Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.36 KB, 78 trang )

1

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ QUYỀN CỦA NHÀ
SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM
1. Khái quát chung về quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
1.1 Khái niệm quyền tác giả và quyền liên quan
1.1.1 Khái niệm về quyền tác giả
Quyền tác giả hay còn gọi là bản quyền là một thuật ngữ mô tả quyền lợi
kinh tế của người sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, trong đó bao gồm
quyền tái bản, in ấn, trình diễn, trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền sử dụng, khai thác tác phẩm.
Mọi hành vi sao chép, trích dịch, cơng bố, phổ biến tác phẩm nhằm mục đích
kinh doanh mà khơng có sự đồng ý của họ đều bị coi là xâm phạm quyền tác
giả. Quyền tác giả là quyền, dành cho những người sáng tạo ra tác phẩm văn học
và nghệ thuật bao gồm cả các chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu. Đây là
cách nhìn của tác giả theo nghĩa hẹp. Tuy nhiên, hiện nay, quyền tác giả được
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền
tác giả.
1.1.2 Khái niệm quyền liên quan
Quyền liên quan đến quyền tác giả là khái niệm để chỉ quyền của những
người trung gian có kỹ năng chuyên mơn thể hiện tác phẩm dưới những hình
thức phù hợp để cơng chúng có thể tiếp cận với tác phẩm. Đó là quyền của nghệ
sĩ biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của họ, quyền của nhà sản xuất đối với bản
ghi âm của họ, quyền của tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát sóng
của họ.
Có thể nói, quyền tác giả được hiểu theo nghĩa này là hợp lý. Chúng ta
đều biết tác giả là có độc quyền công bố, sử dụng, khai thác tác phẩm cũng như
trình diễn tác phẩm. Họ ln muốn tác phẩm của mình được phổ biến tới cơng
chúng càng rộng càng tốt. Tuy nhiên công việc này không thể do tự một mình



2

tác giả đảm đương, mà địi hỏi cần có những người trung gian có năng lực
chuyên nghiệp trợ giúp. Đó chính là những người biểu diễn, nhà sản xuất bản
ghi âm, ghi hình, các tổ chức phát sóng. Các quyền của ba chủ thể này gọi là
quyền liên quan (hay quyền kề cận), bởi lẽ các quyền đó nảy sinh và có liên
quan trực tiếp đến quyền tác giả. Việc thực hiện các quyền này thường gắn với
việc thực hiện bản quyền cũng do luật bản quyền điều chỉnh. Cho nên, bên cạnh
quy định sự bảo hộ tác giả, người sở hữu quyền tác giả, luật pháp còn quy định
việc bảo vệ quyền lợi cho những người hỗ trợ khác, những người giúp phổ biến
các tác phẩm. Việc bảo hộ tốt quyền lợi của họ tức là đã gián tiếp bảo hộ quyền
của tác giả.
Tuy nhiên, vấn đề bảo hộ quyền đối với nhóm người “liên quan” này
ngày càng trở nên gay gắt cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ kĩ
thuật số. Công nghệ mới phát triển cùng với sự phát triển của ngành cơng nghiệp
giải trí khiến cho các hành vi xâm phạm các quyền liên quan diễn ra ngày càng
phổ biến, trắng trợn thậm chí nghiêm trọng khơng kém gì nạn ăn cắp bản quyền.
Nhiều giọng ca mới, nhiều tác giả, nhiều kịch bản phim đã khơng thể ra đời đơn
giản chỉ vì các nghệ sỹ này khơng có đủ động lực để chấp nhận mạo hiểm. Họ
biết rằng, dù họ có sản xuất ra sản phẩm gì chăng nữa thì sản phẩm của họ ngay
lập tức sẽ bị sao chép, ăn cắp và họ không được cung cấp đủ tiền bạc để phát
triển tài năng của mình. Nghiêm trọng hơn cả, trong thời gian gần đây phải kể
đến những vi phạm trong lĩnh vực băng đĩa nhạc liên quan tới quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm.
1.1.3 Mối quan hệ giữa nhà sản xuất bản ghi âm với tác giả và các chủ thể
quyền liên quan khác
Nhà sản xuất bản ghi âm có mối quan hệ chặt chẽ với tác giả và chủ thể
của các quyền liên quan khác.
Nhà sản xuất bản ghi âm sử dụng các tác phẩm đã có để hình thành ra các

vật phẩm là các băng, đĩa âm thanh. Tác phẩm mà các tổ chức này sử dụng có
thể là các tác phẩm gốc, có thể là các chương trình biểu diễn. Cho nên, các tổ


3

chức này trong quan hệ với tác giả, người biểu diễn, họ chính là những người sử
dụng tác phẩm - những người sử dụng đặc biệt. Nhưng khi các vật phẩm băng,
đĩa hình được tạo ra thì họ lại chính là tác giả của những tác phẩm mới. Những
tác phẩm này lại có thể được các tổ chức phát sóng sử dụng để truyền sóng, phổ
biến. Vậy là nhà sản xuất vừa là người sử dụng, vừa là tác giả. Từ vị trí có thể
xâm phạm quyền của các chủ thể khác, nhà sản xuất trở thành chủ thể có nguy
cơ bi xâm phạm quyền. Họ là trung gian, là cầu nối giữa tác giả và công chúng,
giúp tác giả phổ biến tác phẩm, nhưng chính họ lại cần một tổ chức khác giúp
truyền bá, phổ biến các tác phẩm của mình. Như vậy, các chủ thể này có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tương hỗ nhau. Bảo hộ hiệu quả quyền lợi của chủ
thể này tức là đã gián tiếp bảo hộ quyền của chủ thể khác.
1.1.4 Lịch sử hình thành bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
Sự ra đời và phát triển không ngừng của khoa học công nghệ kỹ thuật
cuối thế kỷ IX là con dao hai lưỡi đối với sự phát triển của ngành công nghiệp
ghi âm lúc bấy giờ. Một mặt, nó khiến cho các bản ghi âm được sản xuất ra với
số lượng lớn và chất lượng tốt hơn trước nhiều lần, là động lực thúc đẩy ngành
công nghiệp giàu tiềm năng này phát triển. Tuy nhiên, chính những thành tựu đó
lại tạo ra các bản sao trái phép trở lên dễ dàng hơn, với chi phí thấp hơn. Do vậy,
để nền cơng nghiệp ghi âm có thể tồn tại và phát triển, yêu cầu cấp thiết được
đặt ra là phải hình thành một cơ chế bảo hộ đối với đối tượng này không chỉ ở
mỗi quốc gia mà trên phạm vi khắp thế giới.
Những ý tưởng đầu tiên nhằm vào bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm đã dựa
trên cơ sở bảo hộ bản quyền tác giả. Điều này là có cơ sở, bởi lẽ cũng như
những quyền liên quan khác, quyền của các nhà sản xuất bản ghi âm có mối

