Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 100 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI








KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


Sinh viên thực hiện : Phạm Ngọc Anh
Lớp : Anh 11 K41D- K41E-KTNT
Giáo viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Hoàng ánh








Hà Nội, 11/2006
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

1
MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
I. Một số vấn đề chung về bảo hiểm
1. Lịch sử hình thành và khái niệm về bảo hiểm 3
1.1. Lịch sử hình thành 3
1.2. Khái niệm về bảo hiểm 6
1.3. Phân loại bảo hiểm 7
1.3.1. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm 7
1.3.2. Căn cứ vào đối tượng của bảo hiểm 7
1.3.3. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm 8
1.3.4. Căn cứ vào quy định của pháp luật về bảo hiểm 8
2. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm 8
2.1. Nguyên tắc bồi thường 8
2.2. Bảo hiểm rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc chắn 9
2.3. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối 9
2.4. Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm 10
2.5. Nguyên tắc thế quyền 10
3. Các vai trò của bảo hiểm 10
3.1. Bồi thường tổn thất 10
3.2. Giảm bớt lo ngại 11
3.3. Tạo lập quỹ đầu tư 11
3.4. Ngăn ngừa tổn thất 12

3.5. Đẩy mạnh tín dụng 12
II. Khái quát chung về năng lực cạnh tranh
1. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh 13
1.1. Khái niệm 13
1.2. Các nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 14
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

2
1.2.1. Năng lực tài chính 14
1.2.2. Nguồn nhân lực 15
1.2.3. Chất lượng sản phẩm 16
1.2.4. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 16
1.2.5. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp 17
1.3. Các nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm
1.3.1. Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm 18
1.3.2. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm 19
1.3.3. Sản phẩm bảo hiểm 20
1.3.4. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm 21
1.3.5. Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm 22
2. Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo
hiểm
2.1. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 23
2.2. Các nhân tố thuộc môi trường ngành 26
III. Năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp bảo hiểm trên thế giới
1. Tập đoàn bảo hiểm quốc tế Mỹ AIG 28
2. Công ty bảo hiểm New York Life 30
CHƢƠNG II: NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. Quá trình hình thành và phát triển của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam
II. Hoạt động của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1. Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh bảo hiểm 34
2. Đối tượng tham gia bảo hiểm 37
3. Các loại hình bảo hiểm 39
4. Doanh thu phí bảo hiểm 41
5. Thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm 44
6. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm 46
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

3
III. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc Từ 48
1. Năng lực tài chính 49
2. Nguồn nhân lực 51
3. Sản phẩm bảo hiểm 52
4. Chất lượng hoạt động 54
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
I. Mục tiêu và quan điểm phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam giai
đoạn 2003-2010 56
1. Mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2003-2010
1.1. Mục tiêu chung 56
1.2. Một số chỉ tiêu cụ thể 57
2. Quan điểm của Chính phủ về phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam

trong giai đoạn tới 57
2.1. Quan điểm của Chính phủ về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước 57
2.2. Quan điểm của Chính phủ về hội nhập thị trường bảo hiểm trong nước
với thị trường bảo hiểm quốc tế 59
II. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam 61
1.1. Mở ra nhiều cơ hội kinh doanh 61
1.2. Tăng nhu cầu về bảo hiểm từ dân cư 61
1.3. Đa dạng hoá các loại hình hoạt động 62
1.4. Tăng khả năng ứng dụng công nghệ thông tin 62
1.5. Mở rộng thị trường xuất khẩu 63
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

4
2. Thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
2.1. Cạnh tranh ngày càng gay gắt 63
2.2. Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế 65
2.3. Quy mô thị trường bảo hiểm còn nhỏ 66
2.4. Sản phẩm bảo hiểm chưa đa dạng 68
2.5. Yêu cầu về chất lượng dịch vụ cao hơn 68
2.6. Gian lận, trục lợi bảo hiểm gia tăng 69
2.7. Khả năng thị trường bảo hiểm có thể chững lại 69
III. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Nhóm giải pháp vĩ mô 71

1.1. Giải pháp về phía Nhà nước 71
1.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh 71
1.1.2. Tạo ra môi trường cạnh tranh thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp
1.1.3. Tăng cường chức năng giám sát của Nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm 74
1.2. Giải pháp về phía Hiệp hội bảo hiểm 76
1.2.1. Nâng cao vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 76
1.2.2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho Hiệp hội 77
2. Nhóm giải pháp vi mô 78
2.1. Các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm
2.1.1. Giải pháp tăng nguồn vốn kinh doanh 78
2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp bảo hiểm
78
2.2. Giải pháp nâng cao nguồn nhân lực cỉa doanh nghiệp bảo hiểm
2.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp bảo
hiểm 79
2.2.2. Nâng cao chất lượng của độn ngũ quản lý bảo hiểm 80
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

5
2.3. Giải pháp nhằm đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm bảo hiểm
2.3.1. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường 81
2.3.2. Đa dạng hoá các kênh phân phối 82
2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
2.4.1. Hiện đại hoá công nghệ quản lý, chú trọng công tác kiểm tra , giám sát
trong doanh nghiệp 83
2.4.2. Xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả trong điều kiện mới 84

