Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 106 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI








KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện : CAO PHƯƠNG LIÊN
Lớp : Anh 4 K41- KTNT
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS NGUYỄN NHƯ TIẾN






Hà Nội, 11/2006



1
LỜI MỞ ĐẦU

1 - Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một xu thế tất yếu, không thể
đảo ngƣợc đƣợc. Trong xu thế đó, hệ thống tài chính nói chung và hệ thống
Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam nói riêng không chỉ là huyết mạch của nền
kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình vận hội vƣơn rộng ra phạm vi khu
vực và thế giới. Khi tiến hành hội nhập, các Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nƣớc ngoài mà không có sự
bảo hộ của nhà nƣớc trong khả năng cạnh tranh của các ngân hàng này còn
yếu. Vì vậy, nhiệm vụ trƣớc mắt của các ngân hàng là nâng cao năng lực tài
chính, cải tổ hoạt động và hiện đại hóa ngân hàng một cách toàn diện, triệt để
và mạnh mẽ để đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế hội nhập.
Là một trong bốn Ngân hàng thƣơng mại quốc doanh, Ngân hàng
Ngoại thƣơng Việt Nam trong nhiều năm qua luôn giữ vững thế mạnh, đi đầu
trong hoạt động huy động vốn, thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi, đáp ứng nhu
cầu vốn cho đầu tƣ phát triển nền kinh tế. Trong điều kiện cạnh tranh mạnh
mẽ từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các ngân hàng cổ phần, các ngân
hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài, thị phần huy động
vốn của Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam đang có nguy cơ sụt giảm. Bên
cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thƣơng thể hiện sự bất hợp
lý khi vốn ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn, vốn VND nhỏ, trong khi nhu cầu sử
dụng vốn ngoại tệ nhỏ, vốn VND đang cần để tài trợ trong nƣớc. Hơn nữa,
tiền gửi không kỳ hạn lớn ảnh hƣởng đến tính ổn định của nguồn, gây khó
khăn cho ngân hàng trong cho vay trung và dài hạn. Do đó, việc tăng cƣờng
huy động vốn để có cơ cấu vốn hợp lý trong điều kiện cạnh tranh hiện nay là
rất cần thiết đối với Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam.



2
Nhƣ vậy, có thể nói huy động vốn không phải là vấn đề mới nhƣng
luôn là vấn đề sống còn trong hoạt động ngân hàng và là vấn đề cấp thiết đối
với Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam. Xuất phát từ thực tế đó, ngƣời viết đã
lựa chọn đề tài “ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM ” để làm đề tài
nghiên cứu cho khoá luận của mình.
2 - Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích thực trạng hoạt
động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong thời gian
qua, tìm ra những ƣu điểm và những vƣớng mắc còn tồn tại trong hoạt động
huy động vốn, từ đó đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn
cho Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong thời gian tới.
3 - Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về hoạt
động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam trong giai đoạn
2001 - 2005.
4 - Phƣơng pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng tổng hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau
nhƣ phƣơng pháp tổng hợp và phân tích, phƣơng pháp thống kê, liệt kê, so
sánh và đối chiếu làm cơ sở phân tích và kết hợp những kết quả thống kê với
việc vận dụng lý thuyết để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Mặt khác, ngƣời
viết còn sử dụng các chính sách, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc nói chung
cũng nhƣ Ngân hàng Nhà nƣớc nói riêng để khái quát một cách hệ thống và
khẳng định kết quả mang lại.
5 - Bố cục của khoá luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận đƣợc trình
bày trong 3 chƣơng:



3
Chƣơng I: Vài nét về vốn và huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại
thƣơng Việt Nam
Chƣơng II: Thực trạng hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Ngoại
thƣơng Việt Nam
Chƣơng III: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
Ngoại thƣơng Việt nam.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Nhƣ Tiến -
Giảng viên trƣờng Đại học Ngoại thƣơng, ngƣời đã cho em những kinh
nghiệm bổ ích trong phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cũng nhƣ đã giành
thời gian quý báu chỉ bảo, giúp đỡ em tận tình trong quá trình hoàn thành
khoá luận tôt nghiệp. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong
nhà trƣờng, các anh chị công tác tại phòng vốn Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt
Nam, cùng những ngƣời bạn đã giúp đỡ em thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhƣng do sự phức tạp của đề tài và sự
hạn chế về thời gian nghiên cứu nên chắc chắn em không thể tránh khỏi
những thiếu sót trong khoá luận của mình. Em rất mong nhận đƣợc sự đóng
góp ý kiến từ thầy cô và bạn bè để em có thể hoàn thiện tốt hơn khoá luận của
mình.













4
CHƢƠNG I
VÀI NÉT VỀ VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
I. SƠ LƢỢC VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1. Khái niệm và vai trò của NHTM
Khái niệm NHTM
Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự
phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện
và đỏi hỏi sự phát triển của NH; đến lƣợt mình, sự phát triển của hệ thống NH
trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, thị trƣờng tài chính và các trung gian tài
chính thực hiện chức năng lƣu thông vốn từ những nơi, những cá nhân có vốn
nhàn rỗi đến những cá nhân, tổ chức cần vốn cho các hoạt động của mình.
Trong các kênh dẫn vốn đó thì hệ thống NH đóng vai trò chủ đạo cả về quy
mô lẫn nghiệp vụ.
NH là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế.
NH bao gồm nhiều hình thức tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thƣờng chiếm tỷ trọng
lớn nhất về quy mô và số lƣợng các NH.
Khi nghiên cứu về NHTM, các nhà kinh tế học, các tổ chức tài chính đã
đƣa rất nhiều khái niệm về NHTM. Theo Fredic Miskin thì “ Ngân hàng
Thƣơng mại là một trung gian tài chính, các trung gian tài chính này thu hút
vốn bằng cách phát hành: tiền gửi có thể phát séc (tiền gửi không kì hạn), các
tiền gửi tiết kiệm (là các món tiền gửi có kì hạn thanh toán định trƣớc), sau đó
họ dùng vốn vay này để thực hiện cho vay: cho vay thƣơng mại, cho vay tiêu
dùng, cho vay thế chấp và để mua các chứng khoán của chính phủ, các chứng
khoán của chính quyền địa phƣơng.”



