Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận quy luật giá áp dụng vào kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.97 KB, 35 trang )

TIỂU LUẬN:

Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá, và
sự vận dụng quy luật này trong xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


Lời mở đầu
Đối với mỗi quốc gia thì sản xuất hàng hố ln ln giữ vị trí quan trọng, đây là
một trong những hoạt động có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của quốc gia. Sản
xuất hàng hoá thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động, phát triển chun mơn
hố, tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, tạo điều
kiện cải tiến kỹ thuật, nâng cao trình độ sản suất, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc đẩy
sản xuất phát triển. Ngồi ra, sản xuất hàng hố cịn làm cho q trình giao lưu kinh tế
văn hố giữa các địa phương, các vùng, các nước ngày càng phát triển, đời sống tinh
thần được nâng cao, phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển tự do độc lập
của cá nhân. Trong sản xuất hàng hố, có một quy luật rất quan trọng đó là quy luật giá
trị. Đây là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và trao
đổi hàng hố được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết. Thông qua sự vận
động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị giá cả thị
trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật
giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung - cầu,
sức mua của đồng tiền. Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày quy luật kinh tế chi phối
hoạt động của sản xuất và lưu thơng hàng hố người ta chỉ trình bày quy luật giá trị, một
quy luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó.
Đất nước ta đang trong q trình đổi mới, phải đối mặt với rất nhiều thách thức và
khó khăn nhất là trong phát triển kinh tế, do đó địi hỏi chúng ta phải áp dụng những


biện pháp phát triển kinh tế thật thận trọng, khẩn trương và có hiệu quả. Chính vì vậy,
việc vận dụng quy luật giá trị vào phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay là rất quan trọng.


Trước tầm quan trọng của quy luật giá trị, em đã thực hiện nghiên cứu đề tài: “Quy
luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá, và sự vận dụng quy luật này trong xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”. Quy luật này nhằm khẳng định lại
một lần nữa vai trò quan trọng của quy luật giá trị, và nêu nên sự vận dụng quy luật này
đối với nước ta.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ: Trần Thị Tố Linh đã giúp đỡ em rất nhiều trong
quá trình nghiên cứu đề tài này. Và em rất mong có sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ
giáo để cho đề tài này hoàn thiện hơn nữa.


Chương I: Những vấn đề cơ bản về quy luật giá trị

1/ Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và trao đổi hàng hố.
Do đó ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hố thì ở đó có sự xuất hiện và hoạt động của
quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu thơng hàng
hố đều chịu sự tác động và chi phối của quy luật này. Tuân theo yêu cầu của quy luật
giá trị thì mới có lợi nhuận, mới tồn tại và phát triển được, ngược lại sẽ bị thua lỗ và phá
sản.
Quy luật gia trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thơng hàng
hố. Theo quy luật này, sản xuất và trao đổi hàng hoá tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị
trường. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy
luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế
tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua
cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày
quy luật kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thơng hàng hố người ta chỉ
trình bày quy luật giá trị, một quy luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cấu thành cơ
chế tác động của nó.
Do tầm quan trọng của cơ chế tác động và để tăng ý nghĩa thực tiễn của quy luật giá
trị, những năm gần đây, các nhà kinh tế học thấy cần phải nhấn mạnh các nhân tố cạnh



tranh, lượng tiền cấn thiết cho lưu thông cung – cầu đối với sự biến động của giá cả thị
trường và trình bày chúng thành các quy luật: cạnh tranh, cung - cầu và lưu thông tiền
tệ. Mặc dù được trình bày thành những quy luật kinh tế riêng, song, về nhận thức lý
luận, chúng ta cũng chỉ nên coi chúng là những quy luật kinh tế phát sinh từ quy luật giá
trị, hiểu theo nghĩa đầy đủ của quy luật này.
2/ Các quy luật có liên quan và mối quan hệ của chúng với quy luật giá trị.
2.1/ Quy luật lưu thơng tiền tệ.
Cịn sản xuất hàng hố thì cịn lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ. Quy luật lưu
thông tiền tệ xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan.
Nội dung của quy luật này thể hiện ở mối quan hệ giữa lượng tiền phát hành với các
nhân tố có liên quan. C.Mác trình bày nội dung của quy luật này qua công thức khái
qt và cơng thức ở dạng cụ thể của nó:
- ở dạng khái quát, nội dung của quy luật này là:

M = P * Error!