2.4.3. Nâng cao hiệu quả đầu tư 86
Kết luận 87



















Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

6
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập thị trường tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói
riêng đang là một xu thế tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế. Trong đó, năng lực cạnh tranh là một yếu tố quyết định đối với mỗi
doanh nghiệp trong quá trình hội nhập vì bản chất của cạnh tranh trong quá
trình hội nhập là doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, và trình độ phát triển
cao hơn. Cũng như nhiều ngành kinh tế khác, ngành kinh doanh dịch vụ bảo
hiểm cũng không nằm ngoài quy luật này. Ở Việt Nam, sự có mặt của các
Công ty bảo hiểm nước ngoài và các Công ty bảo hiểm nhiều thành phần
trong nước đã làm cho vấn đề cạnh tranh ngày càng trở nên sôi động hơn. Để
khai thác thị trường bảo hiểm đạt hiệu quả cao nhất, mỗi doanh nghiệp bảo
hiểm đều có biện pháp cạnh tranh riêng, tuỳ thuộc vào năng lực của mỗi
doanh nghiệp. Tuy nhiên, với xu thế hội nhập như vũ bão, các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam muốn khẳng định vị thế trên thị trường và để không bị
thua thiệt trong quá trình cạnh tranh bắt buộc các doanh nghiệp bảo hiểm phải
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Sau hơn 10 năm mở cửa thị trường bảo hiểm, đến nay trên thị trường
bảo hiểm đã có 32 doanh nghiệp hoạt động trong các vĩnh vực bảo hiểm nhân
thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Ngoài ra có
hơn 30 văn phòng đại diện của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài. Tốc độ tăng
trưởng bình quân của thị trường bảo hiểm giai đoạn 2001-2005 đạt trên 32%/
năm; quy mô thị trường bảo hiểm không ngừng được mở rộng, doanh thu phí
đạt xấp xỉ 16.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên 2% GDP năm 2005. Thị trường
bảo hiểm Việt Nam đang phát triển với tốc độ phát triển mạnh mẽ, cùng với
sự góp mặt của ngày càng nhiều của các doanh nghiệp, tổ chức bảo hiểm
trong và ngoài nước nên mức độ cạnh tranh trong ngành ngày càng gay gắt và
quyết liệt hơn. Vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT


7
hiểm ngày càng trở nên cấp thiết. Đó là lí do vì sao vấn đề "Nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế" được tác giả chọn làm đề tài của Khoá luận tốt
nghiệp.
Kết cấu của Khoá luận ngoài phần mở đầu, phần kết luận, gồm 3
chương sau:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Em xin chân thành cảm các Thầy, các Cô ở khoa Kinh tế ngoại thương
đã nhiệt tình giảng dạy, truyền bá những kiến thức quý báu giúp em có nền
tảng khoa học khi viết Khoá luận tốt nghiệp. Em xin gửi lời cám ơn và sự biết
ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoàng Ánh, người đã tận tình hướng dẫn em
trong quá trình viết Khoá luận này.
Do trình độ của bản thân còn hạn chế và do đề tài được nghiên cứu
trong điều kiện công tác thống kê của toàn ngành chưa hoàn thiện nên Khoá
luận tốt nghiệp không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự
đóng góp của các Thầy, Cô, bạn bè và những người quan tâm.

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2006
Sinh viên
Phạm Ngọc Anh


Khoá luận tốt nghiệp



Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

8
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
I. Một số vấn đề chung về bảo hiểm
1. Lịch sử hình thành và khái niệm về bảo hiểm
1.1. Lịch sử hình thành khái niệm về bảo hiểm
Nhu cầu an toàn luôn đi đôi với sự tồn tại và phát triển của loài người.
Con người luôn tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình trước
những bất hạnh, rủi ro của số phận. Ngay từ thời Tiền sử đã xuất hiện các tổ
chức có hình thức gần giống bảo hiểm. Từ thời Trung cổ, các quy tắc về bảo
hiểm hàng hải được hình thành, song phải đến thế kỷ thứ 19 thì bảo hiểm hiện
đại mới phát triển kéo theo sự ra đời của các loại hình bảo hiểm.
Thời Tiền sử:
Năm 4500 trước Công Nguyên, các nhà khảo cổ đã tìm được những
vết tích chứng minh sự tồn tại của các quỹ tương hỗ của các thợ tạc đá Ai Cập
cổ đại. Mục đích của quỹ là giúp đỡ những ai chẳng may bị tai nạn trong quá
trình lao động. Đấy là ý niệm đầu tiên về bảo hiểm "lấy số đông bù số ít".
Năm 3000 trước Công Nguyên, tại Trung Quốc, các lái buôn đã biết
phân chia hàng hoá ra nhiều thuyền nhỏ thay vì chuyên chở tất cả trên một
chiếc thuyền lớn, để tránh tổn thất toàn bộ khi lưu thông. Đấy là ý niệm
"không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ" và cũng là nguyên lý phân tán rủi ro
trong bảo hiểm.
Năm 2250 trước Công Nguyên, tại Babylon, các nhà buôn đã thuê
những người chuyên chở hàng hoá bằng lạc đà (gọi là Darmathe) vận chuyển
hàng hoá với điều kiện là nếu kinh doanh suôn sẻ, các nhà buôn sẽ phân chia
cho họ phân nửa tiền lãi, ngược lại nếu bị lỗ vốn, các Darmathe sẽ phải đền

bù. Tuy nhiên nếu hàng hoá bị cướp bóc mà không có sự đồng loã của các
Darmathe thì họ khỏi phải bồi thường. Đây là khái niệm "miễn trách" trong
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

