Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ BƯỞI

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN
BỘ, CƠNG CHỨC CẤP XÃ TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ BƯỞI
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CƠNG
CHỨC CẤP XÃ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 60.38.20

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN CỬU VIỆT

TP. Hồ Chí Minh - Năm 2008


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
khơng sao chép lại cơng trình của bất kỳ tác giả nào. Những số liệu cung cấp
trong luận văn hồn tồn chính xác và trung thực.

Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Bưởi


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Nguyễn Cửu Việt, người đã rất tận tình và dành nhiều thời gian hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.

Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cơ Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, q thầy cô Trường Cán bộ Thành phố và bạn bè đồng
nghiệp đã có nhiều ý kiến đóng góp, định hướng cho tác giả trong việc viết luận
văn.

Xin cám ơn Ban Tổ chức Thành ủy, Sở Nội vụ, Sở Tư pháp và các
phịng Nội vụ quận/huyện Thành phố Hồ Chí Minh cùng cán bộ, công chức
được đào tạo, bồi dưỡng tại Trường Cán Bộ Thành phố Hồ Chí Minh đã cung
cấp cho tác giả những thông tin thật cần thiết, thật quý báu góp phần giúp tác giả
làm rõ thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại
Thành phố Hồ Chí Minh.

Do kinh nghiệm và khả năng còn hạn chế nên chắc chắn luận văn
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng
của q Thầy cơ, bạn bè, đồng nghiệp để giúp tác giả có cơ hội hoàn thiện luận
văn hơn nữa.


Xin chân thành cám ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2008

Tác giả luận văn: Nguyễn Thị Bưởi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. Cán bộ, công chức: CB,CC
2. Gíao dục pháp luật: GDPL
3. Xã hội chủ nghĩa: XHCN
4. Thành phố: TP
5. Hội đồng nhân dân: HĐND
6. Ủy ban nhân dân: UBND


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1

CHƯƠNG 1:

CƠ SỞ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

6


1.1 Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã

6

1.2 Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

11

1.2.1 Khái niệm giáo dục pháp luật

11

1.2.2 Đặc điểm trong giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

16

1.2.3 Nội dung giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức cấp xã

17

1.2.4 Hình thức giáp dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

18

12.5 Phương pháp giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

20

1.3 Qui định pháp luật về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
từ 2001 đến nay


21

1.3.1 Qui định của pháp luật về phổ biến, tuyên truyền pháp luật

21

1.3.2 Qui định của pháp luật về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
27

cấp xã

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

30

CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÁN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP XÃ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

32

2.1 Giới thiệu khái quát Thành phố Hồ Chí Minh

32

2.1.1 Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh

32


2.1.2 Tính cách văn hóa, phẩm chất con người Sài gịn-Thành phố Hồ Chí
Minh

33


2.2 Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh 34
2.2.1 Về nguồn cán bộ, cơng chức cấp xã

34

2.2.2 Về giới tính, độ tuổi, trình độ, năng lực

36

2.3 Thực trạng cơng tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại
Thành phố Hồ Chí Minh

40

2.4 Những ưu điểm và hạn chế trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ,
cơng chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh
2.4.1 Những ưu điểm

45

2.4.2 Những hạn chế, khuyết điểm

46


45

2.5 Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế trong công tác giáo dục
pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh

48

2.5.1 Nguyên nhân ưu điểm

48

2.5.2 Nguyên nhân hạn chế, khuyết điểm

48

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

50
51

CHƯƠNG 3:

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1 Sự cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ,
cơng chức cấp xã ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay

51


3.2 Phương hướng tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại thành phố Hồ Chí Minh

54

3.3 Một số giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục
pháp luật cho cán bộ, cơng chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh
3.3.1 Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất
3.3.2. Hồn thiện sự điều chỉnh pháp luật

56
56
59

3.3.3 Tăng cường cơng tác qui hoạch cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
về pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã

61


3.3.4 Củng cố, xây dựng các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức
cấp xã và xây dựng đội ngũ giảng viên

64

3.3.5 Tiếp tục tặng cường, sử dụng có hiệu quả và sáng tạo các hình thức,
biện pháp và phương tiện phổ biến, giáo dục pháp luật

67


3.3.6 Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những vi phạm kỷ luật,
pháp luật của cán bộ, công chức cấp xã

