TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
*********** O0O **********
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
QUẢN LÝ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ
PHÂN PHỐI HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN : HỒ THỊ THANH NGA
LỚP : ANH 9
KHOÁ : K42C - KHOA KT&KDQT
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : TS. TĂNG VĂN NGHĨA
HÀ NỘI, THÁNG 11/2007
Khúa lun tt nghip Qun lý cnh tranh trong lnh vc
dch v phõn phi
H Th Thanh Nga Lp A9-K42C-
KT&KDQT
1
MC LC
Lời nói đầu 6
Ch-ơng I. Tổng quan về DịCH Vụ PHÂN PHốI Và quản lý
cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 10
I. Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ phân phối 10
1. Khái niệm 10
1.1. Phân phối là gì? 10
1.2. Hệ thống phân phối 12
1.2.1. Khái niệm 12
1.2.2. Cấu trúc hệ thống phân phối 13
2. Vai trò của hệ thống phân phối trong nền kinh tế hiện đại 17
2.1. Đối với doanh nghiệp 17
2.2. Đối với ng-ời tiêu dùng 18
II. Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân
phối 20
1. Vai trò của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 20
1.1. Khái quát về cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 20
1.1.1. Khái niệm 20
1.1.2. Đặc điểm 21
1.1.3. ý nghĩa của cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối 22
1.2. Tổng quan về quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân
phối 23
1.2.1. Khái niệm 23
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ
phân phối 24
Khúa lun tt nghip Qun lý cnh tranh trong lnh vc
dch v phõn phi
H Th Thanh Nga Lp A9-K42C-
KT&KDQT
2
1.2.3. Nội dung của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ
phân phối 26
2. Cơ sở pháp lý của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân
phối 27
2.1. Luật Cạnh tranh 27
2.1.1. Tổng quan về Luật Cạnh tranh 27
2.1.2. Một số điều khoản của Luật Cạnh tranh điều chỉnh lĩnh
vực dịch vụ phân phối 29
2.2. Một số cơ sở pháp lý khác điều chỉnh lĩnh vực dịch vụ phân
phối 32
2.2.1. Luật Th-ơng mại 32
2.2.2. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi ng-ời tiêu dùng 35
2.2.3. Một số quy định khác có liên quan 36
Ch-ơng II. Thực trạng QUảN Lý cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam và kinh
nghiệm của một số n-ớc TRÊN thế giới 39
I. Thực trạng cạnh tranh và quản lý cạnh tranh
trong lĩnh vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam 39
1. Thực trạng cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 39
1.1. Tổng quan về thị tr-ờng phân phối ở Việt Nam 39
1.2. Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa nhà phân phối trong n-ớc và
n-ớc ngoài 46
1.3. Nhận xét về tính cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối
ở Việt Nam 50
2. Thực trạng quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 53
2.1. Triển khai thực thi pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực dịch
vụ phân phối 53
2.2. Xây dựng đề án nhằm tạo lập môi tr-ờng phân phối cạnh
tranh lành mạnh 56
Khúa lun tt nghip Qun lý cnh tranh trong lnh vc
dch v phõn phi
H Th Thanh Nga Lp A9-K42C-
KT&KDQT
3
II. Kinh nghiệm quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối của một số n-ớc 59
1.Nhật Bản 59
1.1. Thực trạng hoạt động phân phối ở Nhật Bản 59
1.2. Điều chỉnh pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối
của Nhật Bản 61
2. Thái Lan 64
2.1.Thực trạng hoạt động phân phối ở Thái Lan 64
2.2. Điều chỉnh pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối của
Thái Lan 64
2.2.1. Quy định B.E.2549 (2006) h-ớng dẫn hoạt động kinh
doanh bán buôn, bán lẻ 64
2.2.2. Luật Đầu t- n-ớc ngoài - hạn chế các bên n-ớc ngoài tham
gia hoạt động kinh doanh bán buôn/bán lẻ ở Thái Lan 65