9
ngành hàng hải, được áp dụng cho đến ngày trong bảo hiểm vận chuyển hàng
hoá nói chung.
Năm 916 trước Công Nguyên, tại Rhodes, Hoàng đế xứ này đã ban
hành các đạo luật để bảo vệ các thương gia. Chủ hàng, chủ tàu nào không bị
hy sinh trong biễn cố hàng hải, phải bù đắp cho chủ hàng, chủ tàu bị thiệt hại
vì phải hy sinh hàng hoá để cứu tàu, cứu hàng khi con tàu gặp tai nạn. Đây là
khái niệm "tổn thất chung" được sử dụng sau này trong bảo hiểm hàng hải.
Thời Trung cổ:
Trong số các dấu tích gây ấn tượng từ thời Trung Cổ, có các kho lúa
nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Vì
vậy, ý tưởng về việc lập một quỹ chung (trong trường hợp này là quỹ lương
thực) đã xuất hiện trong tiềm thức của con người.
Vào cuối thế kỷ XV, khi chân Âu thực hiện những chuyến đi khai phá
tới châu Á và châu Mỹ, ý tưởng về rủi ro và thành lập một quỹ chung đã xuất
hiện cùng một lúc. Do điều kiện đi lại (phần lớn bằng tàu thuyền) khó khăn và
có thể gặp nhiều rủi ro bất ngờ như: bão táp, bị chìm do quá tải…nên những
người tham gia đầu tư vào những chuyến đi mạo hiểm đó cảm thấy sự cần
thiết phải cùng nhau chia sẻ rủi ro. Người ta đã tìm ra hai cách nhằm đáp ứng
nhu cầu này. Cách thứ nhất là thành lập một liên doanh có vốn góp cổ phần,
theo đó một nhóm nhà đầu tư cùng đầu tư vào một đội thuyền chở hàng
chung, cùng chia sẻ rủi ro khi xảy ra tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên
doanh thu được. Cách thứ hai là chủ tàu hay chủ hàng thuộc con tàu được bảo

hiểm sẽ được đền bù khi tàu gặp tai nạn. Theo cách này, một số cá nhân hay
công ty thu phí bảo hiểm bằng tiền mặt để đổi lấy một cam kết sẽ bồi thường
cho chủ tàu, chủ hàng trong trường hợp tổn thất xảy ra.
1

Từ những ý niệm thô sơ nói trên, trải qua thời gian hàng trăm năm, con
người đã tổng kết lại, thể chế hoá bằng các kỹ thuật bảo hiểm, nguyên tắc bảo
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

10
hiểm, để hình thành khái niệm bảo hiểm một cách khoa học. Từ đó, người ta đã
xây dựng quy tắc, điều khoản bảo hiểm làm cơ sở cho việc ký kết hợp đồng.
Có thể nói bảo hiểm hàng hải là hình thức đầu tiên của ngành bảo
hiểm. Một trong những đơn bảo hiểm đầu tiên mà người ta tìm thấy là đơn
bảo hiểm cấp vào ngày 23/10/ 1347 tại Genoa (Italia). Năm 1680 đánh dấu
bước hình thành đầu tiên của tập đoàn bảo hiểm Anh quốc Lloyd’s ở Luân
Đôn, khi William Lloyd mở quán cà phê ở Luân Đôn làm nơi các nhà bảo
hiểm hàng hải gặp gỡ các chủ tàu, nhà buôn và thuyền trưởng. Kể từ đó bảo
hiểm mới trở thành một ngành kinh doanh có tổ chức.
Bảo hiểm hoả hoạn ra đời ngay sau bảo hiểm hàng hải vào thế kỷ XVII.
Vào thời kỳ đó, tại những thành phố đông đúc của châu Âu, hầu hết nhà cửa
đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để sưởi ấm, đun nấu và chiếu sáng nên
nguy cơ xảy ra hoả hoạn rất cao. Vụ cháy thảm khốc nhất nước Anh vào năm
1666 đã thiêu huỷ 13.000 ngôi nhà, hàng nghìn người bị thiệt mạng đã làm
nảy sinh nhu cầu bảo hiểm hoả hoạn. Vào năm 1667, công ty bảo hiểm hoả
hoạn đầu tiên ra đời tại nước Anh có tên là “Fire Office”.
Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất

hiện. Vào năm 1583, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ Anh quốc lần đầu được xác
lập, nhưng chưa được người ta hưởng ứng mạnh mẽ lắm. Tại Hoa Kỳ, năm
1759, Công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên được thành lập dưới hình thức một
tập đoàn, song tập đoàn chỉ đảm bảo cho các thành viên của nhà thờ mà thôi.
Đến năm 1762, tại Anh, người ta đã thành lập "Hội Đảm bảo công bằng cho
người sống và người thừa kế", đây là công ty đầu tiên thực hiện bảo hiểm
nhân thọ cho cộng đồng.
Vào cuối thế kỷ XIX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra như vũ
bão trên toàn thế giới đã làm nảy sinh nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh
doanh. Nhiều loại hình bảo hiểm mới ra đời để đáp ứng nhu cầu kịp thời của


1
David Band(2000), Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành, trường Đại học quốc gia Pari, NXB Tài chính
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