69

3.3.7 Vấn đề bảo đảm kinh phí
71

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

72

KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77

PHỤ LỤC


1

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định : “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
và “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”1 . Lời dạy của
Bác nhấn mạnh vị trí, vai trị quan trọng của cán bộ. Vì vậy, việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ, công chức đủ đức, đủ tài để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của đất nước
và nhân dân giao phó ln ln là vấn đề cần thiết, quan trọng ở nước ta.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác giáo dục
pháp luật cho đội ngũ cán bộ, cơng chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) nói riêng và đã đạt được những
kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, chính quyền cấp xã ở
TP.Hồ Chí Minh cũng đã để xảy ra những sai phạm trong quản lý đất đai, quản lý
trật tự xây dựng ở đơ thị điển hình là ở Tân Bình, Gị Vấp và Hóc Mơn. Hàng loạt
căn nhà được xây dựng kiên cố nhưng khơng có giấy phép xây dựng nên buộc phải
tháo dỡ gây thiệt hại rất lớn về vật chất cho nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân
dân vào Nhà nước, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực quản lý của Nhà nước. Một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự sai phạm đó là do CB,CC ở quận,
huyện đặc biệt là CB,CC cấp xã nói riêng chưa nắm vững kiến thức về pháp luật
hoặc do kỹ năng áp dụng pháp luật của cán bộ, cơng chức cịn bộc lộ những hạn chế
nhất định. Bên cạnh đó, vẫn cịn một bộ phận cán bộ, công chức chưa qua đào tạo,
bồi dưỡng nên sự hiểu biết pháp luật còn sơ sài dẫn đến tình trạng lúng túng khi áp
dụng pháp luật.
Cấp xã là cấp cơ sở gần gũi nhất với nhân dân, trực tiếp tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Vì
1

Hồ Chí Minh (1995) Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, ;tr269,273

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi



2

vậy, để chính quyền cấp xã thực hiện tốt chức năng của mình địi hỏi đội ngũ cán
bộ, cơng chức cấp xã tại TP.Hồ Chí Minh rất cần được bổ sung những thiếu hụt nói
trên. Trong những năm qua, TP.Hồ Chí Minh là đơn vị đi đầu cả nước về thực hiện
cải cách hành chính. Trong đó việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
được đặc biệt chú trọng với mục tiêu xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
vững mạnh về phẩm chất đạo đức và vững mạnh về chuyên môn.
Mặc dù vậy, trên thực tế công tác giáo dục pháp luật cho CB,CC vẫn chưa được
tổ chức thực hiện đồng bộ, thường xuyên và kịp thời. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho
CB,CC cấp xã chưa thật sự gắn với quy hoạch, sử dụng cán bộ; khơng ít nhân tài
chưa được phát hiện. Chất lượng và hiệu quả đào tạo còn thấp, nội dung chương
trình và phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của đất
nước trong những năm đổi mới; hệ thống đào tạo chưa thật hợp lý.
Đáp ứng yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới, Thành ủy – Ủy ban nhân dân
TP. Hồ Chí Minh cũng đã rất quan tâm đến việc giáo dục pháp luật cho CB,CC cấp
xã đặc biệt là thông qua hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Tuy nhiên đến nay, các văn
bản pháp luật quy định về công tác giáo dục pháp luật cho CB,CC cấp xã chưa đầy
đủ, chưa có tính đồng bộ, bộc lộ nhiều bất cập do đó, chưa phát huy được hiệu lực
và hiệu quả của các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục pháp luật cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn; dẫn đến việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức
cấp xã cịn nhiều hạn chế.
Từ những lý do trên, nên tôi chọn đề tài: “Giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho
mình.
2.Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cơng tác GDPL nói chung và GDPL cho cán bộ, cơng chức nói riêng ( đặc
biệt là cán bộ, công chức cấp xã) là một vấn đề quan trọng nên đã được nhiều nhà

khoa học, các nghiên cứu sinh, học viên cao học chọn làm đề tài khoa học. Có thể
liệt kê ra một số cơng trình của các nhà khoa học sau:

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


3

- Trần Ngọc Đường (1998), Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường
pháp chế XHCN, Luận án phó Tiến sĩ Luật. Matxcơva.
- Trần Văn Trầm (2002), Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa
bàn tỉnh Bình Định - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.
- Trần Hồng Hạnh (2006), Hồn thiện các qui định pháp luật về bầu cử,
tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, công chức cấp phường, xã tại thành phố Hồ Chí
Minh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trần Tuấn Duy (2007), Đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã và việc sử
dụng cán bộ, công chức cấp xã sau đào tạo nguồn tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn Thạc sỹ Luật học, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Các cơng trình khoa học và các bài viết nêu trên đã đề cập đến vai trị quan
trọng của cơng tác giáo dục pháp luật cũng như việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức ở cấp xã. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một cơng trình khoa
học nào đề cập đến cơng tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế, tác giả có thể khẳng định đề tài này khơng trùng
lắp với nội dung của những đề tài của các tác giả trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu: Luận văn có mục đích nêu lên những vướng mắc,
những bất cập trong các quy định của pháp luật về giáo dục pháp luật cho cán bộ,

công chức cấp xã . Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện các quy
định pháp luật của vấn đề trên cũng như để công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã tại thành phố Hồ Chí Minh đạt được hiệu quả cao trong thời gian
tới..
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ
tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, Hệ thống hóa những vấn đề lý luận – pháp lý liên quan đến công tác
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã.

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


4

Hai là, Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và thực trạng
của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian qua (trên thực tiễn cũng như các quy định của pháp luật).
Ba là, Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã ở TP.Hồ
Chí Minh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát về đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã tại
Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung cụ thể sẽ tập trung vào việc phân tích, đánh giá
các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực trạng của việc giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh . Thời gian nghiên
cứu, khảo sát là từ năm 2001 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của Chủ nghĩa

Mác – Lênin. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể
(thống kê, so sánh, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, điều tra, khảo sát thực tiễn…) để
làm rõ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những dự định đóng góp của luận văn
Qua luận văn này, tác giả dự định đóng góp những ý kiến có tính lý luận và
thực tiễn trên các mặt sau:
Một là, nêu lên sự cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công cức cấp xã tại TP.Hồ Chí Minh đồng thời đề xuất một số phương
hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của công tác
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã ở TP.Hồ Chí Minh.
Hai là, luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên, các nhà
quản lý quan tâm đến lĩnh vực này.

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


5

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; bố cục
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận – pháp lý của việc giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp xã
Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã tại Thành phố Hồ Chí Minh.


Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO

CÁN BỘ,

CÔNG CHỨC CẤP XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
1.1 Khái niệm cán bộ, công chức cấp xã
Cấp xã là đơn vị hành chính cuối cùng trong hệ thống chính trị ở nước ta, có
vị trí rất quan trọng. Đây là nơi nối liền Đảng, Nhà nước, các tổ chức của hệ thống
chính trị với nhân dân; là nơi thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cấp xã là cấp gần gũi nhân dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong
xuôi”2. Như vậy, cấp xã (đặc biệt là chính quyền cấp xã) là cấp quan hệ trực tiếp
với nhân dân, là nơi đầu tiên giải quyết các yêu cầu của dân, tạo điều kiện cho dân
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, cấp xã là nơi trực tiếp thực hiện cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và thực hiện “Quy chế dân
chủ ở cơ sở”.
Vì vậy, có thể xem cấp xã là một xã hội thu nhỏ, nơi diễn ra mọi mặt hoạt
động của xã hội. Khơng có cấp xã thì khơng hình thành nên xã hội; đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước khơng thành
hiện thực.
Vị trí, vai trị của cấp xã đã được Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng (khóa IX) khẳng định: “Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại
bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trị rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư”3.

2

Hồ Chí Minh Tồn tập (1995), tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, tr371.
Văn kiện Hội nghị lần 5, Ban chấp hành TW khóa IX (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,
tr166
3

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


7

Để cấp xã có thể thực hiện tốt vai trị của mình trong thực tiễn điều này phụ
thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, những người giữ vị trí quan
trọng trong hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn.
Các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh qua
thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đã kiểm nghiệm và chứng minh điều này.
Các – Mác chỉ rõ: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn”4 .
Lê-nin cũng khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành

được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào”5 .
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá rất cao vai trò của cán bộ. Bác
viết: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách,
cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành cơng, tức có lãi, khơng có cán bộ tốt thì
hỏng việc, tức là lỗ vốn”6 .
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta cũng thấy rõ vai trò quan trọng của đội
ngũ cán bộ, công chức; đặc biệt là đội ngũ CB,CC cấp xã. Vì vậy, Nghị quyết Trung
ương III (khóa VIII) đã khẳng định: “Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn với quần
chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng. Cơ sở xã, phường, thị trấn
mạnh hay yếu là một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ xã,
phường, thị trấn”.
Cán bộ, công chức cấp xã là những người làm việc trong tổ chức Đảng,
chính quyền và đoàn thể cấp xã. Họ là những người trực tiếp đưa chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến nhân dân, như Bác Hồ đã nói: “Cán bộ
là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng

4

Các Mác,Ph.Ănghen (1995), Tồn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, tr181
V.I. Lênin (1974), Toàn tập, Tập 4, Nxb TBM, tr473
6
Hồ Chí Minh(2002) Tồn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội,tr46
5

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi



8

hiểu rõ và thi hành”7. Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân nhất nên
họ cũng là người hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của dân nhất và là người cung cấp
những thông tin cho cấp trên, cho Đảng và Nhà nước để làm cơ sở đề ra các chủ
trương, chính sách phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Đồng thời, cán
bộ, công chức cấp xã còn là người thay mặt Đảng và Nhà nước chăm lo đời sống
của nhân dân, nên hoạt động của họ sẽ quyết định uy tín của Đảng và Nhà nước đối
với dân. Thực tiễn cho thấy, nơi nào có đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã vững
mạnh thì nơi ấy tình hình an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội được giữ vững;
cán bộ, cơng chức được dân tin yêu. Còn ở nơi nào đội ngũ cán bộ, công chức yếu
kém, phẩm chất đạo đức xuống cấp thì kinh tế khó phát triển, tình trạng vi phạm
pháp luật diễn ra nhiều…
Cán bộ, công chức cấp xã là một khái niệm mới xuất hiện từ khi Pháp lệnh
Cán bộ, công chức được sửa đổi, bổ sung ngày 29 tháng 4 năm 2003, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2003. Đến tháng 10 năm 2003, Chính phủ đã ban hành
5 Nghị định hướng dẫn Pháp lệnh Cán bộ, cơng chức, trong đó có hai Nghị định đề
cập đến cán bộ, công chức cấp xã. Đó là:
- Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 quy định về
chức danh, tiêu chuẩn, nghĩa vụ, quyền lợi, những việc khơng được làm, chế độ
chính sách và quản lý cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn (gọi chung là cán bộ,
công chức cấp xã)
- Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 qui định về chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã.
Đây là những văn bản quan trọng đầu tiên quy định về cán bộ, công chức cấp
xã. Tiếp theo đó là một loạt các văn bản có giá trị pháp lý thấp hơn quy định những
vấn đề liên quan đến cán bộ, công chức cấp xã. Trước khi Pháp lệnh Cán bộ, công
chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003 thì tất cả những người làm việc ở cấp xã đều
được gọi chung là cán bộ phường, xã; cán bộ cơ sở…


7

Hồ Chí Minh (1995) Tồn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, tr269.

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


9

Theo điểm g và điểm h của khoản 1 điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức và
theo điều 2 Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ
thì cán bộ, cơng chức cấp xã là những người làm việc ở HĐND, UBND, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị – xã hội cấp xã, bao gồm:
“1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây
gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm có các chức vụ sau đây:
a. Bí thư, Phó bí thư đảng ủy; Thường trực Đảng ủy (nơi khơng có Phó Bí
thư chun trách cơng tác đảng); Bí thư, phó bí thư Chi bộ (nơi chưa thành lập
Đảng ủy cấp xã);
b. Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân;
c. Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân;
d. Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội
Cựu Chiến binh.
2. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Ủy ban Nhân dân cấp xã (gọi chung là cơng chức cấp xã), gồm có
các chức danh sau đây:
a. Trưởng cơng an (nơi chưa bố trí lực lượng cơng an chính quy);

b. Chỉ huy trưởng qn sự;
c. Văn phịng – Thống kê;
d. Địa chính – Xây dựng;
đ. Tài chính – Kế tốn;
e. Tư pháp – Hộ tịch;
g. Văn hóa – Xã hội”.
Ngồi ra, tại khoản 3,4 điều 2 Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10
năm 2003 còn quy định về cán bộ không chuyên trách cấp xã và cán bộ không
chuyên trách ở thôn và ở tổ dân phố. Theo đó:
Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


