Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tiểu luận giá trị thặng dư nguồn gốc, bản chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.02 KB, 31 trang )

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Giá trị thặng dư nguồn gốc, bản chất và các
hình thức chuyển hóa


Phần mở đầu
Kinh tế chính trị Mác-Lênin có vai trị quan trọng trong đời sống Xã
hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay yêu cầu học tập,
nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin càng được đặt ra một cách bức
thiết, nhằm khắc phục lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời
lý luận với cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới. Nước ta
đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
mà nền kinh tế thị trường thì ln gắn liền với các phạm trù và các quy
luật kinh tế của nó. Trong đó có phạm trù giá trị thặng dư hay nói cách
khác “sự tồn tại giá trị thặng dư là một tất yếu khách quan ở Việt Nam
khi mà ở Việt Nam ta đang áp dụng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN”.Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN nhưng trong chừng
mực nào đó vẫn tồn tại thành kiến đối với các thành phần kinh tế tư
nhân, tư bản, coi các thành phần kinh tế này là bóc lột, những nhận thức
này không thể xảy ra với một số cán bộ, đảng viên làm cơng tác quản lý
mà cịn xảy ra ngay trong những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở
nước ta. Mà theo lý luận của Mác thì vấn đề bóc lột lại liên quan đến
“giá trị thặng dư”. Vì thế việc nghiên cứu về chất và lượng của giá trị
thặng dư sẽ giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn về con đường đi lên
xây dựng CNXH ở Việt Nam mà đảng và nhà nước ta đã chọn. Với kiến
thức còn hạn hẹp bài viết này chỉ nêu ra những nội dung cơ bản của “giá
trị thặng dư” , cùng một vài ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu
vấn đề này và một số ý kiến để việc vận dụng “giá trị thặng dư” trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Bài viết này được chia thành 3 chương:


Chương I: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa thực
tiễn của vấn đề nghiên cứu đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa
Chương II: Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng giá trị thặng dư ở
nước ta hiện nay
Chương III: Một số gải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư
nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay
Bài viết đã được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo
hướng dẫn, đồng thời được sự giúp đỡ của thư viện trường về nhiều tài
liệu tham khảo bổ ích.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
1


Phần nội dung
Chương 1: Mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư. ý nghĩa
thực tiễn của vấn đề nghiên cứu này đối với nước ta khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cần phải nghiên cứu về giá trị thặng dư bởi sự tồn tại của giá trị
thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là
một tất yếu khách quan, có nghiên cứu về giá trị thặng dư ta mới thấy rõ
những đặc tính phổ biến của sản xuất và phân phối giá trị thặng dư
trong nền kinh tế thị trường, từ đó tìm ra các giải pháp để vận dụng học
thuyết giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta, theo mục tiêu đã được Đảng và Nhà nước ta vạch ra,
làm dân giàu nước mạnh, xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
Khi nghiên cứu về phạm trù giá trị thặng dư, Mác đã sử dụng nhuần
nhuyễn phương pháp duy vật biện chứng để nghiên cứu. Người đã gạt
bỏ đi những cái không bản chất của vấn đề để rút ra bản chất của nó, đi

từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể và đặc biệt là việc
sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học.
A. Mặt chất của giá trị thặng dư.
Mối quan hệ kinh tế giữa người sở hữu tiền và người sở hữu sức lao
động là điều kiện tiên quyết để sản xuất ra giá trị thặng dư vì vậy việc
phân tích của Mác về quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư về bản chất
và nguồn gốc là một vấn đề cần lưu ý.
I. Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản.
1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản phẩm cuối cùng của q trình lưu thơng hàng hố. Đồng
thời tiền cũng là hình thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Song bản thân
tiền không phải là tư bản mà tiền chỉ trở thành tư bản khi chúng được sử
dụng để bóc lột lao động của người khác. Tiền được coi là tiền thơng
thường thì vận động theo cơng thức H-T-H. cịn tiền được coi là tư bản
thì vận động theo công thức T-H-T. Ta thấy hai công thức này có những
điểm giống và khác nhau:
Giống nhau: Cả hai sự vận động đều bao gồm hai nhân tố là tiền và
hàng và đều có hai hành vi là mua và bán, có người mua, người bán.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
2


Khác nhau: Trình tự hai giai đoạn đối lập nhau (mua và bán) trong hai
công thức lưu thông là đảo ngược nhau. Với cơng thức H-T-H thì bắt
đầu bằng việc bán (H-T) và kết thúc bằng việc mua (T-H), bán trước
mua sau nhưng tiền chỉ đóng vai trị trung gian và kết thúc q trình đều
là hàng hố. Ngược lại, với cơng thức T-H-T thì bắt đầu bằng việc mua
(T-H) và kết thúc bằng việc bán (H-T). ở đây tiền vừa là điểm xuất phát
vừa là điểm kết thúc còn hàng hố đóng vai trị trung gian, tiền ở đây chỉ
để chi ra để mua rồi lại thu lại sau khi bán. Vởy tiền trong công thức này

chỉ được ứng trước mà thơi.
Từ đó ta thấy giá trị sử dụng là mục đích cuối cùng của vịng chu
chuyển H-T-H giá trị sử dụng tức là nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất
định. Như vậy qua trình này là hữu hạn, nó sẽ kết thúc khi nhu cầu được
thoả mãn. Động cơ và mục đích của vịng chu chuyển T-H-T là bản thân
giá trị trao đổi trong lưu thông điểm đầu và điểm cuối đều là tiền chúng
không khác nhau về chất. Do vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra
thì q trình vận động trở nên vơ nghĩa. Mà như ta đã biết, một món tiền
chỉ có thể khác với một món tiền khác về mặt số lượng. Kết quả là qua
lưu thông số tiền ứng trước khơng những được bảo tồn mà cịn tự tăng
thêm giá trị. Nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là T-H-T’.
Trong đó T’=T+∆t số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra là ∆t, Các Mác
gọi là giá trị thặng dư số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư nên sự vận động của tư
bản là khơng có giới hạn vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.
Từ phân tích trên Mác đã phân biệt rõ ràng tiền thơng thường và tiền
tư bản. Tiền thơng thường chỉ đóng vai trị trung gian trong lưu thơng.
Cịn tiền tư bản là giá trị vận động, nó ra khỏi lĩnh vực lưu thơng rồi lại
trở lại lưu thơng, tự duy trì và sinh sôi nảy nở trong lưu thông quay trở
về dưới dạng đã lớn lên và không ngừng bắt đầu lại cùng một vịng chu
chuyển ấy.T-H-T’mới nhìn thì nó là cơng thức vận động của riêng tư
bản thương nghiệp nhưng ngay cả tư bản công nghiệp và cả tư bản cho
vay thì cũng vậy.Tư bản chủ nghĩa cũng là tiền được chuyển hố thành
hàng hố thơng qua sản xuất rồi lại chuyển hoá thành một số tiền lớn
hơn bằng việc bán hàng hố đó. Tư bản cho vay thì lưu thơng T-HT’được biểu hiện dưới dạng thu ngắn lại là T-T’ một số tiền thành một
số tiền lớn hơn. Như vậy T-H-T’thực sự là công thức chung của tư bản.
Nhưng bên cạnh đó cơng thức: T-H-T’mâu thuẫn với tất cả các quy
luật về bản chất của hàng hóa, giá trị, tiền và bản thân lưu thông.
2. Những mâu thuẫn của công thức chung:


Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
3


-Trong lưu thơng có thể có hai trường hợp xảy ra: một là trao đổi
tuân theo quy luật giá trị (trao đổi ngang giá); hai là trao đổi không tuân
theo quy luật giá trị (trao đổi không ngang giá).
- Trường hợp trao đơi ngang giá : Nếu hàng hố được trao đổi ngang
giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ T-H và H-T còn tổng giá
trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi, trước
sau không đổi. Tuy nhiên về giá trị sử dụng thì cả hai bên đều có lợi.ở
đây khơng có sự hình thành giá trị thặng dư.
Trường hợp trao đổi khơng ngang giá: Nếu hàng hóa bán cao hơn giá
trị của chúng khi đó người bán được lợi một khoản là một phần chênh
lệch giữa giá bán và giá trị thực của hàng hóa,cịn người mua bị thiệt một
khoản đúng bằng giá trị mà người bán được lợi. Cịn nếu người bán hàng
hố dưới giá trị của chúng (bán rẻ) thì người mua được lợi một khoản là
phần chênh lệch giữa giá trị thực và giá bán của hàng hố cịn người bán
bị thiệt một giá trị đúng bằng giá trị mà người mua được lợi.
Vậy trong cả hai trường hợp trên cho thấy,nếu người này được lợi
thì người kia thiệt nhưng tổng hàng hố vẫn khơng tăng lên nên cả hai
trường hợp này khơng hình thành nên giá trị thặng dư.
Tiền đưa vào lưu thông, qua lưu thơng thì thu được giá trị thặng dư
mà lưu thông không tạo ra giá trị nên không tạo ra giá trị thặng dư, tiền
rút khỏi lưu thông làm chức năng lưu thơng thì làm chức năng cất trữ thì
khơng thu được giá trị thăng dư.Như vậy cùng với lưu thơng và lại khơng
cùng với lưu thơng đây chính là mâu thuẫn của công thức chung của tư
bản .
Để giải quyết vấn đề này ta phải đứng trên các quy luật của lưu
thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ. Vấn đề cơ bản là nhà tư bản đã gặp

trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt mà khi tiêu dùng nó sẽ đem lại
giá trị thặng dư đó là sức lao động.
3.Hàng hố - sức lao động
a. Sức lao động và điều kiện tạo ra hàng hoá
Sức lao động bao gồm toàn bộ sức thần kinh, sức cơ bắp, thể lực, trí
lực tồn tại trong bản thân con người sống, nó chỉ được bộc lộ qua lao
động và là yếu tố chủ thể không thể thiếu được của mọi quá trình sant
xuất Xã hội .
Sức lao động khơng phải bao giờ cũng là hàng hố nó chỉ biến thành
hàng hố khi có đầy đủ hai điều kiện:

Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
4


Thứ nhất:người lao động phải được tự do về thân thể, tự do về năng
lực lao động của mìnhvà chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian
nhất định . Bởi vì sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với
tư cách là hàng hoá khi nó được đưa ta thị trường tức là bản thân người
có sức lao động đó đem bán nó. Muốn vậy người lao động phải đựoc tự
do về thân thể có quyến sở hữu sức lao động của mình thì mới đem bán
sức lao động được. Người sở hữu sức lao động chỉ nên bán sức lao động
trong một thời gian nhất định thơi nếu bán hẳn sức lao động đó trong
một lần thì người đó sẽ trở thành nơ lệ.
Thứ hai: Người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất,muốn
sống họ phải bán sức lao động của mình. Vì nếu người lao động được
tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng
hố và bán hàng hố do mình sant xuất ra chứ không bán sức lao động.
Khi sức lao động trở thành hàng hố,nó cũng xó hai thuộc tính là giá
trị và giá trị sử dụng nhưng nó là hàng hố đặc biệt vì vậy, giá trị và giá

trị sử dụng của nó có những nét đặc thù so với những hàng hố khác.
b. Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động:
trị.

Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá
*Giá trị của hàng hoá sức lao động:

Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định. Mà sức lao động
lại gắn liền với cơ thể sống. Do đó việc sản xuất và tái sản xuất ra sức
lao động cũng bao hàm việc duy trì cuộc sống của con người đó.Muốn
duy trì cuộc sống của bản thân mình, con người cần có một số tư liệu
sinh hoạt nhất định. Mặt khác số lượng của những nhu cầu cần thiết ấy,
cũng như phương thức thoả mãn những nhu cầu đó ở mỗi một người,
nhóm người lao động lại khác nhau,do các yếu tố lịch sử, tinh thần, nên
giá trị của sức lao động cịn mang tính tinh thần, thể chất lịch sử. Nhưng
những người sở hữu sức lao động có thể chết đi do vậy muốn cho người
ấy không ngừng xuất hiện trên thị trường hàng hố sức lao động thì
người bán sức lao động ấy phải trở nên vĩnh cửu bằng cách sinh xon đẻ
cái. Vì vậy tổng số những tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó
tức là con cái của những người lao động. Giá trị những tư liệu sinh hoạt
về vất chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động,duy trì
đời sống cơng nhân.Muốn cho mgười lao động có kiến thức và sức lao
động vận dụng khoa học trong một ngành lao động nhất định thì cần
phải tốn nhiều hay ít chi phí đào tạo.
*Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động:
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
5



Nó cũng giống như các hàng hố thơng thường khác ở chỗ là nó cũng
phải thoả mãn nhu cầu nào đó của người mua. Cịn khác ở chỗ các hàng
hố thơng thường qua tiêu dùng thì giảm dần cịn sức lao động qua tiêu
dùng tức là qua lao động thì nó tạo ra lượng giá trị mới lớn hơn giá trị
bản thân nó do người cơng nhân theo thời gian đã tích luỹ được kinh
nghiệm sản xuất. Và phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư cho nhà
tư bản. Đến đây ta đã hiểu được mâu thuẫn công thức chung của tư bản
là cùng lưu thông và không cùng với lưu thơng từ đó ta thấy khi sức lao
động trở thành hàng hóa,tiền tệ thành tư bản.
II. Sản xuất ra giá trị thặng dư.
Khi người có sức lao động đem bán sức lao động thì người mua sẽ
tiêu dùng sức lao động của họ bằng cách bắt người bán đó phải lao
động. Mà giá trị sử dụng của sức lao động chỉ thể hiện ra trong quá trình
tiêu dùng sức lao động tức là quá trình lao động và trong quá trình ấy sức
lao động tạo ra giá trị thặng dư. Do đó để nghiên cứu q trình sản xuất
ra giá trị thặng dư sẽ bắt đầu nghiên cứu quá trình lao động.
1. Quá trình lao động :
Lao động là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm
thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu con người
Như vậy quá trình lao động là sự kết hợp của 3 yếu tố: Đối tượng
lao động, tư liệu lao động và sức lao động.
- Sức lao động: Như đã nói ở trên thì nó là yếu tố cơ bản của q