11
con người như bảo hiểm môtô xe máy, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo
hiểm hàng không…
Tóm lại, quá trình hình thành và phát triển của bảo hiểm là do nhu cầu
khách quan của con người. Đời sống của con người ngày càng được nâng cao
thì nhu cầu về mức độ đảm bảo an toàn và các loại hình bảo hiểm ngày càng
lớn và phong phú. Bảo hiểm ngày càng trở nên quan trọng, nó là động lực
phát triển kinh tế và ổn định đời sống của mỗi cá nhân.
1.2. Khái niệm về bảo hiểm
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về bảo hiểm đang được sử dụng trên
thị trường bảo hiểm thế giới, nó tuỳ thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực

nhất định. Các khái niệm sau là những khái niệm được thừa nhận rộng rãi
nhất trên thế giới.
Theo Uỷ ban Thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội Bảo hiểm và rủi ro Hoa
Kỳ thì: “Bảo hiểm là việc chuyển giao những rủi ro do các tổn thất bất ngờ
và ngẫu nhiên gây ra từ người được bảo hiểm sang cho người bảo hiểm khi
họ cam kết bồi thường cho những tổn thất này, cung cấp các quyền lợi bằng
tiền khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các dịch vụ liên quan đến rủi ro cho
người được bảo hiểm”.
Theo Hiệp hội Các nhà bảo hiểm Anh thì: “ Bảo hiểm là sự thoả thuận
qua đó một bên (người bảo hiểm) hứa sẽ thanh toán cho bên kia (người được
bảo hiểm hay người tham gia bảo bảo hiểm) một khoản tiền nếu sự cố gây ra
tổn thất tài chính cho người được bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những
tổn thất này được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm sang người bảo
hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, người bảo hiểm đòi hỏi
người được bảo hiểm một khoản tiền, đó là phí bảo hiểm”.
Khái niệm được sử dụng rộng rãi tại thị trường Châu Á đó là: “Bảo
hiểm là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít người cho
nhiều người có khả năng chịu rủi ro nào đó thông qua việc tổ chức ra một
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

12
quỹ tài chính tập trung huy động từ các cá nhân, tổ chức tham gia bảo hiểm
dưới dạng phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc bù đắp những tổn thất do những
rủi ro đó gây ra".
2

Tác giả dùng khái niệm "bảo hiểm" được thừa nhận rộng rãi nhất tại thị

trường châu Á trên đây để sử dụng cho Khoá luận này. Đây là khái niệm đã
khái quát đầy đủ nhất bản chất và đặc điểm của bảo hiểm.
1.3. Phân loại bảo hiểm
1.3.1. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm:
 Bảo hiểm xã hội (social insurance): là chế độ bảo hiểm của Nhà nước,
của đoàn thể xã hội hoặc của các công ty nhằm trợ cấp cho các viên chức
nhà nước, người làm công …trong trường hợp ốm đau bệnh tật, bị chết
hoặc bị tai nạn trong khi làm việc, về hưu. Bảo hiểm xã hội có đặc điểm: có
tính chất bắt buộc; theo luật lệ quy định chung; không tính đến những rủi ro
cụ thể; không nhằm mục đích kinh doanh; chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước.
 Bảo hiểm thƣơng mại (commercial insurance): là loại hình bảo hiểm
mang tính chất kinh doanh kiếm lời. Loại bảo hiểm này có đặc điểm: không
bắt buộc; có tính đến từng đối tượng, từng rủi ro cụ thể; nhằm mục đích
kinh doanh; không hoàn toàn phụ thuộc vào sự quản lý của Nhà nước…
1.3.2. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm:
 Bảo hiểm tài sản: là loại hình bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo
hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, huỷ hoại về vật
chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm
căn cứ vào thiệt hại thực tế và mức độ bảo đảm hợp đồng.
 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: đối tượng bảo hiểm trong loại hình này là
trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba hay đối
với sản phẩm…


2
Jerome Yeatman (2001), Trường Quốc gia bảo hiểm Pari, Giáo khoa quốc tế về bảo hiểm, NXB Thống Kê
Khoá luận tốt nghiệp



Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

13
 Bảo hiểm con ngƣời: đối tượng bảo hiểm là con người, bộ phận cơ thể
của con người hay các vấn đề có liên quan như tuổi thọ, tính mạng, sức
khoẻ, tai nạn…
1.3.3. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm:
 Bảo hiểm nhân thọ: là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của con người
nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời hạn
bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ
vĩnh viễn.
 Bảo hiểm phi nhân thọ: gồm các loại bảo hiểm còn lại khác như:
- Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người
- Bảo hiểm hàng hải, gồm bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm chủ
tàu và bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
- Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại…
1.3.4. Căn cứ vào quy định của pháp luật:
 Bảo hiểm tự nguyện: là loại bảo hiểm mà hợp đồng được ký kết dựa hoàn
toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm.
 Bảo hiểm bắt buộc: được hình thành trên cơ sở pháp luật quy định nhằm
bảo vệ lợi ích của người được bảo hiểm trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi
ích của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Các hoạt động nguy hiểm dẫn đến tổn
thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự
nghề nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này.
3

2. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm
Bảo hiểm hoạt động dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau đây:
2.1. Nguyên tắc bồi thường (indemnity)
Đây là một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của bảo

hiểm. Theo nguyên tắc này, khi có tổn thất xảy ra người bảo hiểm phải bồi


3
Nguyến Ngọc Định (2000), Lý thuyết về bảo hiểm, NXB Tài chính, trang 18
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

14
thường như thế nào đó để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài
chính như trước khi có tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Một hợp đồng
bảo hiểm thường chỉ rõ rằng người được bảo hiểm không bao giờ có thể thu
được nhiều hơn giá trị bằng tiền của tổn thất. Mục đích của nguyên tắc này
ngăn ngừa người được bảo hiểm thu lợi từ bảo hiểm và giảm các rủi ro về đạo
đức mà người được bảo hiểm cố tình vi phạm.
2.2. Bảo hiểm một rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc chắn
(fortuity not certainty)
Người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm một rủi ro tức là bảo hiểm một sự
cố, một tai nạn, tai hoạ, xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn
của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, cũng như chỉ
bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro gây ra chứ không phải bồi
thường cho những thiệt hại chắc chắn, đương nhiên xảy ra.
2.3. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối (utmost good faith)
Một hợp đồng bảo hiểm luôn phải được dựa trên nguyên tắc trung thực
tuyệt đối. Điều này có nghĩa là tính trung thực trong hợp đồng bảo hiểm
thường cao hơn các hợp đồng khác. Theo nguyên tắc này, hai bên của mối
quan hệ bảo hiểm – người bảo hiểm và người được bảo hiểm – phải tuyệt đối
trung thực với nhau, tin tưởng lẫn nhau, không được lừa dối nhau. Nếu một

trong hai bên vi phạm thì hợp đồng bảo hiểm trở nên vô hiệu.
Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác các chi tiết liên quan đến
đối tượng bảo hiểm; phải thông báo kịp thời những thay đổi về đối tượng bảo
hiểm, về rủi ro, về những mối đe doạ nguy hiểm hay làm tăng thêm rủi ro…
mà mình biết được hoặc đáng lẽ phải biết, cho người bảo hiểm; không được
mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đó đã bị
tổn thất.
2.4. Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm (insurable interest)
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

15
Theo nguyên tắc này, người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm phải
có lợi ích bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc sẽ có
trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hải, lợi ích bảo hiểm không
nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng nhất thiết phải có khi
xảy ra tổn thất.
2.5. Nguyên tắc thế quyền (subrogation)
Theo nguyên tắc này, người được bảo hiểm sau khi bồi thường cho
người được bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi hỏi
người thứ ba có trách nhiệm bồi thường cho mình. Tức là người bảo hiểm có
quyền đòi một bên thứ ba nào đó sơ xuất gây ra tổn thất những chi phí đã trả
cho người được bảo hiểm. Mục đích của nguyên tắc này một mặt ngăn ngừa
người được bảo hiểm đòi bồi thường hai lần đối với một tổn thất, điều này vi
phạm nguyên tắc bồi thường ở trên. Mặt khác, nguyên tắc này bắt buộc người
có lỗi phải chịu trách nhiệm đối với tổn thất mà họ gây ra.
3. Vai trò của bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm là cần thiết do có sự tồn tại khách quan của rủi ro.

Mục đích của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia bảo
hiểm, để từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn
vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bảo hiểm có vai trò to lớn đối
với nền kinh tế quốc dân và đời sống nhân dân, được thể hiện ở những mặt
chủ yếu sau:
3.1. Bồi thường tổn thất
Bồi thường thiệt hại là một lợi ích quan trọng đối với xã hội nói chung
và của bản thân mỗi cá nhân nói riêng. Bồi thường cho phép cá nhân và hộ
gia đình khôi phục tình trạng tài chính của mình sau khi tổn thất xảy ra. Qua
đó, họ có thể duy trì được sự ổn định kinh tế do một phần hoặc toàn bộ tổn
thất đã được phục hồi. Như vậy, họ không cần đến sự giúp đỡ của cá quỹ
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

16
phúc lợi xã hội, hay trợ cấp của Chính phủ, cũng như không cần đến sự hỗ trợ
tài chính của họ hàng và bạn bè.
Việc bồi thường được thực hiện đối với các doanh nghiệp cũng đem lại
lợi ích lớn cho xã hội. Sau khi tổn thất xảy ra, bồi thường cho phép các doanh
nghiệp được phục hồi lại hoạt động kinh doanh của mình, công nhân tiếp tục
có việc làm. Các nhà cung cấp tiếp tục có hợp đồng và người tiêu dùng vẫn
nhận được các hàng hoá dịch vụ mà họ mong muốn. Nhà nước cũng được lợi
do các khoản thuế vẫn thu được. Tóm lại, việc bồi thường thiệt hại đóng góp
rất nhiều cho sự ổn định của các hộ gia đình và các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh, đó là lợi ích kinh tế xã hội quan trọng nhất của bảo hiểm.
3.2. Giảm bớt lo ngại
Một lợi ích khác của bảo hiểm là giảm bớt các mối lo ngại của con
người. Điều này đúng cả trước và sau khi tổn thất. Ví dụ, khi những người trụ