Trong đó:
M là lượng tiền phát hành cần thiết cho lưu thơng
P là mức giá cả hàng hố, dịch vụ
Q là khối lượng hàng hoá , dịch vụ đem ra lưu thơng
V là vịng quay trung bình của đồng tiền cùng loại
- ở dạng cụ thể, khi C.Mác xem xét cơng thức khái qt gắn với các chức năng
thanh tốn, gắn với tín dụng, cơng thức biểu diễn nội dung quy luật này là:

M = (1) - (2) – (3) – Error!

Trong đó:

(1) là tổng giá cả hàng hố, dịch vụ đem bán
(2) là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ bán chịu
(3) là tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ khấu trừ cho nhau
(4) tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ đến kỳ thanh toán


(5) là vịng quay trung bình của tiền tệ cùng tên gọi.
Từ cơng thức trên có thể thấy những nhân tố có quan hệ đến lượng tiền phát hành
đến lượng tiền phát hành, trong đó: M tỷ lệ thuận với (1) và (4) và tỷ lệ nghịch với (2),
(3) và (5).
Cần ý thức rằng quy luật lưu thông tiền tệ như đã phân tích ở trên là quy luật lưu
thơng của tiền (vàng). Khi vận dụng quy luật này trong điều kiện tiền giấy thì tình hình
có sự khác đi nhất định. Vì tiền giấy khơng có tác dụng tự điều chỉnh qua hai kênh lưu
thơng và tích luỹ như tiền (vàng) . Bởi vậy, để quy luật này có hiệu lực trong điều kiện
tiền giấy phải rất coi trọng khi điều khiển và khống chế lượng tiền giấy phát hành cho
lưu thơng.
2.2 / Quy luật cung cầu hàng hố, dịch vụ

lý luận và thực tiễn đều khẳng định: ở nơi nào có nhu cầu thì ở nơi đó cũng xuất
hiện luồng cung ứng hàng hố, dịch vụ để hình thành mối quan hệ cung cầu.
Mối quan hệ nhân quả giữa cung và cầu liên tục tiếp diễn trên thị trường, tồn tại một
cách khách quan, độc lập với ý thức của con người được gọi là quy luật cung cầu.
Sự hoạt động của quy luật này thể hiện ở cơ chế vận động giữa giá cả thị trường và
giá trị hàng hố thơng qua các trường hợp: cung bằng cầu, cung lớn hơn cầu và cung
nhỏ hơn cầu:
- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hoá trong sản xuất


- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị hàng hoá trong sản xuất
- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị hàng hố trong sản xuất

Vai trị của quy luật cung cầu:
Quy luật cung cầu giải thích rõ nhất, chính xác nhất vì sao giữa giá trị và giá cả thị
trường lại không ăn khớp với nhau, tạo điều kiện cho quy luật giá trị có cơ chế hoạt
động. Tuy cung cầu khơng trực tiếp quyết định sự hình thành giá trị hàng hố, nhưng nó
cũng ảnh hưởng gián tiếp đến chu kỳ sản xuất sau đối với sự hình thành giá trị hàng
hóa, thơng qua tác động của thị trường làm thay đổi điều kiện sản xuất và thay đổi năng
suất lao động, giúp các giám đốc có những quyết định năng động, linh hoạt trong sản
xuất, kinh doanh và trong ký kết các hợp đồng kinh tế.
2.3 / Quy luật cạnh tranh

Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau,
giữa người sản xuất với người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ, nhằm dành được những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để thu được nhiều lợi ích nhất
cho mình.
Những người sản xuất, tiêu thụ có điều kiện khác nhau về trình độ trang bị kỹ thuật,
chuyên môn, không gian, môi trường sản xuất, điều kiện nguyên vật liệu... nên chi phí
lao động cá biệt khác nhau. Kết quả có người lãi nhiều, có người lãi ít, có người phá
sản. Để dành lấy các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm buộc họ


phải cạnh tranh. Cạnh tranh có hai loại: canh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành
mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là dùng tài năng của mình về kinh tế và quản lý để tăng
năng suất, chất lượng, và hiệu quả, vừa có lợi cho nhà kinh doanh, vừa có lợi cho xã hội.
Cạnh tranh không lành mạnh là dùng những thủ đoạn phi đạo đức, vi phạm pháp
luật( trốn thuế, nâng giá...) có hại cho xã hội và người tiêu dùng.
Quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải cái lạc hậu, bình tuyển cái tiến bộ để thúc
đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại: nghiên cứu các quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ và cung cầu không chỉ để
nhận thức lực lượng khách quan chi phối thị trường , mà cịn có ý nghĩa đối với việc
thực hiện chức năng quản lý ở hai tầng quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước và quản lý vi

mơ của các doanh nghiệp.
Có thể khái qt mối quan hệ giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường
qua sơ đồ sau:

Quy luật giá
trị
Quy luật lưu
thông tiền tệ

Quy luật cạnh
tranh

Quy luật cung cầu


Từ sơ đồ trên cho thấy không thể làm chủ kinh tế thị trường và cơ chế vận hành của
nó nếu không nắm bắt và vận dụng một cách tổng hợp các quy luật kinh tế nói trên
trong kinh tế và quản lý kinh tế. Cũng từ sơ đồ trên cho thấy các quy luật cạnh tranh,
quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cung cầu chỉ là những quy luật phát sinh từ quy luật
giá trị. Nó có tác dụng bổ sung và thông qua bổ sung tạo ra vẻ đẹp cho sự hoạt động hay
tạo ra cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Từ đó cần phê phán những quan điểm
không đúng khi họ cường điệu quá đáng, thậm chí thừa nhận quy luật cung cầu mà
không thừa nhận quy luật giá trị với tư cách là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và
trao đổi hàng hoá đã được các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển và C.Mác phát hiện và
hoàn thiện quy luật này.


Chương II: Quy luật giá trị trong sản xuất hàng hoá

1/ Khái niệm sản xuất hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá: Là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó nhưng người sản xuất ra sản
phẩm không phải để tiêu dùng cho mình mà để bán trên thị trường.


2/ Đặc trưng của sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hố khơng phải để mình dùng, mà là để bán. Nhu cầu lớn và không
ngừng tăng lên là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của sản xuất hàng hoá.
Người tiêu dùng được tự do lựa chọn hàng hố phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh
tốn và thị hiếu của mình.
Sản xuất hàng hố ra đời trên cơ sở của phân công lao động và lại thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động, phát triển chun mơn hố, tạo điều kiện phát huy lợi thế
so sánh của mỗi vùng, mỗi đơn vị sản xuất, tạo điều kiện cải tiến kỹ thuật, nâng cao
trình độ kỹ thuật, mở rộng phạm vi sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sản xuất hàng hố trong mơi trường cạnh tranh gay gắt, trong điều kiện quy mô sản
xuất lớn, các nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, buộc người sản xuất phải không
ngừng cải tiến, đổi mới kỹ thuật, công nghệ nâng cao năng suất, chât lượng, hiệu quả
sản xuất và sử dụng tiết kiệm các yếu tố sản xuất.
Trong sản xuất hàng hoá, với sự phát triển của sản xuất, với vai trò của động lực của
nhu cầu, với sự phát triển của giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các vùng, các nước mà đời
sống tinh thần đều được nâng cao, phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển
tự do, độc lập cuả cá nhân. Tính chất “mở” là đặc trưng của các quan hệ hàng hoá - tiền
tệ, mở trong quan hệ giữa các doanh nghiệp, giữa các địa phương, các vùng và với nước
ngồi.
3/ Hàng hố.


Hàng hố: là sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người thơng
qua trao đổi mua - bán với nhau. Hàng hóa là một phạm trù lịch sử. Sản phẩm lao động
mang hình thái của hàng hố khi nó là đối tượng mua - bán trên thị trường. Hàng hố có
thể ở dạng vật thể (hữu hình) hay ở dạng phi vật thể.

3.1 / Hai thuộc tính cuả hàng hố

Hàng hố có hai thuộc tính:
a/ Giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là công cụ của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con
người, hoặc là nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân như lương thực, thực phẩm... hoặc là nhu
cầu cho sản xuất như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu; là nhu cầu vật chất hay nhu cầu
tinh thần... Chính cơng cụ của vật phẩm làm cho nó trở thành một giá trị sử dụng hay có
một giá trị sử dụng. Bất cứ một số vật phẩm nào cũng có một số cơng dụng nhất định.
Giá trị sử dụng được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học kỹ thuật và
lực lượng sản xuất. Xã hội càng tiến bộ, khoa học, kỹ thuật và phân công lao động ngày
càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại càng phong phú, đa
dạng, chất lượng cao.
Trong xã hội hiện đại, bên cạnh những hàng hố vật thể hữu hình cịn có những dịch
vụ mà người ta mua và bán trên thị trường. Nhiều nhà kinh tế học gọi đó là hàng hố
phi vật thể hay hàng hoá - dịch vụ.