quan hệ chặt chẽ với bản quyền tác giả. Hơn nữa ở thời điểm này, CƯ.Berne đã
ra đời và sớm khẳng định vai trò nền tảng đối với việc bảo hộ quyền tác giả trên
phạm vi quốc tế. Cho nên, thiết lập mối quan hệ với bản quyền tác giả là điều
hợp lý.


4

Năm 1934, tổ chức CISAC – Liên minh quốc tế của hội các tác giả và nhà
soạn nhạc cùng Liên đồn quốc tế về cơng nghiệp thu thanh đã ký thoả ước tại
Stresa yêu cầu trong những lần sửa đối sắp tới của CƯ.Berne việc bảo hộ quyền
của nhà sản xuất bản ghi âm phải được đề xuất trong Phụ lục kèm theo cơng
ước.
Sau đó, các tổ chức này đã hợp tác tích cực với Văn phịng của Liên hiệp
Berne đề ra dự thảo về việc xây dựng một điều ước đa phương bảo hộ quyền
liên quan trong đó có quyền của nhà sản xuất bản ghi âm. Đến đầu những năm
60 của thế kỷ XX, các chuyên gia của WIPO, UNESCO, ILO đã gặp nhau tại
Lahay và đưa ra dự thảo Công ước. Ngày 26-10-1961, CƯ. Rome, công ước
quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng
đã được thơng qua tại Rome. Cùng với CƯ.Berne, CƯ.Rome ra đời là cơ sở cho
sự hình thành nhiều ĐƯQT đa phương và song phương quan trọng khác, là nền
tảng pháp lý quan trọng cho việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm trên
thế giới.
Đối với Việt Nam, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm được đặt ra chậm
hơn nhiều so với sự phát triển của các quan hệ SHTT khác và rất chậm so với
thế giới. Việc nghiên cứu về lĩnh vực này mới chỉ thực sự được quan tâm
khoảng 15-20 năm trở lại đây, khi nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế.
Tuy vậy, chúng ta cũng đã xây dựng được một khung pháp lý khá đầy đủ về lĩnh
vực này.
1.2 Khái niệm quyền của nhà sản xuất bản ghi âm

Sự ra đời phát triển của công nghệ trong thời gia vừa qua đã đem đến
nhiều lợi ích cho con người. Giờ đây, một buổi biểu diễn đã khơng cịn bị giới
hạn trong một hội trường với một lượng khán giả bị hạn chế như trước, bởi lẽ,
những bản ghi âm đã tái hiện những buổi biểu diễn của những nghệ sỹ đó và sử
dụng lại chúng nhiều lần mà khơng cần có sự có mặt của họ. Nhờ vậy mà công
chúng tiếp cận với các tác phẩm âm nhạc dễ dàng hơn, phổ biến hơn với chi phí


5

rẻ hơn. Chỉ cần một bản copy thôi cũng đủ đáp ứng cho nhu cầu của hàng triệu
người.
Những bản ghi âm rõ ràng đã giúp các tác giả, các nhạc sĩ, nghệ sĩ biểu
diễn có thể quảng bá tác phẩm của mình, khẳng định tên tuổi của mình tới đơng
đảo quần chúng một cách thuận lợi và tiết kiệm hơn nhiều so với trước đây. Một
ca sĩ không cần phải thực hiện những chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới
nhưng các fan hâm mộ trên tồn cầu vẫn có thể biết đến họ, nghe các tác phẩm
của họ thông qua những chiếc đĩa-CD, VCD hoặc thông qua việc tải nhạc từ các
trang web.
Tuy nhiên, hiện nay, cũng chính các bản ghi âm này lại đang phải đối mặt
với những tổn thất rất lớn do nạn xâm phạm bản quyền.
Công nghệ số hoá đã khiến cho các bản ghi âm bị sao chép trái phép dễ
dàng nhanh chóng hơn bao giờ hết. Chúng ta đã từng được chứng kiến những
đĩa nhạc CD từ những năm 80, 90 được sao chép thành hàng tỉ bản và trở nên
phổ biến như thế nào trên mạng Internet trong những năm gần đây. Chưa bao
giờ một khối lượng lớn thơng tin lại có thể được lưu trữ trong một không gian
nhỏ như hiện nay. Đầu thập kỉ 1990, những chiếc đĩa CD với dung lượng trên
600 megabytes đã được những kẻ làm băng đĩa giả sử dụng tràn lan và thu được
lợi nhuận lớn tới hàng triệu Đôla. Giờ đây, một thiết bị nghe nhạc di động chỉ
bằng một thanh socola cũng có thể chứa được lượng thơng tin lớn gấp 70- 80

lần, có nghĩa là sẽ chứa được khoảng 10.000 bài hát. Thật vậy, sức hấp dẫn của
các chương trình ghi âm cũng như sự sẵn có trên thị trường của các phương tiện
ghi âm tinh vi đã khiến cho vấn đề sao chép trái phép ngày càng gia tăng mà
hiện đã trở thành vấn nạn tồn cầu. Sự ra đời của cơng nghệ ghi âm, đĩa hát,
băng catsset đặc biệt là đĩa compact, MP3, Ipod… và sự phát triển nhanh chóng
của chúng đã cho thấy nhu cầu bảo hộ các nhà sản xuất chương trình ghi âm cấp
thiết như thế nào.
Vậy, ghi âm là gì? Từ điển Bách Khoa Việt Nam đã định nghĩa: “Ghi âm
là ghi lại tín hiệu âm thanh trên các vật liệu chuyên dùng để phát lại. Kỹ thuật