cột gia đình sở hữu các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đủ lớn, họ sẽ ít lo lắng về
mặt tài chính của những người ăn theo trong trường hợp họ chết sớm hay
những người tham gia bảo hiểm tai nạn sẽ không phải lo lắng nhiều đến thu
nhập của mình nếu không may bị ốm nặng hay gặp tai nạn bất ngờ và những
người chủ tài sản một khi đã tham gia bảo hiểm tài sản của mình thì cũng yên
tâm vì họ sẽ được bồi thường nếu gặp tổn thất. Các mối lo ngại qua đó mà
giảm đi vì người ta biết mình đã được bảo hiểm.
3.3. Tạo lập quỹ đầu tư
Các công ty bảo hiểm là những nhà đầu tư cung cấp những nguồn vốn
dài hạn cho Chính phủ và các ngành công nghiệp thông qua huy động quỹ từ
các cổ đông và người tham gia bảo hiểm.
Đầu tư tài sản là lĩnh vực mà các công ty bảo hiểm nhân thọ tiến hành
đầu tư trong nhiều năm, điều này có được nhờ tính chất hoạt động kinh doanh
của loại hình bảo hiểm này. Các hợp đồng nhân thọ có hiệu lực nhiều năm,
trong thời gian này người tham gia bảo hiểm đóng những khoản phí đều đặn,
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

17
sau khi trích lập quỹ dự trữ trả cho các hợp đồng đáo hạn và những tổn thất,
hàng năm các công ty bảo hiểm nhân thọ luôn có những khoản tiền nhàn rỗi
rất lớn. Với các khoản tiền nhàn rỗi này và vốn tự có của mình, trước đây họ
thường đầu tư vào trái phiếu Chính phủ và các chứng khoán có lãi suất cố
định. Ngày nay, để bắt kịp với tốc độ lạm phát và chi phí gia tăng, các công ty
bảo hiểm đã mở rộng các hình thứ đầu tư của mình: đầu tư vào cổ phiếu
thường, đầu tư xây dựng và kinh doanh bất động sản, cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vay, phát hành chứng khoán bảo trợ cho các dự án phát triển sản
phẩm và công nghệ mới.

Nhờ những khoản đầu tư của các công ty bảo hiểm, nguồn vốn của xã
hội được gia tăng đáng kể, điều này giúp cho các doanh nghiệp có thể đa dạng
hoá khoản vay và giảm phí vốn, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3.4. Ngăn ngừa tổn thất
Ngăn ngừa tổn thất là một lợi ích quan trọng khác của bảo hiểm. Các
công ty bảo hiểm rất tích cực tham gia vào các chương trình đề phòng và hạn
chế tổn thất. Họ cũng sử dụng một lượng lớn cán bộ làm công tác ngăn ngừa
tổn thất bao gồm các kỹ sư an toàn, chuyên gia trong phòng cháy và tai nạn
nghề nghiệp, chăm sóc y tế và trách nhiệm sản phẩm. Một số hoạt động ngăn
ngừa tổn thất quan trọng mà các công ty bảo hiểm thường tham gia như : an
toàn cho đường cao tốc giảm tai nạn chết người, ngăn ngừa hoả hoạn, giảm
các bệnh nghề nghiệp, chống mất cắp ôtô, ngăn ngừa và bảo vệ những tổn
thất do phá hoại, ngăn ngừa việc lưu hành những sản phẩm khuyết tật, phòng
chống nổ nồi hơi Các hoạt động đề phòng, ngăn ngừa tổn thất giảm thiểu cả
tổn thất trực tiếp và gián tiếp hay hậu quả của chúng, qua đó mang lại lợi ích
cho toàn xã hội.
3.5. Đẩy mạnh tín dụng
Bảo hiểm là một công cụ hữu hiệu của các tổ chức tín dụng trong việc
hạn chế rủi ro trong việc thu hồi các khoản nợ bằng cách yêu cầu người đi vay
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

18
phải tham gia bảo hiểm tài sản thế chấp hoặc tham gia bảo hiểm nhân thọ bản
thân họ với giá trị hợp tương đương với khoản vay, với điều kiện người
hưởng lợi là các tổ chức cho vay. Trong trường hợp, tài sản thế chấp bị phá
huỷ hoặc người đi vay chết hoặc bị thương tật không có khả năng thanh toán
nợ thì các tổ chức tín dụng vẫn có thể thu hồi nợ trên cơ sở bồi thường của

các công ty bảo hiểm. Trong thực tế, các ngân hàng cung cấp tín dụng để các
công ty hay hộ gia đình thực hiện mua tài sản (dây chuyền công nghệ, máy
móc thiết bị, xe hơi ) trả góp thì họ thường bắt buộc tham gia bảo hiểm vật
chất cho các tài sản này. Như vậy, bảo hiểm có tác dụng thúc đẩy tín dụng cá
nhân và doanh nghiệp trong phạm vi toàn xã hội.
II. Khái quát chung về năng lực cạnh tranh
1. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh (competitiveness)
1.1. Khái niệm
Năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định đối với doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường và nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vì
bản chất của cạnh tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập là quá trình doanh
nghiệp trong nước phải trực tiếp cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài có
tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, trình độ phát triển cao hơn. Như vậy, hiểu
khái niệm "năng lực cạnh tranh" góp phần giúp cho các doanh nghiệp định
hướng phát triển năng lực cạnh tranh của mình rõ ràng hơn trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét
qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Theo M.Porter "năng
lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình
để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt của sản phẩm".
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa kết hợp cho cả doanh
nghiệp, ngành và quốc gia như sau: "Sức cạnh tranh là khả năng của các
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