5
Còn Peter Rose thì cho rằng: “ Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Theo luật Các Tổ chức Tín dụng của Việt Nam thì “ Ngân hàng là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thƣờng xuyên là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nghiệp vụ chiết khấu là làm phƣơng tiện thanh toán.”
Nhƣ vậy trong quá trình hình thành và phát triển, các nhà kinh tế học
cũng nhƣ các tổ chức đã đƣa ra rất nhiều khái niệm về NHTM. Thật khó có
thể để đƣa ra một khái niệm chính xác và đầy đủ về NHTM trong mọi giai
đoạn. Sở dĩ có điều này là do hoạt động của NHTM rất đa dạng, các thao tác
trong từng nghiệp vụ lại rất phức tạp và luôn luôn biến động theo sự biến đổi
chung của nền kinh tế. Mặt khác, do trình độ phát triển của nền kinh tế, phong
tục tập quán, hệ thống pháp luật… mỗi nƣớc khác nhau đã dẫn đến quan niệm
về NHTM không đồng nhất. Nhƣng một điều không thể phủ nhận là sự ra đời
của hệ thống NHTM đã đánh dấu một bƣớc phát triển quan trọng trong đời
sống kinh tế xã hội loài ngƣời.
Vai trò của NHTM
NHTM là một trung gian tài chính không thể thiếu đƣợc của một nền
kinh tế. Nó đóng vai trò cầu nối giữa cung và cầu tiền tệ thông qua hoạt động
huy động vốn của những cá nhân, tổ chức thặng dƣ trong chi tiêu tức là thu
nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá dịch vụ và do đó
họ có tiền để tiết kiệm. Sau đó, NHTM chuyển các khoản tiết kiệm này thành
đầu tƣ bằng cách cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu về vốn vay lại. Đó là
những tổ chức, cá nhân tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu
dùng và đầu tƣ vƣợt quá thu nhập; do vậy, họ cần bổ sung thêm vốn. Hoạt

động này giúp đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, nâng cao hiệu quả sản xuất


6
kinh doanh. Tình hình hoạt động của NH phản ánh rất chính xác mức độ phát
triển của nền kinh tế. Do vậy, NH có vai trò quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế, cụ thể nhƣ sau:
- Vai trò trung gian: NHTM với hoạt động huy động vốn và cho vay
đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Nói cách khác, NHTM là
cầu nối giữa những ngƣời tạm thời dƣ thừa vốn và những ngƣời đang cần vốn
bổ sung cho tiêu dùng hay đầu tƣ. Với các hoạt động này, NHTM thực sự
đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho cả ngƣời có vốn, ngƣời cần vốn, cho cả
nền kinh tế xã hội và cho cả bản thân các tổ chức tài chính trung gian. Hoạt
động với tƣ cách là một trung gian tài chính, NHTM đã có những tác động
tích cực đối với nền kinh tế nhƣ: NHTM đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp
thời yêu cầu giữa ngƣời cần vốn và ngƣời có vốn do sự chuyên môn hoá và
thành thạo trong nghiệp vụ; NHTM cũng góp phần giảm bớt những chi phí,
thông tin và giao dịch cho mỗi cá nhân, tổ chức và toàn bộ nền kinh tế.
- Vai trò thanh toán: Ngày nay, NH đã trở thành trung gian thanh toán
lớn nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thay mặt khách hàng, NHTM
thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ dƣới nhiều hình thức nhƣ thanh
toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng L/C, phát triển hệ thống chuyển
tiền điện tử… Ngoài ra, các NH còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau
thông qua hệ thống ngân hàng đại lý. Các hình thức thanh toán đang ngày
càng đƣợc chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất không chỉ trong thanh toán
nội bộ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên
toàn thế giới. Nhƣ vậy, NHTM đã khắc phục đƣợc những bất cập về khoảng
cách địa lý giữa các quốc gia, giúp đẩy nhanh thời gian cũng nhƣ tốc độ
thanhtoán. Kết quả là, quá trình thanh toán đƣợc thực hiện với thời gian và chi
phí hợp lý nhất.

- Vai trò ngƣời bảo lãnh: NHTM là tổ chức có tiềm lực tài chính rất
lớn. Vì vậy, NH có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Nghiệp vụ bảo lãnh


7
của NHTM đang ngày càng phát triển khi xu thế hội nhập đang diễn ra trên
toàn thế giới trong những năm gần đây. Đây là việc các NH cam kết sẽ thanh
toán cho khách hàng khi ngƣời đƣợc bảo lãnh mất khả năng thanh toán (ví dụ
nhƣ phát hành thƣ tín dụng ). NH thƣờng bảo lãnh cho khách hàng của mình
mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán Vai trò này đặc
biệt quan trọng trong mua bán quốc tế, nó giúp thúc đẩy sự hợp tác xuyên
quốc gia.
- Vai trò thực hiện chính sách: các NHTM thực hiện các chính sách
phát triển kinh tế của Nhà nƣớc thông qua các chính sách về đầu tƣ vốn, chính
sách về tín dụng, về lãi suất Ví dụ nhƣ, Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn có những chính sách ƣu đãi về lãi suất đối với các hộ nông
dân. Lãi suất cho vay của ngân hàng này áp dụng cho các tổ chức, cá nhân
thông thƣờng là 1%/tháng, trong khi đó lãi suất cho ngƣời nghèo vay vốn để
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, làm kinh tế nông nghiệp chỉ có
0,8%/ tháng. Thông qua vai trò này, NHTM đã góp phần điều tiết sự tăng
trƣởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện các hoạt động cơ
bản nhƣ: huy động vốn, tín dụng, thanh toán Các hoạt động này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, và bổ trợ cho nhau cùng hoạt
động một cách hiệu quả hơn.
Hoạt động huy động vốn
Đây là hoạt động cơ bản nhất của NHTM. Không một NH nào có thể
tồn tại và phát triển mà không có hoạt động huy động vốn. Nguồn vốn của
NHTM là một yếu tố quyết định đến quy mô hoạt động, uy tín và khả năng

cạnh tranh trên thị trƣờng tài chính. Hoạt động huy động vốn đƣợc ví nhƣ đầu
vào cho quá trình tạo ra các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Một NHTM có thể sử dụng một trong bốn hình thức huy động vốn sau:


8
- Nhận tiền gửi : NH nhận tiền gửi từ các cá nhân, hộ gia đình, các tổ
chức tín dụng khác dƣới hình thức tiền gửi có kì hạn, không kì hạn và các loại
tiền gửi khác. NH áp dụng các mức lãi suất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của
khách hàng đến gửi tiền. Thông thƣờng, thời gian gửi tiền càng dài thì lãi suất
càng cao, tức là tiền gửi theo kỳ hạn năm có lãi suất cao hơn tiền gửi theo kỳ
hạn tháng và tiền gửi không kỳ hạn thƣờng có lãi suất thấp nhất. Tiền gửi
không kỳ hạn cho phép khách hàng có thể rút tiền bất cứ thời điểm nào trong
thời gian giao dịch của ngân hàng.
- Phát hành các giấy tờ có giá : NHTM cũng cũng nhƣ các tổ chức tín
dụng khác, khi đƣợc Thống Đốc NHNN chấp nhận, thì đƣợc phép phát hành
các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu cùng các giấy tờ có giá khác để huy động
vốn từ các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nƣớc.
- Vay vốn của TCTD khác : Khi NHTM không đủ vốn để phục vụ
khách hàng và thực hiện hoạt động kinh doanh của mình thì NHTM có thể
vay vốn từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nƣớc.
- Vay vốn của NHNN : Thực chất đây là việc NHTM vay vốn ngắn
hạn từ NHNN dƣới hình thức tái cấp vốn. NHNN thực hiện việc tái cấp vốn
theo các nghiệp vụ sau: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết
khấu thƣơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác, cho vay có bảo đảm
bằng việc cầm cố thƣơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác (Theo
điều 17, điều 20 Luật NHNN Việt Nam).
Hoạt động tín dụng
Tín dụng là một hoạt động chủ chốt của NHTM để tạo ra tiền. Đây là
nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của NH. Chỉ có lãi suất thu từ nghiệp vụ tín dụng

mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi
phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tƣ Nhìn chung,
các khoản mục thuộc tài sản có của NH, nghiệp vụ tín dụng chiếm tỷ trọng


9
lớn nhất, có thể lên tới 70 đến 80% tài sản có. Các nghiệp vụ tín dụng của
NHTM có thể có các hình thức sau:
- Căn cứ vào thời gian cấp tín dụng: có tín dụng có kỳ hạn và tín dụng
không kỳ hạn.
- Căn cứ theo lĩnh vực đầu tƣ: có tín dụng sản xuất kinh doanh và tín
dụng tiêu dùng.
- Căn cứ theo thành phần kinh tế: có Tín dụng doanh nghiệp Nhà nƣớc,
tín dụng kinh tế tập thể, tín dụng kinh tế tƣ nhân, tín dụng kinh tế cá thể, kinh
tế hỗn hợp.
- Căn cứ theo phƣơng thức hoàn trả: có cho vay hoàn trả một lần và
cho vay trả góp.
- Căn cứ vào kỹ thuật cấp tín dụng: có tín dụng thấu chi, chiết khấu
thƣơng phiếu, tín dụng thuê mua, tín dụng trả góp, tín dụng bảo lãnh, tín dụng
vãng lai, tín dụng cầm đồ
Hoạt động thanh toán
Đây là việc NHTM đại diện cho khách hàng thanh toán những khoản
hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng đã tiêu dùng theo lệnh của khách hàng.
Có hai hình thức thanh toán dùng tiền mặt và không dùng tiền mặt. Thanh
toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ qua chức năng phƣơng
tiện thanh toán giữa các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế thông qua vai trò
trung gian của ngân hàng bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản của ngƣời
này sang tài khoản của ngƣời khác. Trong đó bao gồm các hình thức thanh
toán sau:
- Thanh toán bằng séc: Séc là một lệnh trả tiền do chủ tài khoản ký

phát hoặc ngƣời đƣợc uỷ quyền giao trực tiếp cho ngƣời thụ hƣởng để thanh
toán tiền hàng hoá dịch vụ hoặc để trả nợ.
- Uỷ nhiệm chi: Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản giao
trực tiếp cho ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoặc dịch vụ đã nhận. Uỷ


10
nhiệm chi đƣợc dùng để thanh toán các khoản hàng hoá và dịch vụ hoặc
chuyển tiền giữa hai đơn vị tín nhiệm lẫn nhau.
- Uỷ nhiệm thu: Uỷ nhiệm thu là chứng từ ngƣời bán nhờ ngân hàng
thu hộ tiền hàng hoá dịch vụ đã cung cấp cho ngƣời mua. Khi nhận đƣợc giấy
uỷ nhiệm thu, ngân hàng bên mua phải trích tài khoản của bên mua để thanh
toán trong một ngày làm việc nếu bên mua không đủ tiền trả thì bên mua sẽ
phải chịu một khoản tiền phạt.
- Thanh toán bằng L/C: là một hình thức thanh toán có bảo đảm của
ngân hàng đối với cả ngƣời mua và ngƣời bán. Ngƣời bán nhận đƣợc tiền nếu
cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho ngƣời mua theo đúng hợp đồng. Ngƣời mua
chỉ phải trả tiền khi nhận đƣợc hàng hoá theo đúng hợp đồng.
- Thanh toán bằng thẻ: Đây là một hình thức thanh toán hiện đại có
nhiều tiện ích dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, giúp khách hàng có thể
gửi tiền ở một nơi và rút tiền ở bất kỳ máy rút tiền nào trong hệ thống đƣợc
ATM cho phép. Khách hàng cũng có thể sử dụng thẻ thanh toán để chi trả cho
các dịch vụ hàng ngày của mình.
Ngoài các hoạt động kể trên, NHTM còn thực hiện các hoạt động bảo
lãnh, tài trợ, môi giới…
II. HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG
MẠI
1. Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Khái niệm về vốn
Sự phát triển kinh tế luôn gắn liền với vốn. Trong bất cứ thời kỳ phát

triển kinh tế nào cũng vậy, vốn là điều kiện không thể thiếu đƣợc để thành lập
một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn đối
với sự phát triển kinh tế trƣớc hết là tiền, nhƣng không phải chỉ là vốn bằng
tiền. Mặc dù vốn bằng tiền có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế hàng
hoá tiền tệ


