giai đoạn cá hương là: kém ăn, tróc vẫy, màu sắc cơ thể thay đổi từ màu xám sang
màu đen, trên cơ thể có đốm trắng xuất hiện. Theo Awang trong quá trình ương
giống cá Chẽm hiện tượng chết hàng loạt thường xảy ra vào ngày thứ 14-18 có liên
quan đến vấn đề dinh dưỡng. Do thành phần thức ăn sống (Roti-fer) cung cấp cho

cá bột thiếu axít béo chưa bảo hòa (Poly unsaturted fatty axids-PUFA).
Việc chữa trị được tiến hành ngay khi thấy bất kỳ dấu hiệu bệnh lý nào xuất
hiện. Đối với bệnh đốm trắng, ngâm cá vào trong nước muối 15-20‰ với Formalin
(200 ppm) trong 1-2 giờ, còn đối với bệnh do vi khuẩn gây ra, ngâm cá trong dung
dịch Oxytetracyline 3 ppm trong 10 giờ.
Một số tác giả khác lại cho rằng hiện tượng chết hàng loạt của cá bột xảy
ra. vào ngày thứ 12-14 là do có liên quan đến các tác nhân gây độc, đặc biệt là
Amonia (Hamhrey & Langdon, 1986). Sự kết hợp các dấu hiệu khác nhau có thể
nhìn thấy rõ ràng dưới kính hiển vi có độ phóng đại thấp; sự sưng phồng hay vỡ
bóng đái, sự xuất huyết và sụp xuống của ruột già; phía sau thành bụng, hình
dáng bong bóng cá không bình thường, trong nhiều trường hợp cá bột nổi lên
mặt nước và có thể nhìn thấy rõ trong bóng hơi sưng phồng có màu sáng.
9
Một số bệnh bùng nổ trong lồng nuôi cá Chẽm thì vi khuẩn được thông
báo là tác nhân gây bệnh quan trọng nhất, các vi khuẩn liên quan đến gây bệnh
cho cá Chẽm là: Aeromonas hydrophyla; Flexibactercolumnaris; Vibrio sp. và
Pseudomonas sp. (Burapanigiger & Donayadol, 1984) và một số tác giả nghiên
cứu và tổng kết trong nhiều tài liệu khác.
2.3.2. Ở Việt Nam
Nghề nuôi cá chẽm đã được nuôi trong khoảng 10 năm trở lại đây, chủ
yếu ở các tỉnh miền Trung như: Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế và hiện nay một số
tỉnh khác đang nuôi thử nghiệm cá chẽm như: Thanh Hóa, Thái Nguyên, Thái
Bình, hà Giang, Hà Tĩnh… nhưng nhũng năm gần đây dịch bệnh đã làm điêu
đứng cho người nuôi, ảnh hưởng lớn đến kinh tế của từng hộ gia đình.
Năm 2007, Trung tâm Khuyến ngư Thừa Thiên Huế đã thực hiện thành
công mô hình nuôi thử nghiệm cá chẽm thương phẩm bằng lồng nước lợ tại xã
Hải Dương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến nay, tại huyện Hương
Trà đã có hơn 118 hộ với hơn 300 lồng nuôi cá chẽm. Ở huyện Quảng Điền diện
tích nuôi chuyên cá chẽm khoảng 21 ha. Một số diện tích ao nuôi chuyên cá
chẽm quanh vùng đầm phá Tam Giang cho năng suất cao. Tuy nhiên, hiện nay