19
doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu

nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế". Định nghĩa này được đánh
giá là phù hợp và phản ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên
hệ gắn kết với hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng
thu nhập và mức sống của nhân dân.
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp "là khả năng có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh, mở
rộng thị phần và tăng lợi nhuận thông qua một số chỉ tiêu như năng suất, chất
lượng, công nghệ, sự khác biệt về hàng hoá dịch vụ được cung cấp, giá trị
tăng thêm, chi phí sản xuất là khả năng của doanh nghiệp thực hiện tốt hơn
đối thủ cạnh tranh trong việc đạt mục tiêu quan trọng nhất: lợi nhuận". Có
thể nói, khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà WEF đưa ra
đã tóm lược được nội dung của hầu hết các định nghĩa về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp được đưa ra trên thế giới hiện nay. Do đó, tác giả sử dụng
khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà WEF đưa ra cho toàn
bộ Khoá luận tốt nghiệp.
1.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Có rất nhiều yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
công tác quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và
máy móc thiết bị, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm,
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, hoạt động nghiên cứu và triển khai
của doanh nghiệp (R&D)…Tuy vậy, trong giới hạn Khoá luận tốt nghiệp này,
tác giả chỉ đưa ra 5 yếu tố để phân tích, bởi đây là những yếu tố tác động
mạnh mẽ nhất tới các doanh nghiệp bảo hiểm: năng lực tài chính, nguồn nhân
lực, chất lượng sản phẩm, hiệu quả hoạt động và môi trường hoạt động của
doanh nghiệp.
1.2.1 Năng lực tài chính
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT


20
Năng lực tài chính là nhân tố tiên quyết cho việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Vai trò của năng lực tài chính đối với việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện trên một số khía cạnh sau:
 Năng lực tài chính đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng thanh toán, tạo uy
tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.
 Năng lực tài chính giúp cho doanh nghiệp khai thác tiềm năng, mở rộng
hoạt động kinh doanh. Việc mở rộng thị trường cũng như đa dạng hoá hoạt
động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao uy tín cũng như
khả năng chi phối của doanh nghiệp đối với thị trường kinh doanh nói
riêng và nền kinh tế nói chung.
 Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hiện đại hoá công nghệ, nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh. Trong thời đại kinh doanh điện tử, tri thức và
thông tin tạo ra nhiều lợi thế cạnh tranh bền vững cho các doanh nghiệp.
Trong cuộc cạnh tranh gay gắt như hiện nay, đổi mới phương thức tồn tại
của doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh
doanh và quản lý là một nhu cầu tất yếu khách quan.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu
như: vốn tự có, nợ phải trả, lợi nhuận trước thuế và quy mô của các
quỹ…Ngoài ra còn một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của doanh
nghiệp:
Bảng 1: Chỉ tiêu phản ánh khả năng tài chính trong doanh nghiệp
TT
Các chỉ tiêu
Công thức tính
1
Giá trị gia tăng (VA)
Lợi nhuận + thuế + khấu hao +chi phí lao động
+ lãi đầu tư + các khoản lãi phải trả do vay vốn

2
Giá trị gia tăng trên
các đơn vị lao động
Giá trị gia tăng (VA) / số lượng, chi phí lao
động
3
Năng suất lao động

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

21
tính theo giá trị sản
xuất (doanh thu thuần)
Doanh thu thuần / số lượng, chi phí lao động
4
Hàm lượng giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng / doanh thu thuần
(Nguồn: Tạp chí Bảo hiểm số 3 năm 2004, trang 8)
1.2.2 Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định, cơ bản và lâu dài trong việc
nâng cao năng lực của doanh nghiệp, là lợi thế cạnh tranh bền vững của
doanh nghiệp. Con người, chủ nhân của mọi sự sáng tạo, đồng thời quản lý
mọi nguồn tri thức, đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế của
một đất nước và của cả doanh nghiệp. Trình độ của nguồn nhân lực thể hiện ở
trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của nhân viên. Trình
độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao sẽ được bán nhiều hơn, với giá cao hơn,

lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng, uy tín của doanh nghiệp ngày
càng lớn. Nhờ uy tín đó mà doanh nghiệp có điều kiện phát triển thị trường,
mở rộng quy mô, góp phần làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
1.2.3 Chất lượng sản phẩm
Với xu thế hiện nay trên thế giới, chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đã trở
thành yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh. Cạnh tranh bằng giá giờ đây
được đánh giá là biện pháp nghèo nàn nhất vì nó không làm cho bên nào có
lợi, nó làm giảm lợi nhuận thu được cũng như giảm đi sự phát triển của xã
hội. Chất lượng sản phẩm cao vừa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, vừa
nâng cao lợi nhuận.
Chất lượng sản phẩm quyết định khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Đó là việc làm tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm, tăng khối lượng hàng
hoá bán ra và kéo dài chu kỳ sản phẩm. Bên cạnh đó, uy tín của doanh nghiệp
tăng lên nhờ chất lượng sẽ kích thích khách hàng tiềm năng, tạo điều kiện mở
Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