11
Nhƣ vậy, xét theo nghĩa rộng, vốn là toàn bộ những tài sản tồn tại dƣới
tất cả các hình thái mà một xã hội, một đất nƣớc có đƣợc ở một thời điểm hay
một thời kỳ nhất định, có thể chi phối và sử dụng đƣợc cho việc xây dựng,
phát triển đất nƣớc, hoạt động của doanh nghiệp và nhu cầu của hộ gia đình.
Vốn tiền tệ, đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp, là là biểu hiện bằng tiền giá trị
của các tài sản hữu hình, tài sản vô hình, tài sản tài chính đƣợc đầu tƣ vào các
hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại, trong đó chủ yếu là
đầu tƣ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ nhằm tạo ra lợi
nhuận.
NHTM là một tổ chức tài chính thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ,
lấy tiền tệ làm đối tƣợng kinh doanh. Do vậy, vốn của NHTM chủ yếu là vốn
bằng tiền. Vốn của NHTM có mối quan hệ hữu cơ, có tác động qua lại với các
loại vốn khác trong nền kinh tế. Điều này thể hiện rõ nét trong điều kiện nền
kinh tế thị trƣờng - một nền kinh tế mà tại đó quan hệ hàng hoá - tiền tệ phát
triển ở mức cao chƣa từng có trong lịch sử nhân loại. Ngoài nguồn vốn tự có
của mình, doanh nghiệp phải đi vay số vốn còn thiếu mà trong đó phần quan
trọng là vay vốn tại các NHTM. Vậy, vốn của NHTM là những hình thái giá
trị do NHTM tạo lập và sử dụng trong quá trình kinh doanh tiền tệ, tín dụng
và các dịch vụ ngân hàng khác.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý và mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế
học đã đƣa ra nhiều tiêu chí để phân loại vốn trong NHTM. Căn cứ vào thời
hạn của vốn, vốn đƣợc chia thành vốn ngắn hạn (thời hạn dƣới 12 tháng), vốn

trung hạn (thời hạn từ 1 đến 5 năm) và vốn dài hạn (thời hạn trên 5 năm); căn
cứ vào đối tƣợng huy động vốn, vốn gồm có vốn từ dân cƣ, vốn từ các TCKT
và vốn từ thị trƣờng liên NH; căn cứ theo loại tiền có vốn nội tệ và vốn ngoại
tệ; căn cứ vào nguồn gốc của vốn có vốn tự có của NH và vốn huy động từ
các nguồn khác.
Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM


12
Đối tƣợng kinh doanh của NHTM chính là tiền tệ. NHTM thực hiện
các nghiệp vụ tập trung, huy động vốn; sau đó cho vay, phân bổ lại vốn dƣới
hình thức tiền tệ. Nhƣ vậy, nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và
có vai trò quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Vốn có
một số vai trò cơ bản sau trong hoạt động của NHTM.
Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt động kinh doanh
Giống nhƣ bất kì một doanh nghiệp nào khác, NHTM muốn thực hiện
các hoạt động kinh doanh trƣớc hết phải cần có vốn. Vốn phản ánh năng lực
chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với NHTM, vốn vừa là
cơ sở, vừa là đối tƣợng kinh doanh chủ yếu của NHTM. NHTM không thể tổ
chức hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nếu không có hoặc thiếu vốn.
Nói cách khác, vốn chính là điều kiện thiết yếu để thành lập và mở rộng quy
mô hoạt động của các NHTM. Những NH có nhiều vốn là NH có nhiều thế
mạnh trong kinh doanh và một NHchỉ có thể tiến hành hoạt động kinh doanh
đạt hiệu quả tối ƣu khi biết kết hợp hài hoà giữa các nguồn vốn với nhau tạo
thành một cơ cấu hợp lý và ổn định.
Vốn có vai trò quyết định đến quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt
động khác của NHTM
Vốn của NH có tính chất quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối
lƣợng tín dụng, khả năng chi trả, thanh toán cũng nhƣ các hoạt động khác của
NH. Trên thực tế, các NH nhỏ thƣờng có khoản mục đầu tƣ kém đa dạng hơn

so với các NH lớn. So với các NH có vốn lớn hơn thì các NH ít vốn hơn thực
hiện hoạt động tín dụng kém đa dạng hơn với quy mô và phạm vi các khoản
vay cũng nhỏ hơn. Điều này một mặt là do với lƣợng vốn hạn chế hơn,
NHTM này sẽ thu hút đƣợc ít hơn sự đầu tƣ từ các tổ chức, cá nhân do khi gửi
tiền bao giờ ngƣời gửi cũng xem xét uy tín và tiềm lực tài chính của tổ chức
nhận tiền gửi để đảm bảo cho khoản tiền gửi của mình. Mặt khác, sự hạn chế
này còn do giới hạn của luật pháp. Sự tăng trƣởng của quy mô tín dụng phải


13
đảm bảo hệ số an toàn vốn tối thiểu theo quy định. Do đó, NHTM sẽ không
thể mở rộng quy mô tín dụng nếu lƣợng vốn còn hạn chế.
Nhƣ vậy, NHTM chỉ có thể đạt đƣợc mục tiêu tăng trƣởng tín dụng,
nâng cao hiệu quả kinh doanh khi ngân hàng có nguồn vốn dồi dào, tăng
trƣởng ổn định và có cơ cấu hợp lý thông qua việc đảm bảo huy động vốn một
cách hiệu quả.
Vốn đảm bảo uy tín của NHTM
Trong nền kinh tế thị trƣờng, ngày càng nhiều các NHTM đƣợc thành
lập và cạnh tranh lẫn nhau giành thị phần. Để tồn tại và ngày càng phát triển,
mỗi NH đều phải tạo dựng đƣợc uy tín của mình. Điều này phụ thuộc vào kết
quả hoạt động của NH trong nhiều năm. Uy tín đó thể hiện ở khả năng sẵn
sàng thanh toán cho khách hàng, sẵn sàng cung cấp các dịch vụ theo nhu cầu
của thị trƣờng. Vốn khả dụng của NH càng lớn thì khả năng chi trả của NH
càng cao. Vì vậy, xét trong điều kiện các nhân tố khác đều nhƣ nhau, khả
năng thanh toán của NH tỷ lệ thuận với vốn của NH nói chung và vốn khả
dụng nói riêng. Uy tín của NH còn thể hiện ở quy mô vốn chủ sở hữu. Một
NHTM với quy mô vốn chủ sở hữu lớn sẽ tạo dựng đƣợc niềm tin trong công
chúng và bảo đảm phần nào về sức mạnh tài chính của NH trong trƣờng hợp
biến động kinh tế. Tóm lại, với tiềm năng vốn lớn, NH có thể hoạt động kinh
doanh với quy mô ngày càng lớn, tiến hành hoạt động kinh doanh một cách

hiệu quả, từ đó uy tín của NH đƣợc đảm bảo và nâng cao, tăng vị thế của NH
trên thị trƣờng.
Vốn của NHTM là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh
Trong xu hƣớng toàn cầu hoá, các NHTM ngày càng mở rộng cả về số
lƣợng lẫn quy mô, hệ thống NH trong nƣớc và trên toàn thế giới đang hình
thành và ngày càng đƣợc hoàn thiện hơn. Chính vì vậy trong những năm gần
đây, sức cạnh tranh trên thị trƣờng ngân hàng ngày càng mạnh mẽ và quyết
liệt hơn. Năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của