tình hình dịch bệnh trên cá chẽm đang xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Cụ thể vụ
nuôi đầu năm 2010, cá chẽm giai đoạn hương và giống chết hàng loạt, cá thịt có
hiện tượng sinh trưởng chậm, mòn vây, cụt đuôi và chết rải rác (Theo báo cáo
của Chi cục Thú y TT.Huế). Một trong những nguyên nhân gây chết cá chẽm
hàng loạt trong ương nuôi là vấn đề dịch bệnh. Trong các tác nhân gây bệnh trên
cá, ký sinh trùng (KST) là một trong những tác nhân rất phổ biến.
Tại Khánh Hòa, có khoảng 30% hộ nuôi xảy ra dịch bệnh ở giai đoạn cá
nhỏ từ 5-20cm, nuôi lồng thường chịu tác hại nặng hơn giai đoạn cá lớn. Tỉ lệ
chết có thể đạt 50-100%, đây là bệnh không có mùa vụ rõ rang (Đỗ Thị Hòa,
2008). Nha Trang- Vũng Ngán, dịch bệnh lây lan rất nhanh và gây chết 100% cá
trong vòng 1 tuần. Khi cá trong lồng bị bệnh còn quan sát được một số loài cá
khác sống xung quanh lồng cũng có dấu hiệu cụt đuôi tương tự.
Ở Hải Dương thị xã Hương Trà tỉnh Thừa thiên Huế đã xảy ra hiện tượng
cá chẽm đang ương, nuôi từ 1 đến 2 tháng tuổi chết từ rải rác đến hàng loạt, số
lượng thiệt hại ước tính 15 vạn trên 25 vạn thả ương, nuôi. Với tổng giá trị thiệt
hại khoảng 450 triệu đồng.
Theo PGS.TS Đỗ Thị Hòa, trường Đại học Nha Trang đã nghiên cứu
Vibrio là tác nhân chính gây chết trên cá chẽm, tỉ lệ cao ở cá nuôi lồng (100%),
10
cá nuôi ao gặp thấp hơn (58,2%). Một số loài vi khuẩn Vibrio spp. đã phân lập
được từ nội tạng cá bệnh, trong đó Vibrio anguillarum đã gây bệnh trong điều
kiện cảm nhiễm nhân tạo (60-80%).
Theo Nguyễn Thanh Chương và Đồng Thanh Hà, vi khuẩn phân lập được
trên mẫu bệnh cá chẽm tại xã Hải Dương, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên
Huế bao gồm: Vibrio cholera, Flexibacter-like, Aeromonas allosacharophila.
2.3.3 Một số bệnh thường gặp trên cá chẽm
2.3.3.1. Bệnh do virus
 Bệnh hoại tử thần kinh ở cá (Viral Nervous Necrosis VNN)
Bệnh này còn có nhiều tên khác: bệnh virus viêm màng lưới não (Viral
Encephalopathy and Retinopathy- VER) của cá biển; bệnh cá bơi xoắn (Spring

Grouper Diseasse), bệnh cá mú liệt, bệnh cá điên
Gây bệnh là virus thuộc họ Nodaviridae, giống Betanodavirus hình khối
đa diện 20 mặt, đường kính là 26-32nm. Acid nucleic là ARN mạch đơn. Virus
ký sinh trong tế bào chất của các tế bào thần kinh ở não và ở võng mặc mắt.
Dấu hiệu bệnh lý: Cá dưới 20 ngày tuổi bị bệnh không có dấu hiệu bệnh
lý rõ ràng. Cá sau 20-45 ngày tuôi bị bệnh có dấu hiệu yếu bơi gần tầng mặt. Cá
từ 45 ngày đến 4 tháng tuổi khi bị bệnh bơi không định hướng, bơi quay tròn
hoặc xoắn trôn ốc, kém ăn hoặc bỏ ăn, thân đen xám, đặc biệt đuôi và các vây
chuyển màu đen, bóng hơi căng phồng ra. Cá bị bệnh hoạt động yếu, hôn mê,
đầu treo trên mặt nước hoặc nằm dưới đáy bể hoặc đáy lồng. Giải phẩu bên
trong cho thấy ruột cá không có thức ăn, nhưng chứa đầy chất dịch màu xanh
hay màu nâu nhạt, lá lách có chấm đỏ. Bện này gây chết cao ở giai đoạn cá con,
đặc biệt là giai đoạn <20 ngày tuổi.
Phòng bệnh: Trong trại sản xuất cá biển giống, lựa chọn cá bố mẹ không
mang virus bằng cách kiểm tra trứng cá trước khi cho cá đẻ bằng kỹ thuật PCR.
Thả giống cỡ lớn để ra lồng bè để hạn chế tác hại của bệnh VNN. Dùng vaccine
và các chất kích thích miễn dịch để phòng bệnh trong các trại sản xuất cá.
2.3.3.2. Bệnh do vi khuẩn
 Bệnh do vi khuẩn Flexibacter ở cá
Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Flexibacter maritimus
Dấu hiệu bệnh lý: dấu hiệu đầu tiên là sự xuất hiện các đốm trắng trên
thân, đầu, vây, mang. Các đốm lan rộng thành các vết loét, xung quanh có viền
màu đỏ, ở phần giữa có màu vàng hoặc xám, da và vẩy cá có thể bị lột rồi rụng
11
đi, tạo thành vết loét lan rộng. Các mép vây xơ, mòn cụt. Trên mang xuất hiện
các vết loét, tơ mang bị phá huỷ làm cá ngạt thở. Bệnh không gây tổn thương
bên trong các cơ quan nội tạng, nhưng độc lực của vi khuẩn vẫn có thể gây chết
cá.
Phòng bệnh: áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Có thể phòng bệnh
bằng phương pháp nhiệt độ hoặc cho thêm vào môi trường các vi khuẩn có lợi.