trình lao động vì sức lao động gắn với con người mà con người
luôn sáng tạo ra tư liệu lao động, đối tượng lao động đồng thời sử
dụng chúng để phục vụ lợi ích của mình.
Lao động và sức lao động khác nhau ở chỗ sức lao động mới chỉ là
khả năng của lao động còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động
trong hiện thực. Mà sức lao động + đối tượng lao động và tư liệu lao
động tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình lao động, sức lao động

kết hợp với dụng cụ lao động tác động với đối tượng lao động và
chuyển toàn bộ giá trị của những tư liệu sản xuất vào sản phẩm
được tạo ra.
- Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của
con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với
mục đích con người.
Đối tượng lao động có hai loại: Loại có sẵn như gỗ, rừng, quặng
trong lịng đất,tơm,cá dưới sông biển...lao động của con người tác động
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
6


vàậ phục vụ ngay cho nhu cầu của con người.Và một loại phải qua chế
biến được gọi là nguyên vật liệu.
- Tư liệu lao động: là những vật hoặc hệ thống những vật mà con
người dùng để tác động vào đối tượng lao động cho phù hợp với nhu cầu
con người.Trong tư liệu lao động trước hết phải kể đến công cụ lao
động,đây là yếu tố trực tiếp cải biến đối tượng lao động. Sự phát triển
của công cụ lao động nói lên thời đại khác.
Tư liệu lao động và đối tượng lao động có sự phân biệt tương đối.
Đối tượng lao động và tư liệu lao động trong quá trình lao động sản xuất
hợp thành tư liệu sản xuất, do đó, có thể nói rằng: q trình lao động là
sự kết hợp của hai yếu tố: sức lao động và tư liệu sản xuất.
Đi từ cái chung là việc nghiên cứu quá trình lao động, Mác đã đi đến
phân tích q trình sản xuất giá trị thặng dư dưới CNTB.
2. Sản xuất ra giá trị thặng dư:
Mụcđích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng
mà là giá trị, hơn nữa cũng không phải là giá trị đơn thuần mà là giá trị
thặng dư.Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản phải
sản xuất ra một giá trị sử dụng nàậ đó,vì giá trị sử dụng là vật mang giá

trị và giá trị thặng dư.
Để hiểu rõ hơn quá trình sản xuất giá trị thặng dư, chúng ta lấy việc
sản xuất sợi của một nhà tư bản làm ví dụ:
Giả sử để có sợi bán nhà tư bản đã mua (giả định theo đúng giá trị)
20kg bông giá 20đôla; tiền hao mịn máy móc 3 đơla, tiền th cơng nhân
là 4đôla (Ngang bằng tư liệu sinh hoạt để họ sống trong một ngày)và giả
sử họ kéo hết số bông trên trong 4 giờ và mỗi giờ tạo ra một lượng giá
trị mới là 1 đôla. Việc mua bán trên là đúng giá trị và điều kiện sản xuất
trung bình của Xã hội.
Quá trình sản xuất được tiến hành trong 4 giờ lao động với tư cách là
lao động cụ thể công nhân kéo hết 20kg bông thành sợi. Giá trị của bơng
và hao mịn máy mócđược lao động cụ thể của công nhân chuyển dịch và
bảo tồn vào giá trị của sợi, hình thành ra bộ phận giá trị cũ (C) là 23
đôla.Như vậy để sản xuất ra 20kg sợi thì nhà tư bản phải ứng trước một
số tiền là 23 đơla. Để sản xuất ra 20kg sợi thì cần phải có 20kg bơng và
sự hao mịn của máy móc,khi 5kg sợi được sản xuất ra thì khơng có nghĩa
là giá trị của 5kg bơng và phần máy móc bị hao mịn mất đi mà phần giá
trị đó được chuyển nguyên vẹn vào giá trị của 20kg sợi. Như vậy, giá trị
của nhưng tư liệu sản xuất 20kg bông và hao mịn máy móc được biểu
hiện bằng 23 đơla, là những bộ phận cấu thành giá trị của 20kg sợi.Chú
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
7


ý là người ta chỉ chi phí một thời gian lao động cần thiết trong những
điều kiện sản xuất Xã hội nhất định mà thơi, vì vậy dù nhà tư bản có sử
dụng những tư liệu sản xuất nàậ có giá trị lớn hơn 23đơla như trên đi
nữa thì giá nhập vàậ của giá trị của 5kg sợi cũng chỉ là 23 đôla, tức là số
lao động Xã hội cần thiết của nền sản xuất mà thôi.
Xét về phần giá trị mà lao động của người công nhân đã kết hợp vào

bông. Giả định muốn sản xuất một lượng trung bình những tư liệu sinh
hoạt cần thiết hàng ngày cho một người lao động thì mất 4 giờ lao động
trung bình và giả sử 4 giờ lao động trung bình đã được vật hố trong 4
đơla.
Việc nhà tư bản trả 4 đôla cho một ngày lao động của người công
nhân là đúng giá trị của sức lao động.Trong quá trình lao động, lao động
khơng ngừng chuyển hố từ hình thái hoạt động sang hình thái tồn tại, từ
hình thái vận động sang hình thái vật thể.Như vậy 4 giờ lao động Xã hội
cần thiết,vận động kéo sợi sẽ biểu hiện ra trong một lượng sợi nhất
định là 20kg sợi.Do đó thành phần giá trị do lao động của người công
nhân kết hợp vào giá trị của 20kg sợi là 4 giờ lao động xã hội cần thiết
và chỉ là lượng vật chất hoá của số giờ lao động xã hội đó mà thơi.Vậy
cũng với 4 giờ lao động trên với tư cách là lao động trừu tượng sức lao
động của công nhân tạo ra lượng giá trị mới (V+m) là 4 đôla, kết tinh vào
giá trị của sợi.
Bây giờ ta thấy tổng giá trị của 20kg sợi gồm giá trị của 20kg bơng là
20 đơla, với hao mịn máy móc là 3 đôla và 4 giờ lao động của người
công nhân kéo sợi biểu hiện là 4 đôla.Vậy giá trị của 20kg sợi là 27đôla.
Họ ứng ra 27đôla thu về 27 đơla như vậy họ khơng đạt được mục đích.
Nhà tư bản suy nghĩ công nhân lao động được trả tiền họ cũng lao động
nhưng khơng được gì. Họ suy nghĩ công nhân được trả 4 đôla ngang
bằng với tư liệu sinh hoạt sống trong một ngày do đó khơng thể chỉ lao
động 4 giờ mà nhiều hơn nữa là 8 giờ chẳng hạn, 4 giờ sau nhà tư bản
chỉ phải mua 20kg bơng trị giá 20 đơla, hao mịn máy móc là 3 đơla. Vậy
tổng số tiền nhà tư bản ứng trước để sản xuất 40kg sợi là 40 đơla cho
40kg bơng, 6 đơla cho hao mịn máy móc, 4đôla để thuê công nhân. Tổng
là 50 đôla, mà giá trị của 40kg sợi là 54 đôla. Nếu nhà tư bản đem bán
40kg sợi (đúng giá trị) với giá 54 đơla thì thu được lượng trội hơn là 4
đơla (54-50) là giá trị thặng dư của nhà tư bản.
Để làm sáng tỏ thêm CácMác đã lấy ngày lao động của cơng nhân để