14
NH trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế. Điều này phụ thuộc vào quy mô
vốn, trình độ và phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại của NH. Với nguồn vốn dồi
dào, NHTM có khả năng thu hút nhiều khách hàng vay vốn; doanh số hoạt
động cho vay của NH tăng lên nhanh chóng. Đây cũng là điều kiện để bổ
sung thêm vốn chủ sở hữu cho NH. Vốn chủ sở hữu tăng trƣởng sẽ cung cấp
năng lực tài chính cho sự tăng trƣởng và phát triển của các hình thức dịch vụ,
tăng cƣờng cở sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của NH trong mọi
lĩnh vực. Từ đó, NH sẽ thu hút đƣợc tiền gửi từ nhiều khách hàng hơn.
Bên cạnh đó, vốn lớn sẽ giúp NHTM có đủ khả năng tài chính, kinh
doanh đa năng trên thị trƣờng, không chỉ cho vay mà còn mở rộng hình thức
liên doanh, liên kết, dịch vụ thuê mua Chính những hình thức kinh doanh đa
năng này sẽ giúp phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh, tạo thêm nguồn
vốn và tăng sức cạnh tranh của NHTM trên thƣơng trƣờng.
2. Hoạt động huy động vốn của NHTM
Nhu cầu về vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Vốn là điều kiện ban đầu để thành lập NH. Vốn là nguồn tài trợ chính
cho xây dựng trụ sở NH và mua sắm thiết bị.
Với những vai trò cơ bản nhƣ đã nói ở trên, vốn NH có chức năng quan
trọng là chống đỡ rủi ro cho những ngƣời gửi tiền. Do vậy, vốn tối thiểu luôn

đƣợc các cơ quan chức năng kiểm soát NH quan tâm. Rất nhiều các chỉ tiêu
hoạt động của NH bị ràng buộc với vốn nhƣ mức huy động tối đa, mức cho
vay tối đa cho một khách hàng.
Nhu cầu về vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM ngày càng gia
tăng. Các NH luôn tìm ra các biện pháp để có thể huy động đƣợc nguồn vốn ở
mức tối đa. Thực tế thị trƣờng NH trong những thập niên qua là minh chứng
rõ ràng cho điều này. Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, do
thị trƣờng tài chính chƣa phát triển, dân chúng chƣa quen với vốn cổ phần
nên phần lớn các NH đƣợc thành lập với số vốn thấp (các NHTM quốc doanh


15
có số vốn chỉ khoảng 200 tỷ, các NHTM cổ phần chỉ cần số vốn 5 - 50 tỷ).
Nhƣng yêu cầu về vốn không chỉ dừng lại ở đó. Những năm gần đây, thị
trƣờng tài chính ngày càng phát triển, nhu cầu về vốn cũng nhƣ các dịch vụ
tài chính của các tổ chức, cá nhân ngày càng cao. Nhu cầu này dẫn tới yêu cầu
cấp thiết buộc các NHTM phải mở rộng chi nhánh, thành lập các công ty con
và cũng phải đối đầu với rủi ro cao hơn. Điều này đang buộc các NHTM phải
tăng vốn để mở rộng hoạt động của mình. Đây là quá trình tự tích luỹ hoặc
phát hành cổ phiếu mới. Nhu cầu tăng vốn của NHTM là xu hƣớng quan
trọng và tất yếu khi nền kinh tế trong nƣớc đang có những bƣớc tiến mới.
Các hình thức huy động vốn của NHTM
Nhận tiền gửi của khách hàng
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của
NHTM. Khi NH bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó NH huy
động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cƣ. Tiền gửi là nguồn tiền
quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của NH. Bản chất của
vốn tiền gửi là vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau. NH chỉ có quyền sử dụng
chứ không có quyền sở hữu và phải hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến

hạn hoặc bất cứ khi nào khách hàng có nhu cầu rút vốn.
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM là huy động tối đa các
nguồn vốn trong xã hội để tiến hành cho vay và đầu tƣ nhằm mục đích thu lợi
nhuận. Để gia tăng tiền gửi trong môi trƣờng cạnh tranh và để có đƣợc nguồn
tiền có chất lƣợng ngày càng cao, các NHTM đã đƣa ra và thực hiện nhiều
hình thức nhận tiền gửi khác nhau. Các NHTM tiếp nhận các loại tiền gửi với
khối lƣợng nhiều ít khác nhau, với mọi loại kỳ hạn cơ bản nhƣ sau:
Thứ nhất, tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch)
Đây là tiền của các doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào NH để nhờ NH
giữ và thanh toán hộ. NH mở tài khoản thanh toán cho khách hàng, cho phép


16
khách hàng sử dụng các dịch vụ của NH nhƣ: thẻ, séc Ngày nay, với sự phát
triển mạnh mẽ của dịch vụ NH, với chất lƣợng dịch vụ ngày càng đƣợc nâng
cao, khách hàng ngày càng có xu hƣớng sử dụng dịch vụ NH. Do vậy, các
NHTM có thể huy động đƣợc nguồn vốn khá lớn từ loại tiền gửi này với chi
phí thấp do lãi suất của khoản tiền gửi này nhìn chung là rất thấp. Để thu hút
khách hàng, các NHTM đã đa dạng hoá hình thức tiền gửi này. Một số NH
kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi - chi trội
trên số dƣ có của tài khoản tiền gửi). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình
thức biến tƣớng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này
nhằm cạnh tranh với các TCTD khác. Tuy nhiên, một điều đáng lƣu ý ở đây là
việc sử dụng nguồn tiền này gặp bất lợi do khách hàng có thể rút bất cứ lúc
nào. Điều này đặt NHTM trƣớc rủi ro thanh khoản. Để sử dụng nguồn vốn
này hiệu quả, NHTM cần nghiên cứu kĩ đặc tính kinh doanh, thu nhập, chi
tiêu của khách hàng để có kế hoạch khai thác nguồn vốn này một cách triệt để.
Thứ hai, tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
khác
Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ

đƣợc chi trả sau một thời gian nhất định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện
cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại rất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng
thu cho ngƣời gửi tiền, NH đã đƣa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Ngƣời gửi
không đƣợc sử dụng các dịch vụ thanh toán của tiền gửi thanh toán để áp
dụng cho loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, ngƣời gửi phải đến NH rút tiền
ra và tự mình thực hiện hoạt động thanh toán. Tuy không thuận lợi cho tiêu
dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, nhƣng tiền gửi có kì hạn này lại
đƣợc hƣởng mức lãi suất cao hơn. Thời hạn gửi tiền càng lâu thì lãi suất càng
cao. Tiền gửi có kì hạn là một nguồn vốn mang tính chất ổn định do khách
hàng thông thƣờng chỉ rút tiền khi đến kì hạn. Do đó, các NHTM thƣờng chú
trọng các biện pháp kích thích để huy động loại tiền gửi này.