Sát trùng cá bằng các loại hoá chất bàng các hoá chất trước khi thả vào lồng bè,
ao như: CUSO
4
40ppm trong 10-20 phút, thuốc tím 10-20 ppm trong 4-10 phút,
formol 50-100 ppm trong 10-20 phút, tắm nước ngọt trong 5- 10 phút. Áp dụng
công nghệ vaccine để phòng bệnh.
Để trị bệnh có thể dùng một số kháng sinh trộn vào thức ăn cho cá:
Oxytetracyline 50-75 mg/kg cá/1 ngày; Sulphonamid 220 mg/kg cá/1 ngày và
cho cá ăn 10 ngàyliên tục. Cũng có thể dùng kháng sing để tắm cho cá bệnh:
oxolinic acid 1ppm tắm trong 24h.
 Bệnh do Vibrio sp.
Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn Vibrio spp. (V. alginolyticus, V.
parahaemolyticus, V. anguillarum )
Dấu hiệu bệnh lý: Trên thân xuất hiện các đốm đỏ nhỏ, tại đó vẩy cá bị
tróc và rụng đi, sau một thời gian tạo các vết loét nhỏ, sâu. Vây có thể bị mòn
cụt và xơ xác. Giải phẩu bên trong cho thấy hiện tượng xuất huyết nội tạng, và
xuất huyết trong cơ của cá.
Phòng bệnh: áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp
Trị bệnh: Có thể dùng kháng sinh để trị bệnh. Tuy vậy cần dùng kháng
sinh theo 2 hướng. Thứ nhất diệt vi khuẩn cảm nhiễm bên trong cơ thể bằng
cách trộn kháng sinh vào thức ăn như kháng sinh thuộc nhóm sulpamid:
sulfamethoxine, Bactrim, cotrim: 15-20g/kg thức ăn, cho ăn liên tục 5-7 ngày;
Oxolinic Acid 25%: 2-5g/kg thức ăn, cho ăn trong 5-7 ngày. Thứ hai giảm mật
độ vi khuẩn trong nước và cải thiện môi trường bằng một số biện pháp kĩ thuật:
xifon đáy, thay nướcđáy, dùng thuốc diệt khuẩn như: Benzalkonium chloride
(BKC), Iodine sau đó thay một phần nước trong ao, gây lại màu nước.
 Bệnh do vi khuẩn Streptococcus sp.
Tác nhân gây bệnh: Bệnh do vi khuẩn Streptococcus spp. gây ra, là những
vi khuẩn gram dương, có dạng hình cầu hoặc hình trứng, không vận động được.
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi của cá.