2.2.3. Nỗ lực ban hành Luật Kinh doanh bán lẻ 65
2.2.4. Những quy định hạn chế kinh doanh bán lẻ 66
3. Đài Loan 67
3.1. Thực trạng hoạt động phân phối ở Đài Loan 67
3.2. Điều chỉnh pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối
của Đài Loan 68
3.2.1. Ch-ơng trình khắc phục đối với các nhà bán lẻ theo chuỗi
cửa hàng trong lĩnh vực phân phối 68
3.2.2. Ghi chú giải thích về các doanh nghiệp phân phối theo quy
định của Luật Th-ơng mại lành mạnh 69
4. Hàn Quốc 71
4.1. Thực trạng hoạt động phân phối ở Hàn Quốc 71
4.2. Điều chỉnh pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ
phân phối của Hàn Quốc 72
Khúa lun tt nghip Qun lý cnh tranh trong lnh vc
dch v phõn phi
H Th Thanh Nga Lp A9-K42C-
KT&KDQT
4
4.2.1. Luật Th-ơng mại công bằng và điều chỉnh độc quyền
(MRFTA) 72
4.2.2. Thông báo về các hình thức và tiêu chuẩn đối với các hành
vi kinh doanh không lành mạnh liên quan đến việc kinh
doanh cửa hàng bán lẻ lớn 75
III. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 76
Ch-ơng III. Một số giải pháp về tăng c-ờng quản lý
cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối ở Việt
Nam 80
I. Xu h-ớng cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân
phối ở Việt Nam 80
II. MộT Số KIếN NGHị Về Giải pháp tăng c-ờng quản lý
cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối ở
Việt Nam 84
1. Đối với Nhà n-ớc 84
1.1. Ban hành các quy định pháp lý cụ thể hơn về cạnh tranh
trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 84
1.2. Tăng c-ờng tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh cho
cộng đồng kinh doanh nói chung và các doanh nghiệp phân
phối nói riêng 85
1.3. Tạo môi tr-ờng pháp lý kinh doanh thông thoáng cho các
doanh nghiệp phân phối 86
1.4. Tăng c-ờng năng lực thể chế và chuyên môn của các cơ quan
giám sát cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối 87
1.5. Xây dựng hệ thống thông tin, định h-ớng xu h-ớng phát triển
của lĩnh vực phân phối 89
1.6. Xây dựng các biện pháp phòng chống các chiến l-ợc về giá 90
1.7. Khuyến khích phát triển hệ thống phân phối hiện đại 90
2. Đối với doanh nghiệp 91
Khúa lun tt nghip Qun lý cnh tranh trong lnh vc
dch v phõn phi
H Th Thanh Nga Lp A9-K42C-
KT&KDQT
5
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối
trong n-ớc 91
2.1.1. Tiến hành liên minh, liên kết tạo ra lực l-ợng đối trọng đủ
sức cạnh tranh với các nhà phân phối n-ớc ngoài 92
2.1.2. Cần thay đổi nhận thức, t- duy và xây dựng phong cách
chuyên nghiệp hóa trong mọi khâu sản xuất, kinh doanh 93
2.1.3. Thực hiện đa dạng hóa thị tr-ờng, đa dạng hóa sản phẩm
và đa dạng hóa trong phân bố dân c- 94
2.1.4. Xây dựng hệ thống phân phối chuyên nghiệp 95
2.2. Tăng cờng tìm hiểu về pháp luật cạnh tranh cho các doanh
nghiệp trong n-ớc 96
Kết luận 98
Danh mục tài liệu tham khảo 99
Danh mục từ viết tắt 104
Danh mục SƠ Đồ, Bảng biểu 105
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Với tư cách là một hiện tượng xã hội riêng có của nền kinh tế thị trường, cạnh
tranh xuất hiện ở mọi lĩnh vực, công đoạn của quá trình kinh doanh. Người ta đã
từng ví nếu như cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh
hồn của thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh cũng có
những tác động tiêu cực khi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra, các doanh nghiệp
dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật để nhằm đạt được lợi
ích. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay hạn chế cạnh tranh sẽ có tác
động đi ngược lại lợi ích của toàn xã hội, làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế vì
không khuyến khích được các loại hình doanh nghiệp tham gia vào sản xuất, kinh
doanh.