chứng minh. Ơng chia ngày lao động của công nhân làm hai phần là thời
gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Công nhân làm
việc trong phần thời gian lao động cần thiết tạo ra sản phẩm cần thiết
với tiền cơng của mình cịn làm việc trong thời gian lao động thặng dư là
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
8


tạo ra sản phẩm thặng dư cho nhà tư bản. Nhà tư bản bán nó thu về giá
trị thặng dư.
Từ đó cho ta biết được nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư:
là một bộ phận của giá trị mới, bộ phận giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao
động của công nhân. Do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra và
bị nhà tư bản chiếm không là lao động không công của công nhân cho tư
bản. Là quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, quá trình sản xuất ra giá trị
đến một thời hạn mà ở đó giá trị sức lao động của cơng nhân được hồn
lại bằng một bộ phận của giá trị mới.
Tư bản ứng trước của nhà tư bản được chia làm hai bộ phận. Một là
bộ phận tư bản được chi ra để mua tư liệu sản xuất (tư bản bất biến)
ký hiệu là C. Hai là bộ phận tư bản được chi ra để mua sức lao động (tư
bản khả biến) ký hiệu là V, bộ phận tư bản này cũng chỉ là một số tiền
như tư bản chi ra để mua tư liệu sản xuất nhưng nhờ mua được sức lao
động là loại hàng hoá đặc biệt mà khi tiêu dùng nó tạo ra giá trị thặng dư
nên trở thành lượng khả biến. Việc phân chia này càng chỉ rõ nguồn gốc
của giá trị thặng dư là sức lao động chứ không phải là máy móc hay tư
liệu sản xuất khác.
Có hai phương thức sản xuất ra giá trị thặng dư:
a. Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Đây là phương thức sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài tuyệt
đối ngày lao động trong khi phần thời gian lao động cần thiết của công

nhân không đổi. Phần thời gian giá trị thặng dư kéo dài bao nhiêu là được
hưởng bấy nhiêu.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ trong đó gồm thời gian lao động cần
thiết là 4 giờ và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao động
kéo dài tuyệt đối thành 10 giờ mà thời gian lao động cần thiết khơng đổi
thì thời gian lao động thặng dư tăng từ 4 giờ đến 6 giờ. Điều này dẫn
đến việc đấu tranh của công nhân và sự đấu tranh đó buộc nhà tư bản
phải rút ngắn thời gian lao động. Khi đó độ dài ngày lao động được xác
định và nhà tư bản phải tìm phương thức khác để sản xuất ra giá trị
thặng dư đó là phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
b. Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian lao động
cần thiết của công nhân trong khi thời gian lao động của người công
nhân không đổi dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội.

Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
9


Ví dụ: Người lao động làm việc 8 giờ trong đó 4 giờ là thời gian lao
động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nay ngày lao
động vẫn giữ nguyên là 8 giờ nhưng thời gian lao động cần thiết của
công nhân rút ngắn xuỗng còn 2 giờ nên thời gian lao động thặng dư tăng
lên từ 4 giờ đến 6 giờ. Như vậy muốn rút ngắn thời gian lao động của
công nhân phải tăng năng suất lao động xã hội và năng suất lao động xã
hội tăng ên làm cho giá trị hàng hoá tiêu dùng giảm xuống kéo theo sức
lao động giảm. Vì vậy 2 giờ lao động cần thiết cũng đảm bảo khối
lượng tư liệu sinh hoạt để công nhân tái sản xuất sức lao động, đồng
thời để tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công
nghệ. Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu

được giá trị thặng dư siêu ngạch. Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá
trị thặng dư tương đối vì nó đều do tăng năng suất lao động mà có.
Nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động
xã hội do đó tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư
siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt nên chỉ có những nhà tư
bản nào có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội thì
mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch. ở đây máy móc cơng nghệ
tiên tiến khơng tạo ra giá trị thặng dư mà nó tạo điều kiện để tăng sức
lao động của người lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn
giá trị của thị trường. Nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
B. Mặt lượng của giá trị thặng dư:
Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư,
ở khối lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng
dư.
I. Tỷ suất giá trị thặng dư:
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ so sánh giữa giá trị thặng dư và tư
bản khả biến (ký hiệu là m’).
Tỷ suất giá trị thặng dư chỉ rõ trong tổng giá trị mới so sức lao động
tạo ra thì cơng nhân được hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm được bao
nhiêu đồng thời nó cịn chỉ rõ trong một ngày lao động, phần thời gian lao
động thặng dư mà người công nhân làm cho nhà tư bản chiếm bao nhiêu
phần trăm so với thời gian lao động tất yếu làm cho mình. Nói lên sự bóc
lột của nhà tư bản với cơng nhân làm th, nó chưa nói rõ quy mơ bóc
lột. Để phản ánh quy mơ bóc lột CácMác sử dụng phạm trù khối lượng
giá trị thặng dư.
II. Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư
và tổng số tư bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
10



Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng
cơng thức:
M = m’.V
(Trong đó, V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.)
Nhìn vào cơng thức trên ta thấy,ở cùng một trình độ bóc lột (m’) nhất
định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng
giá trị thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậycó thể thấy giá trị thặng
dư phản ánh quy mơ của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng.

III. Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư:
Khi ta bán hàng hố thì giá cả phải ln ln cao hơn giá trị của nó.
Trong giá cả của hàng hố gồm giá trị của nó và phần giá trị thặng dư,
mà phần giá trị thặng dư được quyết định bởi ba nhân tố là độ dài ngày
lao động, cường độ bình thường của lao động và sức sản xuất của lao
động.
1. Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi
(cho sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi:
Đại lượng của ngày lao động khơng đổi, có nghĩa là giá trị của ngày
lao động đó khơng đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là
không đổi. Giá trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị
thặng dư. Mà giá trị của sức lao động khơng giảm xuống, thì giá trị
thặng dư khơng tăng lên, nên để có sự thay đổi đó cần phải thay đổi sức
sản xuất.
Giả định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của
lao động tăng lên, thì chỉ cần một thời gian ít hơn 4 giờ để sản xuất ra
khối lượng tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần
4 giờ để sản xuất. Do đó, giá trị của sức lao động sẽ giảm xuống.
Ngược lại, nếu sức sản xuất của lao động giảm xuống, thì giá trị của

sức lao động tăng lên. Như vậy, việc tăng năng suất lao động sẽ làm
giảm giá trị của sức lao động, và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư mà
việc tăng hay giảm của giá trị thặng dư luôn là mối quan tâm hàng đầu
của các nhà sản xuất nó là kết quả chứ không phải là nguyên nhân của
việc tăng hay giảm tương ứng của giá trị sức lao động.
2. Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi,
cường độ lao động thay đổi:

Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
11


Khi cường độ lao động cao thì sản phẩm làm ra trong ngày sẽ nhiều
hơn so với số lượng sản phẩm làm ra trong một ngày có cường độ lao
động thấp hơn mà số giờ lao động thì như nhau.
Trong trường hợp này cũng gần giống như trên là đều đem lại số
lượng sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động. Song cũng
có điểm khác là giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm trong trường hợp này
khơng đổi vì trước cũng như sau để làm ra một sản phẩm đều hao phí
một lượng lao động như nhau còn trong trường hợp tăng sức sản xuất
của lao động giá trị của mỗi đơn vị sản phẩm giảm đi vì nó tốn ít lao
động hơn trước.
Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra
khi đó tăng lên, giá trị lại khơng giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó
giá trị của sức lao động khơng đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên.
Việc đó khác với việc tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị
của sức lao động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy khối
lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương
ứng), do đó giá trị thặng dư tăng lên.
3. Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay

đổi, ngày lao động thay đổi:
Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút
ngắn lại hay kéo dài ra.
Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và
cường độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao
động, hay không làm thay đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó
làm thời gian lao động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư
giảm. Đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng
tương đối của nó so với đại lượng không đổi của giá trị sức lao động
cũng giảm xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả của sức lao động
xuống thì nhà tư bản mới khơng bị tổn thất. Nếu khơng thì việc rút ngắn
thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền với sự thay đổi của năng suất
lao động và cường độ lao động.
Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4
giờ, hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là
4 giờ và giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và
biểu hiện trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài
thêm 2 giờ, và giá cả sức lao động khơng thay đổi, thì đại lượng tương
đối của giá trị thặng dư tăng lên cùng với đại lượng tuyệt đối của nó.
Mà vì giá trị của sức lao động khơng đổi, giá trị thặng dư lại tăng lên, do
đó, đại lượng tương đối của giá trị sức lao động so với giá trị thặng dư
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
12


sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng lên là nguyên nhân làm
đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài ngày lao
động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mịn sức lao động tăng lên,
người lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mịn đó,
do đó, giá cả của sức lao động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả

của sức lao động có tăng lên thì giá trị của sức lao động cũng giảm đi
tương đối so với giá trị thặng dư.
4. Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường
độ của lao động:
Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu:
Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị
kéo dài.
Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến
những ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động,
như ngành nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ
màu mỡ của đất kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương
ứng.
Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá
trị của sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm
thời gian lao động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà
giảm xuống. Nếu như ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư
được sinh ra khi đó đúng bằng lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại
lượng của nó vẫn giảm xuống tương đối so với giá trị sức lao động. Và
nếu tiếp tục kéo dài thời gian lao động thì có thể cả hai đại lượng tuyệt
đối và tương đối của giá trị thặng dư có thể tăng lên.
Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày
lao động
Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời
gian lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động
thặng dư được kéo dài ra, giá trị thặng dư được sinh ra tăng lên. Và do
đó, có thể rút ngắn ngày lao động đến khi thời gian lao động thặng dư
khơng cịn nữa, nhưng cả khi sức sản xuất và cường độ của lao động có
tăng đi nữa, giới hạn thời gian lao động cần thiết vẫn sẽ được nới rộng,
bởi vì, càng ngày con người càng có nhu cầu sinh sống, hoạt động phong
phú hơn, đồng thời một phần lao động thặng dư ngày nay sẽ được tính

vào lao động cần thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc thành
lập quỹ dự trữ và quỹ tích luỹ xã hội. Năng suất lao động càng phát
triển, thì lại càng có thể rút ngắn ngày lao động, và ngày lao động càng
rút ngắn lại thì cường độ lao động càng có thể tăng lên.
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
13


IV. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên bản chất của nền sản xuất
TBCN. Trong đời sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư
chuyển hố và biểu hiện thành lợi nhuận cơng nghiệp, lợi nhuận thương
nghiệp, lợi nhuận ngân hàng, lợi tức cho vay, địa tô TBCN.
1. Lợi nhuận:
Muốn tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi ra một số lao động nhất
định gọi là chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ và lao động hiện
tại. Lao động quá khứ (lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản
xuất (C), lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị
mới (V+m). Chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí tạo
ra giá trị hàng hóa (W). W=C+V+m
Song đối với nhà tư bản họ không phải chi phí lao động để sản xuất
hàng hóa cho nên họ khơng quan tâm đến cịn trên thực tế họ chỉ quan
tâm đến việc ứng tư bản để mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao
động (V). Do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ
khơng tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. CácMác gọi chi phí
đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) (k=C+V). Như vậy chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để
sản xuất hàng hoá. Như vậy giá trị hàng hóa là W= C+V+m sẽ chuyển
thành W= k+m. Nhìn vào cơng thức trên thì ta thấy sự phân biệt giữa C
và V đã biến mất, người ta thấy dường như k sinh ra m. Chính ở đây chi

phí lao động bị che lấp bởi chi phí tư bản (k) lao động là thực thể, là
nguồn gốc của giá trị thì bị biến mất và giờ đây hình như tồn bộ chi phí
sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra giá trị thặng dư.
Giữa giá trị hàng hố và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa ln ln
có một khoảng chênh lệch cho nên sau khi bán hàng (giá cả bằng giá trị)
nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được
một số tiền lời ngang bằng với m, số tiền này được gọi là lợi nhuận (p)
do đó cơ cấu sản phẩm là W=k+p.
Giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận có sự khác nhau cơ bản về chất và
lượng. Giá trị thặng dư thì sinh ra từ V (tức là lao động của cơng nhân)
cịn lợi nhuận thì được coi là đã được sinh rat từ C+V (tư bản ứng
trước). Nhưng chúng cũng có sự giống nhau ở chỗ đều có chung một
nguồn gốc là kết quả lao động khơng công của công nhân làm thuê. Thực
chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận chẳng qua chỉ là
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
14


một hình thái thần bí hố của giá trị thặng dư. Như CácMác viết: “Giá trị
thặng dư hay là lợi nhuận chính là phần giá trị dơi ra ấy của giá trị hàng
hóa so với chi phí sản xuất của nó nghĩa là phần dơi ra của tổng số
lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được
trả cơng chứa đựng trong hàng hố. Nếu như nhà tư bản bán hàng hoá
với giá cả bằng giá trị thì khi đó
m =p, nếu bán với giá cả cao hơn giá trị thì khi đó m giá cả nhỏ hơn giá trị thì khi đó m>p. Nhưng trong tồn xã hội thì tổng
giá cả luôn bằng tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự
khơng nhất trí giữa m và p nên càng che dấu thực chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản.
Trong nền kinh tế tư bản mặc dù lợi nhuận là mục đích trực tiếp và