12
Dấu hiệu bệnh lý: Màu sắc cơ thể đen tối, mắt cá lồi và đục, xuất huyết ở
các vây và xương nắp mang. Các vết xuất huyết lan rộng thành lở loét. Cá bơi
lội không bình thường và không định hướng, vận động khó khăn. Cá bệnh có
hình thức bơi xoắn. Thận và lách cá tăng lên về thể tích do phù nề.
Phòng bệnh: để phòng bệnh có thể áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng
hợp và vaccine là giải pháp phòng bệnh tốt nhất.
Trị bệnh: để trị bệnh cá thể dùng phương pháp trộn kháng sinh vào thức
ăn với liều lượng: dùng Erythromycine hoặc Ciprofloxacine 25-50 mg/1kg cá/1
ngày và cho cá ăn liên tục từ 4-7 ngày.
2.3.3.3. Bệnh do nấm
 Bệnh nấm hạt - Ichthyophonosis
Tác nhân gây bệnh là giống nấm hạt Ichthyophonus, gồm các loài
Ichthyophonus hoferi, Ichthyophonus irregularis.
Dấu hiệu bệnh lý: Xuất hiện các vết loét nhỏ và sâu trên thân, nấm chủ
yếu nội ký sinh nên khi giải phẩu các cơ quan nội tạng như tim, gan, lách, thận
và buồng trứng có các đốm trắng nhỏ. Khi cắt mô tế bào có thể thấy rõ sự tồn tại
của nấm trong các tổ chức mô tế bào.
Biện pháp phòng trị: Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Không
nên cho cá ăn thức ăn là động vật sống nhiễm nấm.
 Bệnh nấm hạt – Dermocystidiosis
Tác nhân gây bệnh là nấm hạt Dermocystidium, gồm nhiều loài khác nhau
ký sinh trên các loài cá khác nhau.
Dấu hiệu bệnh lý: Nấm hạt Dermocystidium thường ký sinh trên vây,
dưới da và mang cá. Những chỗ bị nấm ký sinh sưng tấy, màu hồng, hình dạng
khác nhau (tròn, ô van hoặc hình dài). Kích thước nấm hạt khác nhau từ 1-2 cm,
có khi lớn đến 10cm. Xung quanh chỗ sưng tấy có các đốm viêm nhỏ chứa đầy
các bào tử. Trong mẫu mô bệnh có các bào nang trong đó chứa các bào tử.
Biện pháp phòng trị: Áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Dùng
thuốc tím KMnO

4
hoặc formaline tắm cho cá giống để phòng bệnh trước khi đưa
vào nuôi.
2.3.3.4. Bệnh do ký sinh trùng
 Trùng bánh xe
13
Dấu hiệu bệnh lý: Cá bệnh có màu sắc và mang nhợt nhạt, tiết nhiều dịch,
cản trở hô hấp, chết từ rải rác tới hàng loạt, chết nhiều ở giai đoạn cá con. Xảy ra
ở nhiệt độ 20-30
o
C.
Biện pháp trị bệnh:
Nếu nuôi cá chẽm ở môi trường nước ngọt, nhạt, độ cứng thấp có thể
dùng CuSO
4
0,3-0,5 ppm phun vào ao, bể, thay nước sau 6-12 giờ. Hoặc tắm
cho cá bằng CuSO
4
3-5 pm trong 10-20 phút.
Nếu nuôi cá chẽm ở môi trường nước mặn, độ cứng cao có thể dùng oxy
già 100-150 ppm trong 15-30 phút.
 Trùng loa kèn
Dấu hiệu bệnh lý: Cá bị bệnh thường có dấu hiệu tiết nhiều dịch nhầy ở
da, mang, màu sắc nhợt nhạt. Nếu nhiễm trùng dạng quần thể có các chùm sợi
trắng như bong bám trên bề mặt cơ thể. Cá chết rải rác đến hàng loạt phụ thuộc
vào mức độ cảm nhiễm cao hay thấp và cỡ cá lơn hay nhỏ.
Trị bệnh
Ở cá chẽm nước ngọt: Dùng CuSO
4
tắm cho cá ở nồng độ 3-5ppm, phun