b/ Giá trị
Giá trị là lao động xã hội thể hiện và vật hoá trong sản xuất hàng hoá.
Các hàng hố khác nhau về giá trị sử dụng nên khơng thể lấy giá trị sử dụng để đo
lường các hàng hóa. Các hàng hố khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho
chúng có thể so sánh với nhau trong khi trao đổi, đó là các hàng hố đều là sản phẩm
của lao động. Cơ sở cho hai hàng hoá trao đổi với nhau là lao động xã hội hao phí vào
việc sản xuất ra những hàng hóa đó. Thực chất của trao đổi hàng hoá là trao đổi lao
động ẩn giấu trong hàng hố đó.
Lao động hao phí để tạo ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là cơ sở chung của trao
đổi, được gọi là giá trị hàng hoá. Giá trị hàng hoá là lao động của người sản xuất hàng
hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị hàng hoá là biểu hiện quan hệ giữa những người sản
xuất hàng hố. Nó là một phạm trù lịch sử - có sản xuất hàng hố và hàng hố thì mới

có giá trị hàng hố. Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện của giá trị; giá trị là nội
dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Như vậy, hàng hố có hai thuộc tính: giá trị sử dụng
và giá trị. Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất với nhau
ở một hàng hoá. Người sản xuất làm ra hàng hố để bán, nên mục đích của họ là giá trị
chứ không phải giá trị sử dụng; trong tay họ có giá trị sử dụng, nhưng cái mà họ quan
tâm là giá trị hàng hoá. Họ chú ý đến giá trị sử dụng cũng chính là để đạt mục đích giá
trị. Ngược lại, người mua cần giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử dụng thì phải trả
giá trị cho người sản xuất ra nó, tức là phải thực hiện được giá trị hàng hố thì mới chi
phối được giá trị sử dụng.


3.2 / Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hố

Hàng hố có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó của hàng
hố do tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá quyết định. C.Mác là người đầu
tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hố: lao động cụ thể và
lao động trìu tượng.
a/ Lao động cụ thể: Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề
nghiệp chuyên mơn nhất định. Thí dụ, lao động cụ thể của người thợ may, thợ dệt, thợ
cơ khí. Mỗi lao động cụ thể có đối tượng lao động, mục đích, phương pháp lao động,
kết quả sản xuất riêng. Chính cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Trong xã hội, có vơ số giá
trị sử dụng mn hình, mn vẻ do vơ số lao động cụ thể cũng mn hình mn vẻ tạo
ra.
Lao động cụ thể tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất xã hội, không
phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào; nhưng hình thức của lao động cụ thể
phụ thuộc vào sự phát triển của kỹ thuật, của lực lượng sản suất và phân công lao động
xã hội. Khoa học, kỹ thuật, phân cơng lao động càng phát triển thì các hình thức lao
động cụ thể càng phong phú và đa dạng.
b/ Lao động trìu tượng: Là lao động của người sản xuất hàng hố đã gạt bỏ hình thức

biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái chung đồng nhất. Đó là sự tiêu phí sức lao
động, tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh của con người.


Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá vừa là lao động cụ thể, vừa là lao
động trìu tượng có quan hệ với tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động sản
xuất hàng hố. Tính tự chủ làm cho lao động của những người sản xuất hàng hoá trở
thành việc riêng của họ. Mỗi người sản xuất hàng hoá tự lựa chọn mặt hàng mà họ nhận
thấy thích hợp. Nhưng mặt khác, phân công xã hội làm nảy sinh rất nhiều mối liên hệ
giữa người sản xuất, người này làm việc vì người kia, lao động của mỗi người trở thành
một bộ phận của lao động xã hội, nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Sự
phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng
hố thơng qua trao đổi. Việc trao đổi hàng hố khơng thể căn cứ vào lao động cụ thể mà
phải quy về lao động chung nhất, lao động trìu tượng.
3.3 / Lượng giá trị hàng hóa