tối cao của các nhà tư bản nhưng khi bắt đầu đầu tư vào một ngành sản
xuất kinh doanh nào đó thì cái mà nhà tư bản quan tâm đến trước hết là
tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá
trị thặng dư mà nhà tư bản đã bóc lột được của cơng nhân làm th so
với tổng tư bản ứng trước ký hiệu là p’ vì thế có cơng thức p’ (C+V) = m x
100%. P’ khơng phản ánh trình độ bóc lột mà nó chỉ phản ánh nơi đầu tư
vốn có lợi nhất cho nhà tư bản về lượng. Do đó việc thu lợi nhuận và
theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy, là mục tiêu cạnh tranh
của các nhà tư bản. Sự thèm khát lợi nhuận của các nhà tư bản là khơng
có giới hạn. Mức tỷ suất lợi nhuận cao bao nhiêu cũng khơng thoả mãn
được lịng tham vơ đáy của chúng. Nhưng tỷ suất lợi nhuận lại phụ
thuộc vào những yếu tố khách quan: Tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì
tỷ suất lợi nhuận cáng lớn và ngược lại, tỷ suất giá trị thặng dư không
đổi, cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và
ngược lại. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lờn thì tỷ suất giá trị
thặng dư hàng năm càng tăng lên do đó tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.
Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi
nếu tư bản khả biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.
2.Lợi nhuận thương nghiệp:
Đối với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản thì lợi nhuận
thương nghiệp được coi là do mua rẻ bán đắt mà có. CácMác nói: lợi
nhuận thương nghiệp khơng những là kết quả việc ăn cắp và lừa đảo
mà đại bộ phận lợi nhuận thương nghiệp chính là do những việc ăn cắp
lừa đảo mà ra cả.
Đối với tư bản thương nghiệp,tư bản chủ nghĩa thì nhìn bề ngồi
hình như là lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ bán đắt mà có do lưu
thơng tạo ra. Nhưng về bản chất thì lợi nhuận thương nghiệp một phần
giá trị thặng dư sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
15



nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Vậy tại sao nhà tư bản
công nghiệp lại nhường một phần giá trị thặng dư của mình cho nhà tư
bản thương nghiệp.Sở dĩ như vậy là do nhà tư bản thương nghiệp đã
đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng để nhà tư bản công nghiệp rảnh tay
tập trung vào sản xuất. Nhờ đó mà nhà tư bản cơng nghiệp rút ngắn
được vịng tuần hồn vốn (tư bản), nhờ đó thu được nhiều lợi nhuận
hơn. Hơn nữa khi tham gia vào quá trình đó nhà tư bản thương nghiệp
cũng phải ứng vốn ra để kinh doanh do họ cũng muốn có lợi nhuận.
Nhường bằng cách nào? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách
bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị
công nghiệp, giá bán này nhỏ hơn giá trị hàng hố, bằng chi phí sản xuất
cộng lợi nhuận công nghiệp rồi nhà tư bản thương nghiệp đem hàng hoá
bán cho người tiêu dùng theo giá bán lẻ bằng giá trị hàng hố hay chi phí
sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp và tư bản thương nghiệp.
3.Lợi tức:
Tư bản cho vay là tư bản sinh lợi tức. Đứng về phìa nhà tư bản cho
vay thì do họ nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác
trong một thời gian nhất định nên thu được lợi tức.Về bản chất của lợi
tức là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà
các nhà tư bản hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay về món tiền mà nhà
tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản hoạt động sử dụng. Như vậy
thức chất lợi tức chỉ là một phần lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động thu
được nhờ sử dụng tư bản đi vay, phải trả cho nhà tư bản cho vay. Trên
thực tế lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay
phải trả cho nhà tư bản cho vay, căn cứ vào số tư bản mà nhà tư bản cho
vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng.

4. Địa tô tư bản chủ nghĩa:

Dưới chủ nghĩa tư bản có hình thức sở hữu độc quyền về đất đai, nó
cho phép địa chủ có quyền chiếm hữu một phần giá trị thặng dư do
những hoạt động diễn ra trên mảnh đất ấy sinh ra, không kể đất đai đó
được dùng trong nơng nghiệp, cho xây dựng, cho đường sắt hay cho bất
kỳ một mục đích sản xuất nào khác. Địa tô chỉ là một phần của giá trị
thặng dư sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận của tư bản kinh doanh nông
nghiệp.

Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
16


Như thế, có thể nói lợi nhận cơng nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp,
lợi tức, địa tô chỉ là các phần khác nhau của giá trị thặng dư - được sinh
ra từ lao động của người công nhân làm thuê - phân giải thành.
C. ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu về giá trị thặng
dư đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN:
1. Nghiên cứu để có nhận thức đúng về giá trị thặng dư là nhằm
tránh những nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước
ta đang thực hiện:
Sau khi mơ hình CNXH ở Liên Xơ và Đông Âu sụp đổ, các học giả tư
sản đã thừa cơ đẩy mạnh cơng kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin;
nhiều nhà khoa học ở các nước XHCN cũng hoài nghi, thậm chí phê
phán, địi xét lại các ngun lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có học
thuyết giá trị thặng dư. Họ làm như vậy là bởi vì họ không hiểu được
cốt lõi lý luận của Mác, nhất là không nắm được phương pháp duy vật
biện chứng của Mác trong nghiên cứu và trình bày học thuyết giá trị
thặng dư. Do đó, việc nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ giúp tránh được
những sai lầm như thế.

Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói: “Nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa
duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư), chủ nghĩa xã hội đã trở thành
một khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu
nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó”, điều đó có
nghĩa là việc nghiên cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc
biệt, hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều
chỉnh để bảo vệ cho chính mình, mà những chính sách điểu chỉnhh ấy đã
làm cho sự bóc lột trở nên ngày càng tinh vi hơn, bản chất bóc lột được
che giấu. Nếu như không nghiên cứu về lý luận giá trị thặng dư này và
đặt nó trong tình hình mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận giá trị
thặng dư, cho phù hợp với tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những
nghi ngờ.
2.Việc nghiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư
giúp chúng ta thấy được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó khơng
đồng nhất giá trị thặng dư với sự bóc lột, tránh có những nhận thức
sai lầm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được áp
dụng ở nước ta hiện nay:
Quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình phấn đấu
lâu dài và gian khổ. Từ khi chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp chuyển
sang kinh tế thị trừơng định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta đã đạt
được rất nhiều thành tựu về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá...
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
17