6

ghi âm bắt đầu từ phương pháp cơ khí (đĩa có rãnh) đến các vật liệu từ tính và
hiện nay đã số hố cả trên bộ nhớ máy vi tính”
CƯ.Geneva đã quy định: “Bản ghi âm là bất kỳ bản định hình * các âm
thanh biểu diễn hay các âm thanh khác* dành riêng cho cơ quan thính giác”.
Theo quy định của Điều 2.2 HƯ.WPPT thì bản ghi âm chỉ là bản định
hình thuần t về âm thanh, khơng bao gồm âm thanh ghi trong bản định hình
nghe nhìn. Nói rõ hơn, bản ghi âm chỉ nhằm vào định âm một bản nhạc, có thể
cùng với lời đã được tác giả phổ nhạc, mà không bao gồm việc ghi âm những tác
phẩm văn học và càng không bao gồm việc ghi hình (video) những tác phẩm
điện ảnh hay truyền hình.
Như vậy, bản ghi âm là các bản lưu giữ âm thanh, là biểu hiện sự tái
hiện các âm thanh của buổi biểu diễn hoặc các âm thanh khác dưới dạng vật
chất nhất định mà không bao gồm việc ghi âm những tác phẩm văn học cũng
như không bao gồm việc ghi hình nhằm giúp con người có thể nhận biết được
những âm thanh đó và có thể sao chép hoặc truyền đạt những âm thanh này.
Đối với âm nhạc, bản ghi âm là phương tiện ưa dùng nhất để truyền đạt
tác phẩm tới công chúng. Cũng như sách đối với tác phẩm văn học, bản ghi âm

có tác dụng phục vụ cho tác phẩm âm nhạc*. Bản ghi âm được thực hiện thông
qua hoạt động thu âm (phonorecords) là hoạt động cố định âm thanh ngoài phần
nhạc đệm cho một bộ phim. Thiết bị thu âm có thể là băng, đĩa CD, chíp máy
tính có chứa âm thanh và những thiết bị tương tự.
Các bản ghi âm có thể chỉ ghi riêng phần nhạc, riêng phần lời hoặc cả
phần nhạc và phần lời. Để được phép ghi âm, người muốn ghi âm phải được sự
cho phép của cả chủ sở hữu quyền tác giả đối với một tác phẩm phần nhạc cũng
như chủ sở hữu quyền tác giả đối với phần lời bài hát. Một số quốc gia còn quy
Định hình là sự biểu hiện các âm thanh, hoặc sự tái hiện lại biểu hiện này, từ đó các âm thanh có thể được cảm
nhận được sao chép hoặc được truyền qua một thiết bị nào đó (Điều 2.3 HƯ WPPT)
*

“Âm thanh khác” là các âm thanh khơng có xuất xứ từ các buổi biểu diễn nghệ thuật. Ví dụ
như các âm thanh của tự nhiên như tiếng gió, tiếng nước chảy, tiếng chim hót…
**

Tác phẩm âm nhạc (musical work) là một nhóm các tác phẩm có thể có bản quyền được diễn tả bằng hình thức
âm thanh. Một bài hát của một nhà viết nhạc được bảo hộ bởi bản quyền tác phẩm âm nhạc nhưng việc thu thanh
bài hát đó thì được bảo hộ bởi bản quyền thu thanh.
**


7

định, người ghi âm cũng phải được phép của các nghệ sỹ trình bày phần nhạc và
hát phần lời.
Nhà sản xuất bản ghi âm là một người hoặc một pháp nhân định hình lần
đầu các âm thanh của buổi biểu diễn hay các âm thanh khác *. Có nghĩa là sản
phẩm mà nhà sản xuất bản ghi âm tạo ra phải là bản gốc của tác phẩm, là sự hiện
thân nguyên bản âm thanh của một buổi biểu diễn trực tiếp hoặc bất kỳ một âm

thanh nào khác mà không được lấy lại từ một bản ghi âm có trước.
Như vậy, chỉ được coi là nhà sản xuất bản ghi âm khi người đó thực hiện
việc định hình lần đầu âm thanh của buổi biểu diễn hay âm thanh khác. Việc
định hình âm này, có thể được thực hiện trên băng, đĩa hoặc trong bộ nhớ số.
Chẳng hạn Bến Thành audio đã tổ chức việc định hình âm lần đầu chương trình
ca nhạc Làn sóng xanh. Bến Thành Audio là nhà sản xuất bản ghi âm đối với
chương trình ca nhạc này. Cần lưu ý là, pháp luật chỉ bảo hộ quyền của nhà sản
xuất đối với bản định âm lần đầu mà không bảo hộ đối với bản sao từ bản định
âm lần đầu, tức là tác phẩm được bảo hộ phải là bản gốc*. Hơn nữa, khơng chỉ
có tổ chức mới có thể là nhà sản xuất chương trình ghi âm. Điều này sẽ đúng
cách đây một vài năm. Bởi chỉ có tổ chức mới có đủ khả năng về kỹ thuật và tài
chính để thực hiện việc định hình âm, sản xuất băng đĩa ghi âm. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, hiện nay cá nhân hay một nhóm cá
nhân cũng có đủ khả năng thực hiện hoạt động này. Do đó, nhà sản xuất bản ghi
âm có thể là pháp nhân cũng có thể là cá nhân.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm là tổng thể các quy phạm quy định và
bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của nhà sản xuất bản ghi âm đối với các chương
trình ghi âm dựa trên tác phẩm gốc của chủ sở hữu quyền tác giả.