Đặc biệt, trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, việc
cạnh tranh với các công ty, tập đoàn đa quốc gia ngày càng trở nên gay gắt và khốc
liệt. Theo các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực kinh tế, dịch vụ phân phối hàng
hóa là một trong những ngành kinh tế chịu sức ép trực tiếp và đầu tiên khi thị
trường được mở bởi những cam kết, định chế quốc tế mà Việt Nam đang và sẽ tham
gia. Hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài đang gia tăng tốc độ và quy mô đầu tư vào
lĩnh vực dịch vụ phân phối Việt Nam một cách mạnh mẽ. Hiện tượng này cho thấy
lĩnh vực dịch vụ phân phối không còn là mảnh đất độc quyền của các doanh nghiệp
Việt Nam mà đã buộc các doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với một cuộc cạnh
tranh khốc liệt. Bên cạnh sức ép cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, họ còn đứng
trước nguy cơ ngày càng xuất hiện nhiều hành vi phản cạnh tranh, dẫn đến mối lo
ngại sẽ dần bị loại bỏ ngay trên chính sân nhà. Vậy làm thế nào để các doanh nghiệp
phân phối trong nước và nước ngoài được tự do cạnh tranh trong một môi trường
lành mạnh, công bằng? Đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, ngày
càng có nhiều công ty nước ngoài, nhất là các công ty đa quốc gia với tiềm lực tài
chính lớn có thể dễ dàng thâu tóm thị trường nội địa trong khi các chính sách quản
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
7
lý trong lĩnh vực phân phối của chúng ta còn chưa hoàn thiện. Đây chính là mối
quan tâm và lo ngại của các nhà lập chính sách Việt Nam để không ngừng nghiên
cứu và đưa ra những giải pháp phù hợp.
Chính vì vậy, quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối ở nước ta có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là một đòi hỏi của thực tế khách quan. Nhận thức
được tầm quan trọng và vai trò của vấn đề này, em chọn đề tài: “Quản lý cạnh
tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối hàng hóa ở Việt Nam” làm đề tài Khóa
luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về dịch vụ phân phối và quản lý cạnh tranh
trong lĩnh vực dịch vụ phân phối.
- Phân tích và đánh giá thực trạng cạnh tranh và quản lý cạnh tranh trong lĩnh
vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp thiết thực, khả thi để nâng cao hiệu quả quản lý
cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối hàng hóa ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam.
- Nội dung quy định trong các văn bản pháp luật điều chỉnh cạnh tranh trong
lĩnh vực phân phối ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu nội dung hoạt động quản lý cạnh tranh trong lĩnh
vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam và một số nước.
- Về không gian: Việt Nam và một số nước trên thế giới như Nhật Bản, Thái
lan, Đài Loan và Hàn Quốc.
- Về thời gian: Từ năm 2004 - 2020.
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
8
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phân tích,
thống kê, luận giải. Đặc biệt phương pháp so sánh luật học được sử dụng để nêu bật
những nét đặc trưng riêng biệt trong hệ thống pháp luật của từng nước.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu được dùng để đánh giá kinh nghiệm của
nước ngoài, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5. Nội dung bố cục của Khóa luận
Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận, Khóa luận kết cấu bao gồm 03 chương
như sau:
Chƣơng I: Tổng quan về dịch vụ phân phối và quản lý cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ phân phối.
Chƣơng II: Thực trạng quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân
phối ở Việt Nam và kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới.
Chƣơng III: Một số giải pháp về tăng cƣờng quản lý cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ phân phối ở Việt Nam.
Do kiến thức tích lũy chưa đầy đủ, kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều, Khóa
luận tốt nghiệp của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy em rất
mong nhận được sự nhận xét, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để Khóa
luận tốt nghiệp có ý nghĩa thực tiễn hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn Thầy giáo, TS. Tăng Văn Nghĩa và Tập thể Cán bộ
Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Khóa
luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
10
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ PHÂN PHỐI VÀ QUẢN LÝ CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ PHÂN PHỐI
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ PHÂN PHỐI
1. Khái niệm
1.1. Phân phối là gì?
Trong hoạt động kinh doanh, để tiêu thụ được sản phẩm, ngoài việc tạo ra
được những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu và đặc điểm tiêu
dùng ở từng thị trường nhất định, các doanh nghiệp cần chú ý đến chính sách phân
phối và vận động hàng hóa của mình. Đó là một chính sách bộ phận không thể thiếu
trong chiến lược Marketing, nó đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa sản xuất với
tiêu dùng, giữa cung và cầu trên thị trường.