10

“3. Cán bộ không chuyên trách cấp xã gồm:
a. Trưởng ban tổ chức Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng, trưởng ban
Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng ủy;
b. Phó trưởng cơng an (nơi chưa bố trí lực lượng cơng an chính quy);
c. Phó chỉ huy trưởng quân sự;
d. Cán bộ kế hoạch – giao thông – thủy lợi – nông lâm, ngư, diêm nghiệp;
đ. Cán bộ lao động – thương binh và xã hội;
e. Cán bộ dân số – gia đình và trẻ em;
g. Thủ quỹ – văn thư – lưu trữ;
h. Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;
i. Cán bộ quản lý nhà văn hóa;
k. Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nơng dân, Hội Cựu
chiến binh;

l. Chủ tịch Hội Người Cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam;
4. Cán bộ không chun trách ở thơn và tổ dân phố gồm: Bí thư Chi bộ thôn;
trưởng thôn; Công an viên ở thôn và Bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố ở phường, thị
trấn”.
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này chỉ đề cập đến những nội dung và các
hình thức giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo khoản 1 và
khoản 2 - điều 2 Nghị định 114/2003/NĐ-CP,
Với vai trò quan trọng như trên, đòi hỏi phải có một đội ngũ CB, CC cấp xã
có chất lượng tốt mới có thể đảm đương, đáp ứng u cầu địi hỏi của cơng cuộc đổi
mới. Thơng qua việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật hoặc cử đi đào tạo, bồi dưỡng
những chương trình có liên quan đến pháp luật, những CB,CC cấp xã này sẽ có
những hiểu biết nhất định về pháp luật để có thể giải quyết các tình huống xảy ra
trong quản lý hành chính, đáp ứng những yêu cầu mới do thực tiễn đặt ra.
Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


11

Trong thực tế, nhiều nơi vẫn cịn suy nghĩ khơng đúng về vai trị của CB,CC
cấp xã dẫn đến tình trạng xem nhẹ công tác GDPL đối với đội ngũ này. Điều này đã
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở nói chung. Tình
trạng trên phải được cải thiện theo đúng Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần
thứ IX: “Tăng cường cán bộ cho cơ sở, có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng,
đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn”8 để họ hoạt động ngày càng hiệu quả,
góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.2 Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
1.2.1 Khái niệm giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ

thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật
hiện hành9 .
Từ khái niệm này có thể thấy rằng GDPL là một hoạt động được hình thành
bởi ba yếu tố cơ bản bao gồm: chủ thể giáo dục pháp luật ,đối tượng giáo dục pháp
luật và mục đích giáo dục pháp luật. Để làm rõ nội hàm của khái niệm này, chúng ta
cần làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất là về chủ thể giáo dục pháp luật: Chủ thể GDPL được hiểu là tất
cả những người mà theo chức năng hay theo trách nhiệm xã hội, đã tham gia góp
phần vào việc thực hiện những mục đích của giáo dục pháp luật. Vì vậy, chủ thể
giáo dục pháp luật có thể là các giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên
pháp luật hoặc là các Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, các cán bộ thuộc các cơ
quan hành pháp, tư pháp, các luật sư, các luật gia, các cán bộ nhân viên của các
đoàn thể, tổ chức xã hội thậm chí chủ thể GDPL cịn là các cơng dân, bằng sự tự
giáo dục, bằng ý thức trách nhiệm và gương mẫu thực thực hiện pháp luật mà có tác
dụng ảnh hưởng giáo dục tích cực đến công dân khác.

8

Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX (2001) , Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, ,tr135
Trần Ngọc Đường (1998), Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN, Luận
án phó Tiến sĩ Luật. Matxcơva, tr13
9