Điều 1.2, CƯGeneva
Bản gốc tác phẩm là hình thức thể hiện đầu tiên của tác phẩm có tính nguyên gốc do tác giả sáng tạo ra. Bản
gốc của tác phẩm là bản chính thức được cơng bố và được tác giả chủ sở hữu tác phẩm đăng ký bảo hộ tại cơ
quan bảo hộ quyền tác giả. Bản gốc là cơ sở để in ấn, phổ biến, phát hành hoặc chuyển sang hình thái thể hiện
khác.[ ]
**
**


8


Mục đích của quyền nhà sản xuất bản ghi âm là đảm bảo bù đắp cho các
tác giả, cho phép họ làm chủ và khai thác tác phẩm của mình, qua đó tạo điều
kiện thuận lợi cho hoat động sáng tạo tinh thần.
Cũng như các quyền liên quan khác, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
có hai đặc điểm sau:
Thứ nhất: Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm cũng được hình thành dựa
trên việc sử dụng mơt tác phẩm gốc*. Nhà sản xuất bản ghi âm tổ chức thu âm
buổi biểu diễn của các nghệ sỹ hoặc các âm thanh khác, nhưng các nghệ sỹ này
lại phải dùng những tác phẩm âm nhạc khác để trình diễn. Như vậy, xét cho đến
cùng quyền của nhà sản xuất bản ghi âm cũng được hình thành dựa trên việc sử
dụng một tác phẩm gốc. Do đó, chủ thể quyền nhà sản xuất bản ghi âm phải có
nghĩa vụ tơn trọng quyền nhân thân và quyền tài sản không chỉ của người biểu
diễn mà cả của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc.
Thứ hai: Chương trình ghi âm cũng phải có tính ngun gốc nghĩa là do
chính cơng sức của nhà sản xuất bản ghi âm tạo ra và là bản ghi âm đầu tiên.
Để tạo ra những bản ghi âm, người sản xuất phải đầu tư công sức để tổ
chức việc ghi âm, phải bỏ ra một lượng tài chính khơng nhỏ để thực hiện cơng
việc này. Nhà sản xuất tuy không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nhưng lại có
sáng tạo trong việc thể hiện tác phẩm. Vì vậy, bảo hộ những nhà sản xuất chân
chính, những người đã thực sự phải bỏ công sức, tiền bạc ra trước các đối thủ
cạnh tranh, chống các hành vi xâm phạm thành quả của người khác bằng việc
sao chép bất hợp pháp băng, đĩa ghi âm là điều tất yếu.
2. Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
2.1 Khái niệm
Bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm là những cách thức, biện pháp
đựơc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng nhằm tạo ra hành lang pháp
lý để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhà sản xuất bản ghi âm cũng như
những chủ thể có liên quan khác, chống lại bất kỳ sự vi phạm nào.
**


Tác phẩm gốc là những tác phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định và có tính ngun gốc.


9

Nhà sản xuất bản ghi âm được bảo hộ quyền phải là tổ chức, cá nhân định
hình lần đầu âm thanh của buổi biểu diễn hoặc các âm thanh khác.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm sẽ được bảo hộ nếu không gây
phương hại đến quyền tác giả và đáp ứng được một trong những điều kiện sau:
(i)

Các nhà sản xuất bản ghi âm là cơng dân nước đó;

(ii)

Bản ghi âm

(iii)

được định hình lần đầu trên lãnh thổ quốc gia đó*;

(iv)

Bản ghi âm được cơng bố lần đầu trên lãnh thổ quốc gia đó * hoặc
được coi là lần đầu tiên được cơng bố tại quốc gia đó*

Khơng giống như trong lĩnh vực quyền sở hữu công nghiệp, bảo hộ bản
quyền nói chung, bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm nói riêng phát sinh
từ thời điểm tác phẩm được hình thành dưới một hình thức nhất định mà không
buộc phải đăng ký, nộp lưu chiểu, nộp tiền hay những thủ tục tương tự, vì những

thủ tục này không được coi là điều kiện để được bảo hộ bản quyền. Tuy nhiên,
để tránh những rắc rối về sau, để có bằng chứng bác bỏ những hành vi xâm
phạm của những đối tượng vi phạm bản quyền, pháp luật các nước khuyến khích
tác giả, nhà sản xuất bản ghi âm tiến hành đăng ký bản quyền đối với những tài
sản trí tuệ của mình.
Cũng giống như quyền của tổ chức phát sóng, quyền của nhà sản xuất bản
ghi âm là quyền tài sản. Điều này có sự khác biệt so với quyền của tác giả, của
người biểu diễn. Sự khác biệt đó có thể nói xuất phát từ sự đóng góp chất xám
vào sản phẩm của các nhóm quyền. Nói như vậy khơng có nghĩa là thành quả
của nhà sản xuất bản ghi âm khơng có chất xám. Tất cả các đối tượng của quyền
SHTT đều là những thành quả của lao động trí tuệ sáng tạo. Tuy nhiên, đối với
nhà sản xuất bản ghi âm thì thành quả ấy chịu tác động của hoạt động đầu tư về
**

Bản ghi âm được định hình lần đầu trên lãnh thổ quốc gia đó là bản ghi âm của người nước ngoài, pháp nhân

nước ngoài lần đầu tiên được tái hiện tại quốc gia mà trước đó chưa được định hình tại bất kỳ quốc gia nào khác
Bản ghi âm được công bố lần đầu trên lãnh thổ quốc gia đó là bản ghi âm của người nước ngồi, pháp nhân
nước ngồi chưa được cơng bố, phổ biến ở bất kỳ nước nào trước khi được công bố tại quốc gia đó
**
Bản ghi âm được coi là lần đầu tiên được cơng bố phổ biến tại qc gia đó là khi bản ghi âm đó được cơng bố
phổ biến tại quốc gia này trong thời hạn 30 ngày tính từ ngày tác phẩm đó được cơng bố phổ biến lần đầu tiên tại
quốc gia nào khác
**