17
Thứ ba, tiền gửi tiết kiệm của dân cƣ
Các tầng lớp dân cƣ đều có các khoản thu nhập tạm thời chƣa sử dụng.
Chính vì vậy, trong điều kiện có khả năng tiếp cận với NH, họ đều có thể gửi
tiết kiệm nhằm mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm đƣợc lập ra để thu hút vốn của những ngƣời muốn
dành một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính
trong tƣơng lai. Lãi suất áp dụng cho loại tiền này cao hơn nhiều so với tiền
gửi giao dịch. Tiền gửi tiết kiệm cũng bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kì
hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn. Với tiết kiệm không kì hạn, ngƣời gửi có
thể gửi vào và rút ra bất cứ lúc nào tuỳ theo nhu cầu sử dụng của ngƣời gửi
tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn có lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không
kì hạn. Đối với hình thức tiết kiệm có kì hạn, nếu kì hạn gửi càng cao thì lãi
suất ngƣời gửi đƣợc hƣởng sẽ càng cao. Nghĩa là, tiết kiệm có kì hạn 24 tháng
sẽ có lãi suất cao hơn tiết kiệm có kì hạn 12 tháng và cao hơn lãi suất tiết
kiệm kì hạn 6 tháng. Trong thời hạn tiết kiệm, nếu ngƣời gửi rút tiền trƣớc
hạn thì sẽ bị phạt lãi. Các NHTM đang ngày càng mở rộng mạng lƣới huy

động, đƣa ra các hình thức huy động đa năng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn
Thứ tƣ, tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, NHTM
này có thể gửi tiền tại NHTM khác. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
một yêu cầu đặt ra phải có hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ và liên kết
chặt chẽ với nhau. Theo đó, tuy nguồn vốn này không lớn nhƣng quy mô
nguồn vốn này có xu hƣớng tăng do có sự hình thành và phát triển của hệ
thống liên ngân hàng.
Vay vốn
Khi cần phải đáp ứng thanh toán, chi trả cho khách hàng hay nói rộng
hơn là để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, mà vốn tiền gửi đã đƣợc sử
dụng hết thì các NHTM có thể đi vay vốn. Các NHTM huy động vốn vay từ


18
NHNN, từ các NHTM khác, hoặc vay trên thị trƣờng tiền tệ. Vốn vay chỉ
chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận đƣợc trong cơ cấu nguồn vốn, nhƣng nó
rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh
doanh một cách bình thƣờng.
2.2.2.1. Vay Ngân hàng Nhà nước
Vay từ NHNN đƣợc gọi là tiền vay chiết khấu hay “ tiền ứng trƣớc ”.
Trong trƣờng hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thƣờng vay vốn từ NHNN. Đây là
khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả. NHTM dù có hoạt
động hiệu quả đến đâu cũng không hoàn toàn tránh đƣợc những lúc thiếu khả
năng chi trả. Trong trƣờng hợp không huy động đƣợc vốn từ các nguồn khác,
NHNN sẽ là ngƣời cứu cánh cuối cùng của NHTM. Bởi thƣờng vào những
thời điểm NH thiếu vốn thì các NH khác và thị trƣờng cũng đang thiếu vốn.
Hình thức vay vốn NHNN:
- Vay vốn ngắn hạn: là hình thức mà các NHTM xin vay vốn bổ sung
vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ đƣợc vay

khi còn hạn mức tín dụng hoặc trong hạn mức tín dụng mà NH đã thoả thuận.
- Vay tái chiết khấu: Đây là hình thức cho vay chủ yếu của NHNN.
Các NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải đảm bảo
tính hợp lệ, hợp pháp và bảo đảm an toàn. Các thƣơng phiếu đã đƣợc NHTM
chiết khấu sẽ trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, NH mang những thƣơng
phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Đến thời hạn trả nợ, NHTM sẽ nhận
lại thƣơng phiếu và trả một khoản bằng giá trị của chúng. Thông thƣờng,
NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thƣơng phiếu có chất lƣợng và phù hợp
với mục tiêu của NHNN trong từng thời kì. Có thể nói nguồn vốn vay NHNN
là rất quan trọng vì nó giúp cho NH vƣợt qua các khó khăn về thanh khoản,
đảm bảo cho TCTD hoạt động bình thƣờng.
2.2.2.2. Vay các TCTD khác


19
Đây là nguồn các NH vay mƣợn lẫn nhau và vay của các TCTD khác
trên thị trƣờng liên NH. Hoạt động của thị trƣờng liên NH đã hỗ trợ tích cực
cho hoạt động của các NH, bổ sung kịp thời nhu cầu vốn thông qua việc điều
hoà nguồn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Các NH đang thiếu hụt dự
trữ có thể vay mƣợn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Ngƣợc lại, các NH
đang có dự trữ vƣợt yêu cầu do kết dƣ gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy
động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các NH khác vay để tìm kiếm lãi
suất cao hơn. Nguồn vay mƣợn từ các NH khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ
và chi trả cấp bách; trong nhiều trƣờng hợp, nó bổ sung và thay thế cho nguồn
vốn vay từ NHNN.
2.2.2.3. Vay trên thị trường vốn
Các NHTM có thể vay trực tiếp trên thị trƣờng thông qua việc phát
hành các giấy tờ có giá. Những NH có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay
mƣợn đƣợc nhiều hơn. Các NH nhỏ thƣờng khó vay mƣợn trực tiếp bằng cách
này; họ thƣờng phải vay thông qua các NH đại lý hoặc đƣợc bảo lãnh của tổ

chức tài chính có uy tín trên thị trƣờng. Khả năng vay mƣợn còn phụ thuộc
vào sự phát triển của thị trƣờng tài chính. Mỗi NH cần nghiên cứu kĩ thị
trƣờng để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mƣợn thích
hợp. Các giấy tờ có giá mà NHTM có thể phát hành là:
- Kỳ phiếu: Kỳ phiếu NH là giấy nhận nợ ngắn hạn (dƣới 12 tháng) do
NH phát hành nhằm huy động vốn trong dân cƣ. Việc phát hành loại giấy nợ
ngắn hạn này chủ yếu để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh nhất định
của NH nhƣ một dự án, một chƣơng trình kinh tế Là công cụ nợ ngắn hạn,
kỳ phiếu có tính lỏng rất cao, dễ dàng chuyển sang tiền mặt hoặc các hình
thức khác. Mệnh giá, loại tiền và phƣơng thức trả lãi đa dạng của kỳ phiếu đã
đáp ứng khá đầy đủ các nhu cầu gửi vốn khác nhau của ngƣời mua. Do tính
chủ động, lãi suất của kỳ phiếu thƣờng đƣợc ấn định một cách hấp dẫn tuỳ
theo mức độ cần thiết về vốn của NH. Chính nhờ những ƣu điểm này mà việc