22
rộng thị trường, giúp cho doanh nghiệp đạt được mục đích kinh doanh của
mình.
1.2.4. Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp
Chất lượng hoạt động của doanh nghiệp được biểu hiện qua các chỉ tiêu
như: thị phần, doanh thu bán hàng, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Khách
hàng sẽ lựa chọn doanh nghiệp mang lại giá trị tối đa cho họ. Doanh nghiệp
nào được doanh nghiệp lựa chọn là doanh nghiệp có vị thế thị trường trong
lĩnh vực đó. Vì vậy, bên cạnh các chỉ tiêu trên, vị trí thị trường là chỉ tiêu
quan trọng phản ánh chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Đồ thị sau là
một ví dụ về xác định vị trí thị trường của doanh nghiệp. Trục hoành thể hiện

tỷ trọng thị phần của các doanh nghiệp, trục tung thể hiện tốc độ tăng trưởng
của doanh nghiệp, kích thước trong hình thể hiện quy mô doanh số của doanh
nghiệp trên thị trường. Đồ thị thể hiện 3 vị trí thị trường tại 3 thời điểm khác
nhau. Ví dụ doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển tăng tốc ban đầu với đặc
điểm thị phần nhỏ nhưng tốc độ tăng trưởng cao và gia tăng thêm về thị phần;
hay doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển bão hoà với đặc điểm thị phần
lớn, tốc độ tăng trưởng thấp.

Khoá luận tốt nghiệp


Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT

23
Biểu đồ 1: Vị trí thị trƣờng của doanh nghiệp
(Nguồn: Tạp chí bảo hiểm số 3 năm 2003)
Ngoài ra, trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chất lượng
hoạt động của doanh nghiệp còn thông qua mức độ thoả mãn của khách hàng
qua dịch vụ, hàng hóa, và các dịch vụ phụ trợ sau khi bán mà doanh nghiệp
cung cấp.
1.2.5 Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
Môi trường hoạt động có tác động lớn đến năng lực canh tranh của các
doanh nghiệp là môi trường pháp lý. Trong cuộc đua cạnh tranh, một nhân tố
đóng vai trò quan trọng đảm bảo cho sự ổn định của các doanh nghiệp, đó là
các quy định của pháp luật. Trong nền kinh tế, một môi trường cạnh tranh
bình đẳng là môi trường trong đó các doanh nghiệp thuộc bất kỳ lĩnh vực kinh
tế nào mà luật pháp cho phép đều được tham gia kinh doanh và các doanh
nghiệp đó được hưởng đối xử công bằng như nhau từ phía Nhà nước. Nói
cách khác, đó là môi trường mà Nhà nước không tạo bất kỳ lợi thế riêng cho
doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nào. Môi trường này sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy năng lực cạnh tranh của mình.
Ngược lại, môi trường cạnh tranh không bình đẳng, đó là môi trường mà các
-50
0
50
100
150
200
250
300
0 20 40 60 80
VÞ trÝ thÞ tr-êng (%)
T¨ng tr-ëng thÞ tr-êng (%)
Khoỏ lun tt nghip


Phm Ngc Anh Lp A11- K41D - KTNT

24
doanh nghip chõn chớnh khụng cú kh nng phỏt huy ht nhng u th ca
mỡnh, thm chớ h cũn b cn tr trong hot ng kinh doanh.
1.3. Cỏc yu t cu thnh nng lc cnh tranh ca cỏc Doanh
nghip bo him
1.3.1 Nng lc ti chớnh ca doanh nghip bo him
i vi nng lc kinh doanh bo him thỡ nng lc ti chớnh l tin
vụ cựng quan trng cho cỏc doanh nghip bo him nõng cao nng lc cnh
tranh ca mỡnh. Ngoi cỏc ch tiờu phn ỏnh nng lc ti chớnh ca doanh
nghip núi chung. Nng lc ti chớnh ca doanh nghip bo him thng
c phn ỏnh qua cỏc ch tiờu sau:
Bng 2: Ch tiờu phn ỏnh ngun lc ti chớnh ca doanh nghip bo him

STT
Kt qu hot ng
Ni dung ch tiờu
Ni dung phn ỏnh
1
T sut li nhun trc
thu/doanh thu
Li nhun trc thu phớ bo
him gi li
Hiu qu khai thỏc
2
ROA : t sut li
nhun/ti sn
Li nhun trc thu
Tng ti sn
Hiu qu s dng ti sn
3
ROE : t sut li
nhun/vn ch s hu
Li nhun sau thu
Vn ch s hu u nm
Hiu qu kinh doanh ca
vn ch s hu
4
Cu thnh chi phớ kinh
doanh
Chi bi thng gi li, chi qun lý so
vi doanh thu thun
Hiu qu qun lý chi phớ
5

T sut thu nhp hot
ng u t
Li tc hot ng u t
Vn u t bỡnh quõn

Hiu qu u t
6
ũn cõn ti sn u t
Ti sn u t
Doanh thu thun
Vai trũ ca u t trong hot
ng kinh doanh
(Nguồn: Tạp chí bảo hiểm số 3 năm 2004, trang 5)
Khác với các doanh nghiệp khác, tình hình tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm ảnh h-ởng đến chất l-ợng của sản phẩm bảo hiểm do chu trình kinh
doanh đảo ng-ợc làm cho chi phí phát sinh trong nhiều tr-ờng hợp là không
thể dự đoán đ-ợc. Một năng lực tài chính yếu (vốn kinh doanh nhỏ bé, các

×