1
0

kinh tế, kỹ thuật nhiều hơn, đồng thời không để lại dấu ấn cái tôi đậm nét như ở

tác phẩm văn học nghệ thuật và chương trình biểu diễn. Quyền được bảo hộ của
nhà sản xuất bản ghi âm là quyền tài sản. Trong quyền tài sản này có chứa giá trị
phi vật chất. Đó chính là năng lực cạnh tranh của nhà sản xuất. Do là quyền tài
sản nên quyền này có thể được chuyển dịch cho người khác thông qua hợp đồng,
thừa kế hoặc thông qua việc thừa kế quyền.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm được bảo hộ có thời hạn. Các cơng
ước quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia trên thế giới đều quy định thời gian
bảo hộ tối thiểu đối với bản ghi âm là 20 năm kể từ khi kết thúc của năm mà các
âm thanh thể hiện trong bản ghi âm được ghi âm lần đầu hoặc của năm mà bản
ghi âm được công bố lần đầu.
Trong khoảng thời gian này, mọi hành vi sao chép không được sự đồng ý
của nhà sản xuất bản ghi âm đều được coi là hành vi xâm phạm quyền. Tuy
nhiên, để đảm bảo rằng chủ sở hữu không lạm dụng những đặc quyền dành cho
họ nhằm tạo điều kiện phổ biến, sử dụng những sáng tạo nghệ thuật, pháp luật
các nước quy định một số hạn chế và ngoại lệ nhằm đảm bảo sự cơng bằng giữa
quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu và người sử dụng. Theo đó, các bản ghi âm
có thể được sử dụng hạn chế (fair use). Điều này nhằm nhấn mạnh việc sao chép
bản ghi âm hoàn tồn khơng vì mục đích kinh doanh, khơng làm ảnh hưởng đến
việc khai thác bình thường tác phẩm và khơng xâm phạm tới các quyền lợi khác
của nhà sản xuất, việc sử dụng đó hồn tồn cho cá nhân để thưởng thức, để
nghiên cứu thì khơng phải là hành vi xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm.
Mặc dù vậy, trên thực tế việc quản lý vấn đề này gặp rất nhiều khó khăn
vì nhiều khi người ta sao chép bản ghi âm với danh nghĩa sử dụng cá nhân
nhưng thực chất là bán thu tiền, sao chép lại băng, đĩa nhạc để phát ở nhà hàng,
khách sạn hay tải nhạc điện thoại, phục vụ cho khách. Những trường hợp đó thì
khơng thể coi là dùng cho mục đích cá nhân được.


1

1

Ngoài ngoại lệ trên, mọi hành vi sử dụng bản ghi âm mà khơng có sự
thoả thuận đều được coi là hành vi xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm.
Những hành vi có thể bị coi là xâm phạm quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm là:
° Chiếm đoạt quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
° Mạo danh nhà sản xuất bản ghi âm;
° Công bố*, sản xuất, phân phối bản ghi âm mà không được phép của nhà
sản xuất bản ghi âm;
° Sao chép, trích ghép đối với bản ghi âm mà không được phép của nhà
sản xuất bản ghi âm;
+ Dỡ bỏ hoặc thay đổi thơng tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà
không được phép của nhà sản xuất bản ghi âm;
+ Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến cơng chúng bản ghi
âm khi biết hoặc có cơ sở để biết thơng tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử
đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị thay đổi mà không được phép của nhà sản xuất bản ghi
âm.
2.2 Nội dung quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
2.2.1 Nghĩa vụ của nhà sản xuất bản ghi âm
Để tạo ra các bản ghi âm, nhà sản xuất bản ghi âm phải sử dụng tác phẩm
hoặc chương trình biểu diễn của người khác.Vì vậy, họ phải có nghĩa vụ với tác
giả, hoặc chủ sở hữu tác phẩm và người biểu diễn, bao gồm những nghĩa vụ sau:
ª Khi sử dụng tác phẩm chưa được công bố, người sản xuất bản ghi âm
phải xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm thông qua việc giao kết hợp đồng sử
dụng tác phẩm. Khi sử dụng tác phẩm, nhà sản xuất phải nêu tên thật hoặc bút
danh của tác giả, trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm, đảm bảo sự
tồn vẹn nội dung của tác phẩm.
Cơng bố bản ghi âm là việc đưa ra các bản sao của bản ghi âm tới công chúng với sự đồng ý của chủ sở hữu

quyền và với số lưọng hợp lý ( Điều 2.5 Hiệp ước WPPT)
**


1
2

ª Đối với những tác phẩm đã được cơng bố, tổ chức, cá nhân sản xuất bản
ghi âm không phải xin phép tác giả nhưng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ
nói trên.
ª Khi sử dụng chương trình của người biểu diễn để sản xuất chương trình,
nhà sản xuất bản ghi âm phải giao kết hợp đồng với người biểu diễn và phải trả
thù lao cho họ. Nghĩa vụ này của nhà sản xuất chương trình ghi âm gắn liền với
cả quyền của người biểu diễn. Cũng như hợp đồng với tác giả trong trường hợp
tác phẩm chưa được công bố, việc giao kết hợp đồng với người biểu diễn là một
hình thức xin phép chương trình biểu diễn để ghi băng, ghi âm thanh và làm bản
sao để phổ biến. Nghĩa vụ ký hợp đồng với người biểu diễn gắn liền với nghĩa
vụ trả thù lao cho họ, mức và cách thức trả thù lao thường là do các bên thoả
thuận.
ª Người sản xuất cũng có nghĩa vụ phải ghi tên thật (hoặc bút danh) của
tác giả và tên của người biểu diễn trên băng đĩa ghi âm khơng chỉ trên bản gốc
mà cịn cả trên các bản sao từ bản gốc. Sẽ bị coi là vi phạm nghĩa vụ này, nếu
nhà sản xuất không ghi tên hoặc ghi sai tên tác giả, người biểu diễn. Trong
trường hợp này, tác giả, người biểu diễn có quyền yêu cầu người sản xuất phải
cải chính cơng khai và có thể phải bồi thường thiệt hại.
ª Bên cạnh nghĩa vụ ghi tên tác giả, người biểu diễn, người sản xuất cịn
có nghĩa vụ đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, bảo đảm sự toàn vẹn của tác
phẩm gốc và sự tồn vẹn của hình tượng biểu diễn. Đối với tác phẩm gốc, nhà
sản xuất không được sửa đổi, cắt xén tác phẩm nếu không được tác giả đồng ý.
Chẳng hạn nếu nhà sản xuất sử dụng một phần ca khúc để sản xuất bản ghi âm

liên khúc thì phải hỏi ý kiến của tác giả. Đối với hình tượng biểu diễn cũng vậy,
nhà sản xuất không được tiến hành các hành vi thay đổi, xuyên tạc làm ảnh
hưởng xấu tới danh dự, uy tín của người biểu diễn. Trường hợp nhà sản xuất vi
phạm nghĩa vụ đảm bảo sự toàn vẹn của tác phẩm, hình tượng người biểu diễn,
tác giả, người biểu diễn cũng có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và bồi
thường thiệt hại.