20
huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu là một hình thức khá dễ dàng và
linh hoạt. NH có thể huy động lƣợng vốn cần thiết trong khoảng thời gian tối
ƣu nhất nếu đƣa ra mệnh giá và lãi suất hợp lý cho kỳ phiếu phát hành.
- Trái phiếu: Trái phiếu là một giấy nợ dài hạn của NH với cam kết
thanh toán tiền gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán tiền lãi vào những thời
gian xác định với một mức lãi suất xác định tƣơng ứng. Trong điều kiện cạnh
tranh trên thị trƣờng vốn ngày càng cao, các NHTM đang ngày càng đa dạng
hoá các loại trái phiếu nhằm lôi kéo khách hàng để thực hiện thành công kế
hoạch huy động vốn của mình. Trái phiếu đƣợc phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Theo tính chất sở hữu và chuyển nhƣợng có trái phiếu vô danh và
trái phiếu đích danh; theo phƣơng thức trả lãi có trái phiếu trả lãi trƣớc, trái
phiếu trả lãi sau và trái phiếu coupon. Mệnh giá, ngày đáo hạn, lãi suất và
phƣơng thức trả lãi đƣợc ghi rõ trên bề mặt trái phiếu. Các NHTM cũng có
thể phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu.

Trái phiếu tuy không phải là công cụ nợ có tính thanh khoản cao nhƣng chúng
đƣợc mua bán trên thị trƣờng cấp 2.
Lãi suất của trái phiếu thƣờng cao hơn lãi suất của các công cụ nợ khác
và tỷ lệ với kỳ hạn của trái phiếu do trái phiếu là công cụ nợ dài hạn. Mục
đích của việc phát hành trái phiếu là huy động vốn trung và dài hạn (kỳ hạn
lớn hơn 1 năm) phục vụ cho kế hoạch phát triển có quy mô lớn và dài hạn của
ngân hàng.
- Chứng chỉ tiền gửi (CDs): Đây là một loại giấy xác nhận một khoản
tiền đƣợc gửi ở một TCTD. CDs thƣờng có kỳ hạn hơn 12 tháng và trả lãi 6
tháng 1 lần. CDs gồm 2 loại: có thể chuyển nhƣợng và không thể chuyển
nhƣợng. CDs tƣơng đƣơng nhƣ một loại tiền gửi nhƣng nó chỉ có thể đổi
thành tiền khi đáo hạn. Chính vì thế, nó tạo NH một nguồn vốn khá ổn định,
chủ động trong việc kinh doanh hơn. Lãi suất của chứng chỉ tiền gửi có thể là
cố định hoặc thả nổi dựa trên lãi suất của tín phiếu kho bạc, lãi suất thị trƣờng


21
liên ngân hàng London hoặc lãi suất chiết khấu. Các NH phát hành chứng chỉ
tiền gửi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của mình để tài trợ cho các khoản cho vay
mới của khách hàng. Đây là một công cụ huy động vốn tƣơng đối mới nhƣng
lại tỏ ra rất hiệu quả, đặc biệt là tại nơi có thị trƣờng tiền tệ phát triển. Nó
cũng là một công cụ tài chính có tính lỏng tƣơng đối cao, khá hấp dẫn đối với
các nhà đầu tƣ.
Gia tăng vốn chủ sở hữu
Tuy không chiếm một tỷ trọng lớn trong nguồn vốn của NHTM song
vốn chủ sở hữu đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vốn chủ sở hữu đóng vai
trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản, trang trải những thua lỗ về
tài chính đƣa ngân hàng trở lại hoạt động bình thƣờng. Vốn chủ sở hữu là một
bằng chứng về tính an toàn và sức mạnh của NH, tạo niềm tin trong dân
chúng, là sự đảm bảo đối với các chủ nợ, và là điều kiện để mở rộng quy mô

tín dụng, phát triển cơ sở hạ tầng.
Cùng với sự mở rộng hoạt động huy động vốn và cho vay, các NHTM
cũng phải gia tăng vốn chủ sở hữu để đảm bảo tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam đều chƣa đảm bảo
đƣợc yêu cầu này.
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành vốn chủ sở hữu rất đa dạng
tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của NHTM và sự phát triển của
thị trƣờng. Sau đây ta sẽ xem xét các nguồn vốn đó:
Nguồn hình thành ban đầu
Đây là nguồn vốn có khi thành lập NHTM. Tuỳ theo hình thức của mỗi
NH mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là các NHTM
quốc doanh thì vốn ban đầu sẽ do Nhà nƣớc cấp. Nguồn vốn này sẽ đƣợc huy
động từ các cổ đông thông qua việc bán cổ phần hoặc cổ phiếu nếu là NHTM
cổ phần; hoặc do các bên liên doanh liên kết đóng góp nếu là NH liên
doanh…