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


12


Thứ hai là về đối tượng giáo dục pháp luật: Đối tượng được giáo dục pháp
luật rất đa dạng bao gồm 4 nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm thứ nhất: Các cán bộ, cơng chức nhà nước: Nhóm đối tượng này có
nét đặc thù vì họ vừa là đối tượng được giáo dục pháp luật nhưng đồng thời họ cũng
là chủ thể tham gia giáo dục pháp luật trong quan hệ đối với nhân dân.
Nhóm thứ hai: là các chủ doanh nghiệp, người quản lý, cán bộ cơng đồn ở
các doanh nghiệp để giúp họ hình thành thói quen kinh doanh trong khn khổ
pháp luật
Nhóm thứ ba: là các học sinh , sinh viên. Đây là những công dân trẻ, là
tương lai của đất nước vì vậy rất cần được giáo dục pháp luật. Đối với đối tượng
này, hình thức quan trọng và có hiệu quả là tăng cường giảng dạy pháp luật trong
nhà trường. Thơng qua hình thức này hình thành một cách bền vững ý thức, lịng
tin, tình cảm đối với pháp luật ngay từ độ tuổi học sinh.
Nhóm thứ tư bao gồm cả các tầng lớp nhân dân. Đây là đối tượng đông đảo
nhất trong xã hội. Giáo dục pháp luật đối với đối tượng này cần dựa vào lứa tuổi,
giới tính, nghề nghiệp, nhu cầu hiểu biết và địa bàn sinh sống.
Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ tập trung vào phân tích đối tượng là
cán bộ, công chức cấp xã ở thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đối tượng giáo dục
pháp luật ở đây không chỉ đơn thuần là bản thân các cá nhân cơng dân hay nhóm
cộng đồng cơng dân mà là những yếu tố bên trong của họ như: nhận thức, tình cảm,
và hành vi.
Việc xác định chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật có ý nghĩa quan trọng
trong lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục pháp luật trên cơ sở mối quan hệ
tác động lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể trong quá trình giáo dục pháp luật.
Trong đó, chủ yếu là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người
giáo dục pháp luật lên người được giáo dục pháp luật. Điều đó tạo cho chủ thể xác
định các nội dung, hình thức, phương tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận với đối
tượng giáo dục pháp luật một cách có hiệu quả nhất


Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


13

Thứ ba là về mục đích giáo dục pháp luật: Trong hoạt động giáo dục pháp
luật, chủ thể tác động lên đối tượng giáo dục pháp luật đều nhằm thực hiện những
mục đích nhất định. Dù hình thức, phương pháp tác động có khác nhau nhưng cái
mà chủ thể muốn tác động tới và mong muốn đạt được là nhằm nhằm cung cấp và
từng bước mở rộng tri thức pháp luật, nâng cao văn hóa pháp lý cho từng cá nhân và
tồn xã hội để hình thành tình cảm và lịng tin vào pháp luật ở mỗi cơng dân và hình
thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật.
Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật trong q trình giáo dục pháp
luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực tiễn giáo dục pháp luật.
Việc xác định đúng hay khơng đúng mục đích của giáo dục pháp luật sẽ dẫn đến
chất lượng tốt hay không tốt tới giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, cũng cần phải cân
nhắc, tính tốn, lựa chọn từng mụch đích để có các hình thức và phương pháp giáo
dục pháp luật thích hợp cho từng đối tượng cụ thể.
Thứ tư là về nội dung giáo dục pháp luật: Nội dung giáo dục pháp luật là
một thành tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp luật, nó được xác định trên cơ
sở mục đích của giáo dục pháp luật và nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục
pháp luật.Theo đó, nội dung của giáo dục pháp luật sẽ bao gồm:
Một là, các thông tin về pháp luật gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp
luật thực định;
Hai là, các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm, về việc điều tra xử lý các vi phạm pháp luật;
Ba là, các thông tin về kết quả điều tra, nghiên cứu xã hội học về thực hiện
áp dụng pháp luật đối với đời sống kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng, tầng lớp

dân cư. Đồng thời phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng, ý kiến, đề xuất của nhân
dân, của các chuyên gia pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Bốn là, Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như:
các quyền, nghĩa vụ pháp lý, các qui trình, thủ tục để bảo vệ các quyền hợp pháp.
Thứ năm là hình thức giáo dục pháp luật: Mục đích và nội dung của giáo
dục pháp luật khơng thể tự thân đi vào nhận thức, tình cảm của đối tượng giáo dục
Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


14

pháp luật mà phải thông qua những kênh chuyển tải thơng tin nhất định đó chính là
hình thức giáo dục pháp luật. Hình thức giáo dục pháp luật được coi “là các dạng
hoạt động cụ thể tổ chức quá trình giáo dục pháp luật qua đó thực hiện được nội
dung, mục tiêu của giáo dục pháp luật”10. Hiệu quả của giáo dục pháp luật không
chỉ phụ thuộc vào việc xác định đúng mục đích và nội dung giáo dục pháp luật mà
cịn phụ thuộc vào việc xác định đúng hình thức giáo dục pháp luật. Như vậy, hình
thức giáo dục pháp luật chính là hình thức tổ chức hoạt động, phối hợp giữa chủ thể
giáo dục pháp luật với đối tượng giáo dục pháp luật được qui định bởi nội dung và
mục đích giáo dục pháp luật.
Hình thức giáo dục pháp luật rất đa dạng và phong phú nhưng chủ yếu thể
hiện qua những loại cơ bản sau:
Một là, các hình thức giáo dục pháp luật mang tính phổ biến truyền thống
được sử dụng trong nhiều loại hình giáo dục như phổ biến, nói chuyện pháp luật tại
các cơ quan nhà nước, địa bàn dân cư, các hội nghị, hội thảo pháp luật, các câu lạc
bộ pháp luật, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tun truyền, giải thích, hướng dẫn
pháp luật thơng qua báo chí và các phương tiện thơng tin đại chúng khác.
Hai là, các hình thức giáo dục pháp luật có tính chất đặc thù, đây là các hoạt