1
3

2.2.2 Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
Nhà sản xuất bản ghi âm có các quyền sau:
ª Thứ nhất, nhà sản xuất bản ghi âm được độc quyền cho phép hoặc
không cho phép làm bản sao của bản ghi âm và phát hành sản phẩm. Có nghĩa là
chỉ họ mới được quyền nhân bản và phân phối các bản gốc và bản sao của bản
ghi âm, còn mọi hành vi nhân bản và phân phối nếu không được sự đồng ý của
nhà sản xuất đều bị coi là xâm phạm quyền. Người sản xuất có thể tự mình thực
hiện độc quyền hoặc cho người khác sử dụng độc quyền đó thơng qua các hợp
đồng chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng. Như vậy, việc sao toàn bộ hoặc
phần chủ yếu của một băng, đĩa ghi âm bất kể trực tiếp hay gián tiếp từ bản định
hình âm gốc mà khơng được nhà sản xuất đồng ý đều bị coi là xâm phạm quyền.
ª Độc quyền thứ hai của nhà sản xuất bản ghi âm chính là họ có quyền
hưởng thù lao khi bản ghi âm hoặc bản sao của họ được sử dụng vào mục đích
thương mại. Nhà sản xuất bản ghi âm đã đầu tư khơng ít cơng sức, kỹ thuật, tài
chính để tạo ra các bản ghi âm, lẽ đương nhiên họ phải được hưởng thành quả
lao động, sáng tạo này. Họ có quyền cho thuê, cho mượn hoặc bán bản gốc hoặc
bản sao bản ghi âm để sử dụng nhằm đạt được mục đích thương mại. Thù lao
nhận được sẽ là cơ sở kích thích họ tiếp tục đầu tư sáng tạo ra các tác phẩm có
giá trị và chất lượng cao hơn. Pháp luật của các nước quy định cả người biểu

diễn và nhà sản xuất băng, đĩa ghi âm đều được hưởng thù lao từ việc cho người
khác sử dụng thành quả của mình (bản ghi âm hoặc bản sao của bản ghi âm) để
sử dụng vào mục đích kinh doanh. Tỷ lệ phân chia do các bên thoả thuận, một
số nước cũng quy định các điều kiện phân chia nhưng thông thường là theo tỷ lệ
50/50.
2.3 Cơ chế bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
Cũng như các quyền của các đối tượng sở hữu trí tuệ khác, quyền của nhà
sản xuất bản ghi âm mang tính phi vật thể, dễ sao chép, dễ lưu trữ, dễ phổ biến
và có tính lãnh thổ ( nó phát sinh trên lãnh thổ nước nào thì chỉ bảo hộ tại nước
đó). Cho nên, các quốc gia phụ thuộc vào khả năng, điều kiện của nước mình sẽ


1
4

đưa ra những quy định phù hợp cho việc bảo hộ quyền của nhà sản xuất. Hiện
nay, trên thế giới, quyền SHTT nói chung, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
nói riêng được bảo hộ theo hai cơ chế chính là cơ chế bảo hộ quốc gia (bảo hộ
theo các quy định của pháp luật quốc gia) và bảo hộ theo cơ chế quốc tế ( việc
bảo hộ được thực hiện theo cả các quy định của pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế).
2.3.1 Cơ chế bảo hộ quốc gia
Đây là cơ chế bảo hộ theo đó một trong những quốc gia sẽ ban hành
những quy định đặc thù về bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm và cũng
chỉ áp dụng đối với các đối tượng của quyền của nhà sản xuất trong nước giữa
các chủ thể trong nước. Hay nói cách khác, đây là các quan hệ pháp luật về
SHTT thuần tuý trong nước và khơng có yếu tố nước ngồi. Tuy nhiên, xuất
phát từ những khác biệt về điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, lịch sử… việc xây
dựng các quy định trong lĩnh vực bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
cũng có nhiều điểm khác. Theo đó, các quy định về quyền của nhà sản xuất có

thể được xây dựng tương đối đầy đủ, hệ thống trong những văn bản pháp luật
chuyên ngành như Luật SHTT, Luật Bản quyền, ví dụ như ở Cộng hồ Pháp,
Hồ Kỳ, Trung Quốc, Việt Nam… Nhưng ở một số quốc gia đặc biệt là ở những
nước đang phát triển và chậm phát triển, các quy định đặc thù này lại không
được tập trung trong luật riêng về SHTT mà lại nằm rải rác trong các văn bản
pháp luật khác nhau như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Hành chính hoặc
các văn bản dưới luật khác.
Nhưng dù theo xu thế nào đi nữa, bằng việc xây dựng các quy phạm pháp
luật, luật quốc gia cũng đã trở thành công cụ hữu hiệu để bảo vệ các sản phẩm
trí tuệ nói chung, các bản ghi âm nói riêng, trước hết là tác phẩm của công dân
nước sở tại. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển của các mối quan hệ xã hội,
sự mở rộng ngày càng nhanh trong việc giao lưu giữa các nền văn hoá trên thế
giới, việc bảo hộ bản ghi âm chỉ trong phạm vi quốc gia sẽ không thể được thực
hiện hiệu quả. Thêm vào đó, xu thế tồn cầu hố đang diễn ra hết sức mạnh mẽ,