22
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, các NHTM gia tăng thêm vốn chủ sở hữu
theo nhiều phƣơng thức khác nhau tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Các
NHTM có thể gia tăng thêm vốn bằng cách huy động từ các nguồn sau:
- Nguồn từ lợi nhuận giữ lại: Quá trình mở rộng hoạt động kinh doanh
là tất yếu khách quan của bất kì doanh nghiệp nào cũng nhƣ các NHTM nếu
họ muốn tồn tại và phát triển trên thị trƣờng. Nhu cầu này buộc các NHTM
phải luôn nỗ lực tìm ra các giải pháp để huy động đƣợc nguồn vốn tối ƣu
nhằm phát triển hệ thống chi nhánh, nâng cao trang thiết bị, đa dạng hóa các
dịch vụ… Một trong những hình thức huy động hiệu quả đó là việc chủ NH
gia tăng vốn chủ bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tƣ
trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không. Mặc dù lợi nhuận để lại không

phải là cho không (chi phí của lợi nhuận để lại sẽ bao gồm cả giá trị cao hơn
của số cổ tức đƣợc trả bằng tiền mặt hôm nay so với số cổ tức sẽ nhận đƣợc
trong những năm sắp tới và giá cổ phiếu có thể sẽ thấp hơn do mức chi trả lợi
nhuận bằng tiền mặt bị giảm đi), nhƣng đó vẫn là nguồn vốn có chi phí thấp
hơn so với chi phí phát hành cổ phiếu phổ thông mới. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc
vào từng điều kiện riêng của mỗi NH.
- Bổ sung thêm vốn bằng việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp
thêm…: Để tăng thêm vốn chủ sở hữu, NHTM đƣợc quyền phát hành cổ
phiếu ra công chúng lần đầu hoặc phát hành cổ phiếu bổ sung đối với các NH
đã phát hành cổ phiếu ra công chúng. Bên cạnh đó, nếu là NH quốc doanh, họ
còn có thể gia tăng vốn chủ bằng việc xin Nhà nƣớc cấp thêm vốn. Đặc điểm
của hình thức huy động này là không thƣờng xuyên, song giúp cho NHTM có
đƣợc lƣợng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. Đây là hình thức huy động vốn
để thực hiện các mục tiêu mở rộng quy mô hoạt động của NH, đổi mới trang
thiết bị hoặc đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn chủ của NHNN.
Huy động từ các nguồn vốn khác


23
Cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đa phƣơng, sự phụ thuộc
lẫn nhau của hệ thống kinh tế thế giới, sự hình thành của các công ty đa quốc
gia, nhu cầu về các dịch vụ ký thác ngày càng gia tăng đã thúc đẩy sự phát
triển dịch vụ uỷ thác tại các NHTM. NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác
nhƣ uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tƣ, uỷ thác giải ngân… cho các cá nhân, tổ
chức. Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại NH. Ngoài việc tạo lợi
nhuận từ thu phí dịch vụ, hoạt động này cũng tạo nên nguồn vốn ngắn hạn
cho ngân hàng nhờ sự chênh lệch giữa thời gian thu hộ và chi hộ.
NHTM cũng có thể huy động vốn thông qua việc bán lại các khoản cho
vay. Khi NH có đƣợc các khoản cho vay với lãi suất lớn hơn, NH có thể bán
lại các khoản nợ cũ có lãi suất thấp hơn để có vốn cho vay khoản vay mới.

Nghiệp vụ này cho phép NH loại bỏ các khoản vay có lãi suất thấp ra khỏi
danh mục, tạo chỗ cho các tài khoản có lãi suất cao hơn khi lãi suất thị trƣờng
tăng. Việc bán các khoản tín dụng và thay thế chúng bằng tài sản có tính
thanh khoản cao hơn nhƣ chứng khoán chính phủ có thể làm tăng khả năng
thanh khoản của NH, đáp ứng tốt hơn nhu cầu rút tiền gửi và chi trả tiền mặt.
Hơn nữa, việc bán các khoản cho vay có thể loại bỏ đƣợc rủi ro tín dụng lẫn
rủi ro lãi suất và NH cũng có thể tạo ra thu nhập ngay lập tức thay vì chờ đợi
các khoản vay đến hạn thanh toán.
Nhƣ vậy bán các khoản cho vay là một hình thức huy động vốn với chi
phí vốn rẻ, lại tăng cƣờng đa dạng hoá đầu tƣ từ đó hạn chế rủi ro cho NH.
Nghiệp vụ này khá phổ biến ở những nƣớc phát triển, nhƣng tại Việt Nam
hoạt động này còn mới mẻ. Bởi đó là nghiệp vụ tƣơng đối rủi ro và để phát
triển nó còn đòi hỏi những điều kiện phát triển nhất của thị trƣờng.
Trên đây là một số hình thức huy động vốn khá phổ biến mà các
NHTM đang áp dụng để gia tăng vốn cho hoạt động kinh doanh của mình.



24
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1. Nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NH luôn gắn liền với môi trƣờng kinh tế, chính trị, xã
hội. Các chỉ tiêu kinh tế nhƣ tốc độ tăng trƣởng kinh tế, thu nhập bình quân
trên đầu ngƣời, chỉ số lạm phát có ảnh hƣởng trực tiếp đến các hoạt động
của NH, đặc biệt là đối với hoạt động huy động vốn. Xét trên phƣơng diện
tổng thể, nền kinh tế, chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động kinh
tế phát triển trong đó có hoạt động huy động vốn. Nền kinh tế phát triển dẫn
đến thu nhập của ngƣời dân ngày càng cao; lúc này, ngƣời dân sẽ có “ của ăn

của để ”, làm phát sinh nhu cầu bảo toàn số của cải “ dƣ thừa ” mà họ có đƣợc.
Đó là nhu cầu bảo toàn và phát triển một khoản tiền nhằm phục vụ cho các
mục tiêu cá nhân trong tƣơng lai. Do vậy, số vốn huy động ngày càng dồi dào
do nguồn tiền gửi vào các NHTM ngày càng gia tăng, cơ hội đầu tƣ cũng
đƣợc mở rộng. Một thể chế kinh tế, chính trị, xã hội ổn định mới có thể đảm
bảo tính an toàn cho ngƣời gửi tiền. Khách hàng chỉ gửi tiền khi cảm thấy an
toàn; nếu không có sự ổn định, ngƣời dân, thay vì gửi tiền vào ngân hàng, sẽ
chọn giải pháp mua vàng, mua ngoại tệ mạnh có tính ổn định cao để cất giữ.
Mặt khác, thay vì tồn tại và phát triển một cách tách biệt với thế giới,
xu hƣớng Quốc tế hoá đang ngày càng đƣợc gia tăng: các quan hệ kinh tế - xã
hội đƣợc mở rộng, các loại hình công ty đa quốc gia ngày càng tăng về số
lƣợng, quy mô hoạt động, quan hệ kinh tế đối ngoại, xuất nhập khẩu hàng hoá
ngày càng đƣợc tăng cƣờng. Vì vậy, mọi sự biến động của môi trƣờng kinh tế,
chính trị, xã hội sẽ là một cản trở lớn đối với các doanh nghiệp trong nƣớc khi
đối tác nƣớc ngoài hạn chế hay ồ ạt rút vốn nhằm bảo toàn vốn của mình. Kết
quả là, hoạt động của các doanh nghiệp bị ảnh hƣởng nghiêm trọng và từ đó
gây ảnh hƣởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM.

×