Nâng cao và cải thiện đời sống của nhân dân. Do Đảng và nhà nước
ta đã áp dụng nhưng cuộc sống để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh
thần năng động sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất
thúc đẩy cơng nghiệp hố - hiện đại hố. Với những biện pháp như trên
đã làm hoạt động kinh tế nước ta ngày càng tăng trưởng thu được nhiều

lợi nhuận, đang từng bước tham gia và hội nhập, đuổi kịp các nước trong
khu vực và trên thế giới. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho
ta những giải pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư của nền kinh tế.
Nó góp phần thay đổi nhận thức sai lầm trước đây về giá trị thặng dư,
coi nó là phạm trù riêng của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nó với sự bóc
lột cần phải xố bỏ. Việc nghiên cứu sẽ nhận thức đúng rằng: giá trị
thặng dư là phạm trù chung của bất kì chế độ xã hội nào có thời gian lao
động xã hội lớn hơn thời gian lao động cần thiết. Và các quyết định sự
bóc lột khơng phải là lượng giá trị thặng dư được sinh ra nhiều hay ít mà
là việc phân phối giá trị thặng dư đã được tạo ra như thế nào. Từ đó
chúng ta có được những quan niệm tốt phá bỏ được nhiều định kiến
khơng hay, để có thể mở rộng khả năng kinh doanh và phát triển nền
kinh tế, phát huy hết tiềm năng của mình.
3. Nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa trong việc đề ra các
chính sách kinh tế phù hợp
Với lý luận giá trị thặng dư và thực tiễn của nó, khơng những giúp
chúng ta phá vỡ những định kiến về kinh tế tư nhân mà cịn giúp đưa ra
các chính sách kinh tế phù hợp như áp dụng kỹ thuật và sản xuất sẽ giúp
xây dựng hồn thiện các chính sách chiến lược phát triển khoa học công
nghệ thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Giúp chúng ta thấy được sự tác động của quy luật giá trị thặng dư sẽ
dẫn tới cạnh tranh gay gắt, hình thành độc quyền, do đó làm cho sự phân
hố giàu nghèo càng trở nên rõ rệt. Song song với việc phát triển kinh tế,
có nhiều mặt tích cực vẫn cịn tồn tại rất nhiều những tiêu cực theo sự
phát triển kinh tế. Vì vậy cần phải có những chính sách để khắc phục
những hạn chế (xố đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập dân cư...)

Chương 2 : Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng phạm trù
giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay
A. Quan điểm của Đảng về việc nghiên cứu và vận dụng học

thuyết giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN hiện nay
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cịn mang nặng tính tự túc, tự cấp. Vì vậy sản xuất hàng hố phát
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
18


triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển dần thành nền kinh tế
hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất. Chính trên cơ sở này Đảng và
Nhà nước ta đã xác định: “Mơ hình kinh tể ở Việt Nam được xác định là
nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời sản xuất
hàng hố khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là những thành tựu phát
triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội được xác
định”. Điều này cho thấy Đảng ta thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù
kinh tế trong đó có phạm trù giá trị thặng dư.
Mà trong cương lĩnh thông qua tại đại hội VII Đảng ta đã khẳng
định: “Chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng và
kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng”. Thế có nghĩa là việc vận
dụng giá trị lý luận về giá trị thặng dư của Mác vào sự hoạt động của
nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Ta vận dụng một quan điểm
nào đó của Mác-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh
ra đời, phạm vi nhiệm vụ không nên bê nguyên si vận dụng cứng nhắc
vào tình hình thực tiễn. Từ đó khi vận dụng lý luận giá trị thặng dư của
Mác vào hoạt động của nền kinh tế nước ta phải nghiên cứu để nắm
vững lý luận này. Để hạn chế bớt mặt tiêu cực của sự hoạt động quy
luật giá trị thặng dư đó là sự phân hố giàu nghèo tình trạng cạnh tranh
gay gắt thì theo đại hội IX nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách xã hội

hướng vào phát triển và lành mạnh hố xã hội, thực hiện cơng bằng
trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp”.
B. Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở
nước ta hiện nay
I.Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư hiện nay ở nước
ta
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, nghiên cứu
vận dụng học thuyết kinh tế của Mác và cụ thể là học thuyết giá trị
thặng dư. Trong điều kiện hoàn cảnh mới hiện nay các nghiên cứu đã
chứng minh những luận điểm đúng đắn của Mác: “ Chỉ có lao động mới
tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, máy móc tuy có vai trị khơng thể thiếu
trong quá trình sản xuất, là điều kiện để sản xuất giá trị thặng dư song
nó khơng làm tăng giá trị mà chỉ chuyển dần giá trị của nó vào trong sản
phẩm mới; phân tích rõ đặc điểm vai trị của lao động trí tuệ, lao động
quản lý trong q trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thặng dư;
khẳng định sản xuất tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật
tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
19


ngày nay vẫn là chế độ xã hội dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm
thuê...”. Điều này cho thấy lý luận giá trị thặng dư của Mác trong điệu
kiện mới của thời đại được khẳng định.

II. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư ở nước ta
Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, là việc phát triển nguồn nhân lực;
khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế; áp dụng khoa

học công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động; và việc phân
phối giá trị thặng dư.
1.Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta
Nước ta có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động
chiếm phần đa số ngồi ra cịn phải kể đến hàng triệu người già vẫn còn
khả năng lao động và mong muốn được lao động. Thêm vào đó người lao
động Việt Nam lại cần cù, chăm chỉ, năng động có khả năng thích ứng
thị trường cao, nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật mới ứng dụng vàậ sản
xuất kinh doanh. Tuy đây là một thuận lợi lớn của nước ta song chất
lượng lao động và trình độ kỹ thuật, tay nghề của lao động Việt Nam
còn thấp, cơ cấu ngành không hợp lý, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động
khơng có việc làm cao. Muốn khắc phục nhược điểm này ta phải biết
tăng chất lượng của nguồn lao động như nâng cao trình độ học vấn của
nhân nhất là phổ cập tiểu học, trung học cơ sở, mở trường dạy nghề,
học phải gắn với thực hành. Trước tình hình đó Đảng đã có chủ trương:
“ Xã hội hố giáo dục nhằm đa dạng hố các loại hình giáo dục, đào tạo
với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm”. Với những chủ
trương đó chất lượng nguồn lao động đã có những sự biến đổi so với
trước đây.
2. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả
Đứng trước xu thế tồn cầu hố kinh tế và sự tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ nền kinh tế nước ta không thể là một nền
kinh tế khép kín mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế thực hiện đa dạng hoá đa phương hoá
quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên
ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ công
nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm...mở rộng phân công lao động quốc tế,
tăng cường liên doanh liên kết hợp tác để tạo điều kiện khuyến khích
sản xuất trong nước phát triển bắt kịp vởi trình độ thế giới.


Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
20


Từ năm 1991, nguồn vốn đầu tư trong nước liên tục tăng, tổng vốn
đầu tư trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ đồng, đến năm 1996 là
54912 tỷ đồng, tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là 72084 tỷ
đồng, tăng gần 7 lần so với năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996.
Trong đó, vốn đầu tư khu vực quốc doanh thường cao hơn khu vực ngoài
quốc doanh. ở giai đoạn 1999 – 2001, tổng vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng,
riêng năm 2001, tăng lên hơn 10.000 tỷ đồng so với năm 2000.
Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoàit ta đã tranh thủ được
nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, Cho đến nay,
tổng mức cam kết tài trợ là13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần
10 tỷ USD và số vốn đã giải ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Nhà
nước đã ban hành “luật đầu tư nước ngoài”. Cho đến hết 2000, đã có 66
nước và vùng lãnh thổ với nhiều cơng ty, tập đồn lớn đã đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam.
Trong cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành ta thấy, vốn đầu tư thuộc
kinh tế nhà nước phần lớn dành cho ngành dịch vụ từ 51,02% năm 1999
lên 51,45% năm 2001, vốn đầu tư cho công nghiệp giảm từ 36,13% năm
1999 xuống 35,81% năm 2001. Còn phân theo ngành của kinh tế ngồi
quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ trọng vốn đầu tư
dành cho công nghiệp và nông nghiệp không ngừng tăng lên, vốn đầu tư
dành cho ngành dịch vụ giảm từ 45,83% năm 1999 xuống 44,04% năm
2001. Như vậy muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc
tế chúng ta phải có những sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt
Nam. Vì thế phải phát triển cơng nghiệp, thu hút vốn đầu tư nhằm nâng
cao sức mạnh cho công nghiệp.
3. áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất

Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc khơng tạo ra giá trị
thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ
giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá
trị thặng dư tăng lên.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu
cầu không thể thiếu đối với nông nghiệp, đem lại giá trị kinh tế cao như
sản xuất thu hoạch bảo quản chế biến...
Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện
tử, viễn thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế
giới và đã thực hiện được đúng theo chủ trương “đi trước đón đầu” của
Đảng ta. Với các lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng
các máy móc hiện đại vào sản xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng
giá trị sản xuất cơng nghiệp lên 12,9% (năm 2000).
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
21


4.Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối giá trị thặng dư ở
nước ta:
Ngày nay sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công
trong công việc kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có
đóng góp tài sản, tiền vốn mà cịn đóng góp sức lao động của mình vào
q trình sản xuất. Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị
thặng dư. Tài sản và tiền vốn có nguồn gốc từ lao động – là sản phẩm
của lao động –nên nó đóng vai trị hết sức quan trọng của quá trình sản
xuất. Tài sản và vốn là yếu tố thu hút sức lao động, và nhờ vậy sản xuất
ra giá trị thặng dư và phần thu nhập của người chủ kinh doanh là khơng
liên quan đến bóc lột. Và hiện nay, ở nước ta cũng đang thực hiện cách
phân phối này, phân phối theo lao động và phân phối theo vốn, tài sản.
Phân phối theo lao động thì dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thì

hưởng ngang nhau, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Với xu thế
cổ phần hố trong sự hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp, có
phần góp vốn của người lao động và người lao động cũng được phân
phối một phần lợi nhuận cho vốn – theo vốn của họ. Đây là hình thức
phân phối giá trị thặng dư Nhưng trong xã hội cũng có những người
khơng thể tham gia góp vốn và lao động được thì cần phải có hình thức
phân phối lại qua các quỹ phúc lội công cộng của xã hội và của tập thể.
Nội dung của hình thức phân phối này được biểu hiện ở việc: mọi cơng
dân đều phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước - Nhà nước là đại
diện cho lợi ích của tồn dân, tồn xã hội. Nhà nước trích một phần ở
trong ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc lợi xã hội. Những người được
hưởng họ sẽ không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ giá trị
mà họ đã sáng tạo ra mà họ sẽ được hưởng gián tiếp từ từ thông qua các
quỹ phúc lợi hay các hàng hố cơng cộng.

Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
22


Chương 3: Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng
dư nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay
I. Các giải pháp về vấn đề vốn đầu tư:
1. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp:
Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành
theo hướng tăng đầu tư cho ngành sản xuất vật chất và giảm đầu tư đối
với ngành dịch vụ. Vì chỉ có phát triển cơng nghiệp, chúng ta mới thực
sự phát huy được năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho cơng nghiệp,
với mục tiêu lấy đó làm đà để phát triển các ngành khác trong nền kinh
tế quốc dân, trong đó đặc biệt phải đầu tư cho ngành công nghiệp chế

biến, cần phải chú ý đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến nông – lâm
sản, vì đây là chìa khố, nhằm nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh của
hàng hố nơng lâm sản trên thị trường thế giới.
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư này cần được coi là nhiệm vụ của
tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay một vài
doanh nghiệp nhà nước.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc
dân.
Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng
thời Nhà nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chính sách
kinh tế vĩ mơ (như thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những
ngành cần đầu tư) nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư
cũng như cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
2. Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình
đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng.
Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ
tục cho các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội tốt chỉ xuất hiện
trong thời gian ngắn.
Tăng cường khả năng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Băng
cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các kỹ thuật sản
Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
23


xuất tiên tiến, hiện đại thông qua các buổi thuyết trình, giới thiệu sản
phẩm của các cơng ty nước ngồi. Xây dựng một hệ thống thơng tin về

tình hình khoa học kỹ thuật của thế giới cho các doanh nghiệp. Tăng
cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các
doanh nghiệp trong nước.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngồi, cần thơng qua các hoạt động
ngoại giao, thuyết phục các nước công nhận rằng hiện nay Việt Nam
đang thực hiện kinh tế thị trường, thông qua các buổi thuyết trình hay
triển lãm tại nước ngồi để giới thiệu về mơi trường đầu tư tại Việt
Nam, các chính sách ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài cho các
doanh nhiệp, doanh nhân nước ngoài, cũng như với kiều bào Việt Nam ở
nước ngồi.
3.Khơng ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
hoạt động đầu tư. Khi nói đến hiệu quả đầu tư là khơng chỉ nói đến
hiệu quả kinh tế mà cịn phải nói đến hiệu quả xã hội (tức là việc đầu
tư đó, có thể thu hút được bao nhiêu lao động; ảnh hưởng đến môi
trường ở mức độ nào…). Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
phụ thuộc vào mục đích của hoạt động đầu tư là hiệu quả kinh tế hay
hiệu quả xã hội. Vì vậy, khi đầu tư phải xác định rõ mục đích đầu tư và
khơng được thay đổi mục đích đó trong quá trình tiến hành hoạt động
đầu tư.
Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh
tế, tận dụng tính năng động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát
triển sản xuất. Chủ đầu tư phải được độc lập trong việc lựa chọn lĩnh
vực đầu tư và phương án đầu tư, tránh tình trạng đầu tư theo phong trào.
Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là chú ý
đến việc thực hiện giá trị thặng dư, theo lý luận giá trị thặng dư của
Mác, giá trị được sinh ra trong lĩnh vực sản xuất, chứ khơng phải trong
lưu thơng, nhưng q trình lưu thơng lại là q trình thực hiện giá trị, mà
nếu giá trị khơng được thực hiện thì cũng khơng có giá trị thặng dư. Vì
vậy, trong q trình sản xuất, doanh nghiệp phải chú ý đến giá trị sử

dụng của hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời phải sử dụng
các phương thức có hiệu quả để bán hàng, nhằm thực hiện giá trị thặng
dư.
Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến,
nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng dư siêu ngạch.

Mặt chất và lượng của giá trị thặng dư và ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta
24


×