1
5

khi thế giới chúng ta đang sống trở thành một thị trường chung thì tất yếu phải
cần đến những cơng cụ pháp lý hữu hiệu hơn để bảo vệ thành quả sáng tạo của
con người. Chính vì vậy cơ chế bảo hộ quốc gia sẽ luôn phải song song tồn tại
cùng cơ chế bảo hộ quốc tế.
2.3.2 Cơ chế bảo hộ quốc tế
Cơ chế bảo hộ quốc tế là cơ chế bảo hộ không chỉ tuân theo các quy định
của pháp luật quốc gia mà việc bảo hộ còn được đảm bảo trên phạm vi quốc tế,
thông qua các quy định của các ĐƯQT song phương và đa phương.
Các ĐƯQT đa phương quan trọng để bảo hộ quyền SHTT đã được ra đời
từ thế kỷ XIX. Cho đến nay, các ĐƯQT đa phương đã thực sự đóng góp vai trị
quan trọng trong việc bảo hộ quyền trên phạm vi quốc tế và được đơng đảo các

quốc gia gia nhập. Có thể kể đến các ĐƯQT đa phương quan trọng trong lĩnh
vực bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm.
Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật 1886.
Công ước Rome 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm,
tổ chức phát sóng ;
Cơng ước Geneve về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm 29/10/1971;
Công ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm.
Các ĐƯQT song phương ra đời sớm hơn so với các ĐƯQT đa phương, khi các
điều ước đa phương chưa ra đời thì đây là hình thức được nhiều quốc gia áp
dụng để bảo hộ cho các nhà sản xuất là cơng dân nước mình khi tác phẩm của
họ vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Hiện nay, tuy đã là thành viên của nhiều
ĐƯQT đa phương về quyền của nhà sản xuất bản ghi âm nhưng đại đa số các
quốc gia vẫn rất coi trọng việc ký kết các ĐƯQT song phương. Các thoả thuận
quốc tế về quyền của nhà sản xuất giữa hai quốc gia thường được ghi nhận trong
các hiệp định về quyền tác giả hoặc các hiệp định thương mại giữa các nước.
Nói tóm lại, các ĐƯQT cùng với pháp luật quốc gia giữ vai trò quan
trọng trong việc bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi tồn cầu. Chúng khơng chỉ là
cơng cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ những thành quả sáng tạo của con người


1
6

mà còn giúp các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, những nghệ sỹ biểu diễn, các
nhà sản xuất bản ghi âm, các tổ chức phát sóng có khả năng thu hồi một cách có
hiệu quả những chi phí đã bỏ ra để đầu tư cho việc sáng tạo tác phẩm, giúp họ
có thể tiếp tục tái đầu tư để tạo ra những tác phẩm mới có chất lượng hơn. Đồng
thời coi trọng bảo hộ quyền SHTT còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế đặc biệt là
các ngành cơng nghiệp giải trí, tạo nên sự cân bằng giữa quyền lợi của chủ sở
hữu tài sản trí tuệ với nhu cầu của xã hội.



1
7

CHƯƠNG II
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HỘ QUYỀN CỦA NHÀ SẢN XUẤT
BẢN GHI ÂM THEO QUY ĐỊNH CỦA MỘT SỐ ĐƯQT ĐA PHƯƠNG
MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN VÀ SỰ TƯƠNG THÍCH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
1. Nội dung cơ bản về bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm theo
quy định của một số ĐƯQT đa phương mà Việt Nam là thành viên.
Việc bảo hộ chặt chẽ quyền SHTT nói chung, quyền của nhà sản xuất bản
ghi âm nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Nhưng mỗi quốc gia lại khơng thể tự mình tiến hành hoạt động
bảo hộ các quyền này, nên cần có sự liên kết chặt chẽ trên phạm vi quốc tế. Từ
đó, các ĐƯQT về bảo hộ quyền SHTT đã ra đời, trở thành công cụ đắc lực trong
việc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể liên quan. Trong xu thế hội nhập, để bảo
vệ lợi ích của chính mình, để thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu
quốc tế, Việt Nam đã và đang tích cực tham gia các ĐƯQT song phương và đa
phương trong lĩnh vực này.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia và ký kết hầu hết các ĐƯQT quan trọng
về SHTT như CƯ.Rome 196; CƯ.Geneva 1971; HƯ.WPPT 1996. Đây là,
những điều ước có nội dung đề cập trực tiếp đến quyền của nhà sản xuất bản ghi
âm và bảo hộ quyền của họ.
Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ
chức phát sóng (sau đây gọi tắt là CƯ.Rome) được ký kết tại Rome ngày
26/10/1961. CƯ này, được coi là “CƯ tiên phong” trong lĩnh vực bảo hộ quyền
liên quan, bởi lẽ nó xuất hiện vào thời điểm có rất ít quốc gia ban hành các
nguyên tắc về bảo hộ những nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tổ

chức phát sóng, trong khi CƯ.Berne – CƯ, nền tảng về bảo vệ bản quyền lại
chưa có những quy định cụ thể về các quyền này. Mười năm sau, một cam kết


1
8

quốc tế khác riêng trong lĩnh vực bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm đã ra đời tại
Geneva - CƯ về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép trái
phép bản ghi âm của họ (còn gọi là CƯ.Geneva 1971 hay CƯ về bản ghi âm)
được ký kết ngày 29/10/1971. CƯ.Geneva là một Hiệp ước đặc biệt bổ sung cho
CƯ.Rome riêng trong lĩnh vực bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm. Tuy nhiên, cùng
với sự phát triển của công nghệ số, sự gia tăng không ngừng của những hành vi
vi phạm các quyền liên quan trong những năm 1980, người ta thấy rằng,
CƯ.Rome, CƯ.Geneva khơng cịn đủ nữa, cần phải những cam kết quốc tế phù
hợp trong môi trường kỹ thuật số, cần phải có những quy tắc mới cứng rắn hơn,
có tính ràng buộc chặt chẽ hơn… Kết quả là, Hiệp ước của WIPO về biểu diễn
và sản xuất bản ghi âm (gọi tắt là HƯ.WPPT) đã ra đời tại Geneva tháng 12 năm
1996. HƯ.WPPT có mối quan hệ nhất định với CƯ. Rome. Cũng như mối quan
hệ giữa. Hiệp định TRIPs và CƯ.ROME, WPPT đã kế thừa một số qui định của
ROME. Hiệp ước này cũng tuyên bố rằng “không qui định nào trong Hiệp ước
này làm tổn hại đến những nghĩa vụ hiện tại mà các bên ký kết đã có với nhau
theo CƯ quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và các tô
chức phát sóng ký tại ROME.”*
Có thể nói, ba điều ước trên là những cam kết khá đầy đủ điều chỉnh lĩnh
vực bảo hộ quyền của nhà sản xuất bản ghi âm. Song, cả ba lại chưa đề cập
nhiều tới việc thực thi các cam kết này như thế nào. TRIPs ra đời đã khắc phục
những thiếu sót đó. Đây là Hiệp định SHTT toàn diện nhất trên thế giới hiện
nay. Không chỉ là tổng hợp của các Công ước trước đó, Hiệp định TRIPs cịn bổ
sung một số lượng lớn các nghĩa vụ chưa được quy định hoặc quy định chưa đầy