động định hướng giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động lập pháp, hành pháp,
tư pháp của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tịa án, Viện kiểm sát.
Hình thức giáo dục pháp luật qua các hoạt động của các tổ chức xã hội, tổ chức
quần chúng, tổ chức nghề nghiệp, tổ hòa giải, dịch vụ tư vấn, trợ giúp pháp luật.
Ba là, hình thức cử đi đào tạo, bồi dưỡng ở nhà trường. Đây là hình thức giáo
dục pháp luật cơ bản, quan trọng nhất đối với cán bộ, cơng chức nói chung trong đó
có cán bộ, cơng chức cấp xã.
Để cơng tác giáo dục pháp luật đạt được hiệu quả cao thì khơng thể tách rời
giáo dục pháp luật với các dạng giáo dục khác như: giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục đạo đức và giáo dục kinh tế

10

Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà nội, tr 75

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


15

Giáo dục pháp luật tác động tương hỗ một cách sâu sắc với giáo dục chính
trị tư tưởng. Lê-nin đã chỉ rõ rằng:“Luật là biện pháp chính trị, là chính trị”11. Bởi
vậy, khi thực hiện giáo dục pháp luật sẽ tạo ra khả năng cho việc giáo dục chính trị
tư tưởng, góp phần hình thành ở những đối tượng được giáo dục những quan hệ giá
trị xác định với chính trị tư tưởng. Ngược lại, trong giáo dục chính trị tư tưởng có
chức năng đan xen trong nội dung của mình những hiện tượng pháp luật, củng cố
những quan hệ tích cực đối với những địi hỏi của pháp luật, kích thích lợi ích của
điều chỉnh bằng pháp luật. Mối quan hệ mật thiết qua lại chặt chẽ giữa giáo dục

pháp luật và giáo dục chính trị tư tưởng địi hỏi các chủ thể giáo dục pháp luật phải
biết kết hợp và bổ sung cho nhau trong quá trình giáo dục.
Giáo dục pháp luật cũng có quan hệ chặt chẽ với giáo dục đạo đức. Đảng
ta đã nhận thức rõ điều đó nên trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đã xác định:“Tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo
dục, nâng cao đạo đức”12 Giữa pháp luật và đạo đức khơng có sự đối lập nhau,
pháp luật là chỗ dựa và là cơ sở của việc hình thành đạo đức; các nguyên tắc căn
bản của đạo đức được thể chế hóa thành các qui phạm pháp luật. Qui phạm pháp
luật và qui phạm đạo đức đều hướng tới điều chỉnh hành vi của con người, giữa
chúng có một số điểm chung là cùng tác động lên con người để tạo ra lòng tin và
giá trị xã hội của pháp luật đồng thời tạo ra thói quen xử sự trong các hoàn cảnh cụ
thể theo các chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
Bên cạnh đó, giữa giáo dục pháp luật và giáo dục kinh tế cũng có mội
quan hệ tác động qua lại với nhau. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
và Nghị quyết số 21 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X)
đã xác định đường lối phát triển kinh tế của nước ta là “ nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện đường lối phát triển kinh tế nó trên của Đảng
và Nhà nước thì cần phải đẩy mạnh hoạt động giáo dục kinh tế trong mối quan hệ
với sự nghiệp đổi mới. Các quan hệ kinh tế ở nước ta ở mức độ này hay mức độ
11

V.I. Lênin (1978) , Toàn tập, Tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr 99
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), VKĐHĐBTQ lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr
45.
12