Giá trị hàng hóa là do lao động trìu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh
trong hàng hoá. Vậy, lượng giá trị hàng hoá do lao động tiêu hao để làm ra hàng hoá
quyết định. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính theo thời gian lao động.
Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hố, nhưng điều kiện sản
xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau, do đó thời gian lao động để sản
xuất ra hàng hố là khơng giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Thế
nhưng lượng giá trị hàng hố khơng phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian
lao động cần thiết để sản xuất ra một một hàng hố nào đó trong những điều kiện sản


xuất bình thường của xã hội, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ
lao động trung bình trong xã hội.
Trong thực tế, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thường

trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại
hàng hố đó trên thị trường. Cần chú ý rằng, trình độ thành thạo trung bình, cường độ
lao động trung bình, điều kiện lao động bình thường của xã hội ở mỗi nước, mỗi ngành
là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thời gian lao động
xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thay đổi thì lượng giá trị hàng hố sẽ thay đổi.
Điều đó phụ thuộc vào nhiều nhân tố, vào năng suất lao động, vào mức độ giản đơn hay
phức tạp của lao động.
4/ Tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị có những tác động sau đây:
Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố.
Trong nền sản xuất hàng hố thường xảy ra tình hình: người sản xuất bỏ ngành này
đổ xô vào ngành khác; quy mô sản xuất của ngành này bị thu hẹp, trong khi ngành khác
lại mở rộng, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động được phân bố lại giữa các ngành.
Hiện tượng này được gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này được hình thành một
cách tự phát, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường. Có thể hiểu vai trị điều
tiết này thông qua những trường hợp biến động quan hệ cung - cầu xảy ra trên thị
trường:


- Khi cung nhỏ hơn cầu, sản phẩm không đủ để thoả mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao
hơn giá trị, hàng hoá bán chạy với lãi cao, người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất,
những người trước đây sản xuất hàng hoá khác nay chuyển sang sản xuất hàng hoá này.
Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển vào ngành này nhiều hơn các
ngành khác.
- Khi cung lớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều so với nhu cầu xã hội, giá cả
thấp hơn giá trị, hàng hố bán khơng chạy, có thể lỗ vốn. Tình hình đó buộc người sản
xuất ở ngành này thu hẹp quy mô sản xuất hay chuyển sang ngành khác, làm cho tư liệu
sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này và tăng lên ở ngành khác mà họ thấy có
lợi hơn.
Quy luật giá trị không chỉ điều tiết lĩnh vực sản xuất, mà cịn điều tiết cả lĩnh vực

lưu thơng qua sự biến động của giá cả. Hàng hoá được đưa từ nơi có giá cả thấp đến nơi
có giá cao, từ nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu.
Như vậy, thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường mà quy luật giá trị có
tác dụng phân phối hay điều tiết luồng hàng trên thị trường.
Thứ hai: Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất nhằm tăng năng suất lao
động.
Các hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, nên có giá trị cá
biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hoá đều phải đựơc trao đổi theo giá
trị xã hội. Người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội ở thế có lợi, sẽ thu


được lợi nhuận siêu ngạch; người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì ở
thế bất lợi. Muốn đứng vững trong cạnh tranh và khỏi bị phá sản, họ phải làm cho giá trị
cá biệt của hàng hố của mình nhỏ hơn, hay bằng giá trị xã hội. Do đó, họ tìm cách cải
tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Lúc đầu việc cải tiến còn lẻ tẻ,
nhưng do cạnh tranh với nhau, nên cuối cùng việc cải tiến mang tính xã hội. Rõ ràng,
quy luật giá trị thơng qua tác động này đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba: Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu - nghèo giữa những
người sản xuất hàng hố.
Trong q trình cạnh tranh chạy theo lợi ích cá nhân, những người sản xuất hàng
hố có điều kiện sản xuất khác nhau, tính năng động khác nhau, khả năng nắm bắt nhu
cầu thị trường khác nhau, khả năng đổi mới kỹ thuật , công nghệ, hợp lý hố sản xuất
khác nhau, do đó giá trị cá biệt của hàng hoá khác nhau, phù hợp với nhu cầu xã hội và
thị trường khác nhau. Trong tình trạng đó khơng tránh khỏi tình trạng một số người giàu
lên, mua sắm thếm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, còn một số người
khác bị thua lỗ, thu hẹp sản xuất, thậm chí phá sản trở thành người nghèo. Đầu cơ, lừa
đảo, khủng hoảng kinh tế làm tăng thêm tácđộng phân hoá này. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có sự điều tiết
để hạn chế sự phân hoá giàu nghèo.





×