đủ trong các Công ước, Hiệp ước đã ký trước đây.
Như vậy đáp ứng những thách thức của việc bảo hộ quyền của nhà sản
xuất bản ghi âm, các công ước quốc tế đã lần lượt ra đời. Vậy là thế giới đã có
thêm nhiều cơng cụ đắc lực để bảo vệ quyền này.
Nội dung cơ bản của các ĐƯQT trên được quy định như sau:
**

Điều 1.3 Hiệp ước WPPT


1
9

(1) Các nguyên tắc cơ bản
(2) Tiêu chuẩn bảo hộ, căn cứ xác lập quyền và thực hiện bảo hộ
(3) Nội dung quyền của nhà sản xuất bản ghi âm
(4) Các quy định về thực thi quyền
1.1 Các nguyên tắc cơ bản
1.1.1 Nguyên tắc đối xử Quốc gia (National Treament - NT)
Công ước Berne coi đây là nền tảng của sở hữu trí tuệ. Nguyên tắc này
qui định rằng các thành viên không được đối xử với công dân của các Quốc gia
thành viên khác kém thuận lợi hơn công dân của chính nước mình, trừ một số
trường hợp ngoại lệ cho phép. Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 2.1 công
ước ROME: “Trong công ước này, đối xử Quốc gia được hiểu là sự đối xử theo
luật Quốc gia của nước thành viên nơi có yêu cầu Bảo hộ dành cho:..Các mhà
sản xuất bản ghi âm là công dân của Nước đó, đối với các bản ghi âm được
định hình lần đầu hoặc cơng bố lần đầu trên lãnh thổ Nước đó…”. Kế thừa
nguyên tắc này, Hiệp ước WPPT qui định: “Những bên ký kết sẽ dành cho công
dân của Các bên ký kết khác sự đối xử mà Bên đó dành cho chính cơng dân của
nước mình đối với các quyền độc quyền được qui định cụ thể trong Hiệp ước

này và đối với quyền hưởng thù lao thoả đáng được quyết định tại Điều 15 của
Hiệp uớc này.”*
Điều 4.1 Hiệp ước WPPT không trực tiếp đưa ra khái niệm công dân của
các bên ký kết mà dẫn chiếu đến các điều khoản khác.
Qui định về chế độ NT được đặt ra không chỉ nhằm bảo đảm quyền của
người nước ngồi được bảo hộ mà cịn bảo đảm rằng họ không bị phân biệt đối
xử theo bất kì cách nào liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, bảo
hộ quyền nhà sản xuất bản ghi âm nói riêng. Liên quan đến chế độ NT, cả
CƯ.ROME và HƯ.WPPT đều đặt ra những ngoại lệ nhất định. Công ước yêu
cầu “đối xử Quốc gia phải tuỳ thuộc vào sự bảo hộ được cấp cụ thể và các hạn
**

Điều 4.1 Hiệp ước WPPT


2
0

chế qui định cụ thể trong Công ước này *. Có nghĩa là ngoại trừ những quyền đã
được Cơng ước đảm bảo tạo nên sự bảo hộ tối thiểu, trong phạm vi các giới hạn
bảo lưu và ngoại lệ được Công ước thừa nhận, nhà sản xuất bản ghi âm cũng
như những chủ thể của quyền liên quan khác sẽ được hưởng tại những Quốc gia
thành viên của Công ước những quyền giống như các quyền mà các Quốc gia đó
trao cho cơng dân của họ.
Hiệp ước WPPT cũng đưa ra ngoại lệ, theo đó các thành viên có thể dựa
vào để miễn trừ nghĩa vụ đối xử Quốc gia khi bên ký kết cố tình đưa ra tuyên bố
rằng sẽ chỉ áp dụng quyền được hưởng thù lao từ việc phát sóng và truyền đạt ra
cơng chúng nhằm mục đích thương mại của nhà sản xuất bản ghi âm trong một
số trường hợp nhất định, hoặc tuyên bố rằng nước mình sẽ khống chế việc áp
dụng các qui định đó theo một số cách khác hoặc có thể áp dụng tất cả các qui

định này .
Công ước bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép trái
phép bản ghi âm của họ không đề cập tới nguyên tắc đối xử Quốc gia nhưng lại
khẳng định mỗi Quốc gia ký kết sẽ bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm là công dân
của các Quốc gia ký kết khác chống lại việc làm bản sao mà không được sự
đồng ý của nhà sản xuất bản ghi âm đó và chống lại việc nhập khẩu các bản sao
đó với điều kiện là việc làm bản sao hoặc nhập khẩu đó là nhằm mục đích phân
phối tới cơng chúng và chống lại việc phân phối các bản sao đó tới cơng chúng,*
và khơng được giải thích Cơng ước này bằng bất kì cách thức nào để hạn chế
ảnh hưởng tới sự bảo hộ khác được đảm bảo theo bất kì pháp luật Quốc gia hoặc
thoả thuận Quốc tế nào.* Điều đó có nghĩa là, Cơng ước cũng đã xác định các
hành vi bất hợp pháp mà các Quốc gia thành viên phải quyết định biện pháp bảo
hộ hữu hiệu để chống lại những hành vi đó đồng thời Công ước cũng không hạn
chế việc Bảo hộ đối với người nước ngoài theo pháp luật Quốc gia hoặc theo các
Hiệp ước Quốc tế .
Điều 2.2, Công ước ROME
Điều 2, Công ước Geneva
**
Điều 7.1, Công uớc Geneva
**
**



×