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi



16

khác được thể hiện thành các hình thức pháp lý, Thiếu các hình thức pháp lý thích
hợp, các quan hệ kinh tế khó lịng thực hiện. Điều đó có nghĩa rằng, bên cạnh giáo
dục kinh tế, cần phải tiến hành giáo dục pháp luật bao gồm việc giải thích, phổ biến,
học tập, nghiên cứu những văn kiện liên quan trực tiếp đến việc điều chỉnh các quan
hệ kinh tế
Trong điều kiện hiện nay, việc nghiên cứu mối quan hệ tổ hợp, đan xen gữa
các dạng giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Việc giáo dục pháp luật
chỉ có thể đạt được mục đích và hiệu quả trong mối quan hệ thống nhất, tổ hợp của
cả hệ thống các hình thức giáo dục. Tất cả các dạng giáo dục phải được phối hợp và
tiến hành thường xuyên trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
1.2.2 Đặc điểm trong giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
1) Gắn giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tư tưởng:
Khi thực hiện giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức, người giáo dục phải
thực sự là “tấm gương sáng”, phải nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, cấp xã là cấp cơ sở gần gũi nhất với
nhân dân nên công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã phải gắn
chặt với cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng.
2) Cán bộ, công chức cấp xã vừa là đối tượng được giáo dục pháp luật đồng
thời cũng là chủ thể giáo dục pháp luật trong quan hệ với nhân dân.
Việc giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức cấp xã không chỉ là việc giáo
dục những kiến thức pháp luật đơn thuần mà còn phải kết hợp cả việc giáo dục
phong cách làm việc, kỹ năng giao tiếp, phẩm chất đạo đức, lối sống … vì “khơng
có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân”.13 Cán bộ,
cơng chức nói chung và cán bộ, cơng chức cấp xã nói riêng có vai trị kép trong giáo
dục pháp luật. Trong mối quan hệ của giáo dục pháp luật cho cán bộ, cơng chức thì
họ là đối tượng của giáo dục pháp luật nhưng với vai trị là cán bộ, cơng chức trong

quan hệ với nhân dân thì họ lại trở thành chủ thể của giáo dục pháp luật. Vì vậy, vai
13

Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 15, Nxb Sự thật, Hà nội, trang 235.

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


17

trị của họ có tác động rất lớn đến hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân
dân đối với pháp luật.
Với đặc điểm này cần chú ý giáo dục cho cán bộ, cơng chức cấp xã có ý thức
là “công bộc” của nhân dân. Phải xây dựng ý thức “chí cơng vơ tư” coi pháp luật là
“cán cân cơng lý”, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. “Pháp luật không hùa
theo người sang. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khơn cũng khơng thể từ, kẻ dũng
cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần, thưởng cái đúng
khơng bỏ sót kẻ thất phu”14 Hai mươi ba thế kỷ trước Hàn Phi Tử đã nói như vậy
thiết nghĩ bài học đó vẫn cịn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.
1.2.3 Nội dung giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã
Cán bộ, công chức cấp xã là những người trong phạm vi chức năng của mình
tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể giáo dục pháp luật. Thái
độ và hành vi xử sự đúng pháp luật hay không của cán bộ, công chức là tấm gương
phản chiếu tính pháp chế trong tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị nói
chung và bộ máy nhà nước nói riêng.
Cán bộ, cơng chức nhất là cán bộ, công chức cấp xã là những người trực tiếp
thực hiện sự tác động rất mạnh đến hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân
dân đối với pháp luật hay nói cách khác họ chính là chủ thể giáo dục pháp luật cho

nhân dân. Với tư cách này, thì cán bộ, cơng chức cấp xã phải được trang bị các kiến
thức và kỹ năng trong việc áp dụng pháp luật và trước tiên họ phải có ý thức đầy đủ
về trách nhiệm chủ thể giáo dục pháp luật của mình trong các hoạt động chun
mơn nghiệp vụ cụ thể.
Căn cứ vào đối tượng cán bộ, công chức cấp xã mà xây dựng nội dung giáo dục
pháp luật cho phù hợp. Vì vậy, đối với cán bộ, cơng chức cấp xã thì nội dung giáo
dục pháp luật sẽ bao gồm:
Một là, những kiến thức cơ bản về nhà nước và pháp luật, tổ chức bộ máy nhà
nước, thực thi pháp luật, cơ chế bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân;

14

Phan Ngọc (2000), Hàn Phi Tử, Nxb Văn học, Hà nội, tr 62.

Luận văn Thạc sĩ luật học

Nguyễn Thị Bưởi


×