xuống ao ở nồng độ 0,3-0,5ppm, tắm nước muối 2-4% cho cá nước ngọt.
Ở cá chẽm nước mặn: Dùng formol 200-300ppm tắm trong 30 phút, tắm bằng
nước oxy già 100-150ppm trong 15-30 phút, tắm bằng nước ngọt trong 30 phút.
 Sán lá mang
Dấu hiệu bệnh lý: Cá bị cảm nhiễm sán lá mang cao thường tiết nhiều
dịch nhầy đặc ở mang, hô hấp khó khăn, khi bị nhiễm cao có thể chết rải rác tới
hàng loạt.
Chữa bệnh: Tắm cá với dung dịch formol 150-200ppm trong 30-60 phút,
sục khí mạnh, hoặc phun vào ao hoặc bể với formol 25-30ppm trong 1-2 ngày,
lặp lại 2 lần trong 1 tuần.
 Sán lá ở da cá- bệnh mè cá
Dấu hiệu bệnh lý: Cá bị bệnh hoạt động hỗn loạn trong ao, lồng làm bề
mặt cơ thể thương tổn. Khi nhúng cá bệnh trong nước ngọt các con trùng chuyển
màu trắng xám, khi bị nhiễm nặng gây chết nhiều cá.
14
Trị bệnh: Tắm cho cá bị bệnh bằng nước ngọt, nước mưa. Tắm cá với
dung dịch formol 150-200ppm trong 30-60 phút, sục khí mạnh, hoặc phun vào
ao hoặc bể với formol 25-30ppm trong 1-2 ngày, lặp lại 2 lần trong 1 tuần.
 Bệnh đỉa cá
Dấu hiệu bệnh lý: Đỉa là loại ký sinh trùng hút máu cá gây tác hại lớn,
gầy, chậm lớn hoặc chết. Thường ký sinh ở gốc vây, vảy, hốc miệng, mũi cá.
Phát triển mạnh ở ao cá có nhiều rong phát triển để đẻ trứng.
Phòng trị bệnh: Quản lý rong, tảo đa bào dạng sợi trong ao. Tắm nước
ngọt hay nước mưa cho cá biển. Tăm nước mặn cho cá chẽm nuôi ở nước ngọt,
nhạt. Phun formil xuống ao với nồng độ 20-25ppm. Thay nước mới nếu có thể.
 Bệnh do Copepoda
Giống Caligus là loài ký sinh trùng gặp rất phổ biến ở cá chẽm nuôi nước
mặn. Ký sinh trùng này thường bám ở da, vây, hốc mũi, miệng cá với cường độ
cao gây chết cao. Để trị bệnh này có thể tắm cho cá bệnh bằng nước mưa, nước
ngọt. Tắm nước oxy già 100-150ppm trong 30 phút. Nuôi kết hợp với một loài

cá ăn Copepoda để làm sạch; giảm độ mặn .
15
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG , NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.
• Khách thể nghiên cứu: Cá chẽm (Late scalcarifer, Bloch 1970)
- Hệ thống phân loại:
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Perciformes

Họ: Serranidae
Giống: Lates
Loài: Lates calcarifer
Đối tượng nghiên cứu : Tác nhân gây bệnh lở loét trên cá Chẽm.
3.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM
Thời gian nghiên cứu : 2/1/2014-12/5/2014
Địa điểm: các khu vực nuôi cá chẽm tại Thừa Thiên Huế như Hương Trà,
Thị trấn Thuận An.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Đánh giá thực trạng nghề nuôi cá Chẽm tại các huyện Hương Trà , Thị
trấn Thuận An .
- Phân lập các tác nhân (vi khuẩn, nấm, kí sinh trùng) gây hội chứng lở loét
trên cá chẽm nuôi tại Thừa Thiên Huế.
- Thử phản ứng kháng sinh đồ với vi khuẩn phân lập được.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.4.1. Phương pháp điều tra dịch tễ
• Số liệu thứ cấp: thu thập từ các tài liệu sách báo, tạp chí, báo cáo trên
mạng
• Số liệu sơ cấp: điều tra bằng bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp người nuôi.
• Số lượng bảng hỏi đã điều tra: 25 phiếu mẫu 1 dùng cho phỏng vấn nông
hộ

16
3.4.2. Phương Pháp xử lí mẫu
Cá bệnh có các biểu hiện bệnh lý rõ ràng như cá yếu ớt, bơi lờ đờ, có các
vết lở loét xuất huyết trên thân, vây, miệng, hậu môn
Mẫu cá thu phải còn sống, vận chuyển về phòng thí nghiệm bằng thùng
xốp đựng nước lạnh, chèn đá, và sục khí hoặc bơm oxi. Khi thu mẫu phải ghi
chép các thông tin về ngày tháng, địa điểm, nguồn giống, chăm sóc quản lý và
đặc điểm môi trường nuôi .
Địa điểm phân tích mẫu: Phòng thí nghiệm khoa Thủy sản trường ĐH
Nông Lâm Huế.
3.4.3. Phân lập các tác nhân
3.4.3.1. Nghiên cứu kí sinh trùng (KST)
Nghiên cứu KST theo phương pháp được giới thiệu bởi Hà Ký, Bùi
Quang Tề (2007)
Sơ đồ 3.1. Nghiên cứu KST
 Định danh ký sinh trùng
Tách KST ra từng nhóm loài riêng biệt và đếm số lượng từng nhóm loài
Chụp hình, đo đếm tổng quát và các bộ phận làm cơ sở phân loại của đại diện
từng nhóm
17
Mẫu cá
Phát hiện KST
nội kí sinh
Phát hiện KST
ngoại kí sinh
Thu và cố định mẫu
KST
Phân loại
Làm tiêu bản

×