Trong kinh tế học hiện nay chưa có một định nghĩa và nghiên cứu chính thức
về lĩnh vực phân phối. Theo Từ điển Encyclopedia [62], phân phối là việc một nhà
bán buôn mua hàng hoá với số lượng lớn từ nhà sản xuất với giá sát với chi phí và
bán lại chúng với giá cao hơn cho những người mua khác, có thể là nhà phân phối
cấp dưới hoặc người bán lẻ, nhưng không phải cho người tiêu dùng cuối cùng.
Phân phối là quá trình tiếp thị và cung cấp hàng hoá, đặc biệt là cho những
người bán lẻ.
Trong Marketing phân phối đuợc hiểu là các quá trình kinh tế, tổ chức, kỹ
thuật nhằm điều hành và vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến người tiêu
dùng đạt hiệu quả kinh tế cao [15]. Với giác độ này, phân phối bao gồm các hoạt
động diễn ra trong khâu lưu thông, là cầu nối giữa sản xuất với tiêu dùng. Nội dung
của phân phối là thực hiện hàng loạt các dịch vụ sau quá trình sản xuất và trước quá
trình tiêu dùng.
Đứng trên quan điểm của nhà kinh tế thì hoạt động phân phối sản phẩm là tổng
hợp các hoạt động chuẩn bị, tổ chức tiêu thụ và các hoạt động sau tiêu thụ. Cũng có
khái niệm cho rằng: hoạt động phân phối sản phẩm là hoạt động bán hàng của
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
11
doanh nghiệp. Một khái niệm khác mang tính rộng hơn: hoạt động phân phối sản
phẩm là hoạt động lưu thông hàng hóa trong xã hội
Quan điểm của các nhà quản trị cho rằng: “Hoạt động phân phối sản phẩm là
việc trả lời các câu hỏi: Cung cấp sản phẩm mình có cho ai? Cung cấp sản phẩm đó
bằng cách nào? Và làm thế nào để cho khách hàng của mình hài lòng nhất?”
Theo Danh mục phân ngành dịch vụ của tài liệu mã số MTN.GNS/W/120
(W120) của Vòng đàm phán Uruguay và Phân loại Danh mục sản phẩm trung tâm
tạm thời của Liên Hợp quốc thì lĩnh vực dịch vụ phân phối bao gồm 4 nhóm chính:
dịch vụ đại lý uỷ quyền; dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ và nhượng quyền thương
mại (Franchising) [10].
Dịch vụ bán buôn: là việc bán hàng cho người bán lẻ, cho những doanh nghiệp
thuộc các ngành công nghiệp, thương mại, các tổ chức, cơ quan hoặc cho những
người bán buôn khác.
Dịch vụ bán lẻ: là việc bán hàng phục vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc
hộ gia đình.
Đại lý uỷ quyền: là việc đại diện cho thương nhân khác để tiến hành giao dịch
và bán những mặt hàng thuộc quyền sở hữu của thương nhân này cho những người
bán buôn, bán lẻ hoặc cá nhân.
Nhượng quyền: là bán một số quyền và ưu đãi cụ thể cho người khác (mô hình
bán lẻ, thương hiệu )
Như vậy, với những quan điểm khác nhau về hoạt động phân phối sản phẩm
thì việc hiểu bản chất về nó cũng có ít nhiều sự khác nhau. Nhưng tất cả các khái
niệm đó đều có một điểm chung và chúng ta có thể hiểu phân phối sản phẩm là:
toàn bộ các công việc để đưa một sản phẩm / dịch vụ từ nơi sản xuất đến tay
người tiêu dùng có nhu cầu, bảo đảm về chất lượng, thời gian, số lượng, chủng
loại, kiểu dáng, màu sắc, mà người tiêu dùng mong muốn.
Tuỳ thuộc vào điều kiện khác nhau mà các doanh nghiệp xem xét bản chất của
hoạt động theo góc độ nào.
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
12
Trong khuôn khổ của Khóa luận, bản chất của hoạt động phân phối sẽ được
phân tích dựa trên quan điểm kết hợp giữa quan điểm của Marketing, quan điểm của
các nhà quản trị và theo Danh mục phân ngành dịch vụ của tài liệu mã số
MTN.GNS/W/120 (W 120) của Vòng đàm phán Uruguay và Phân loại Danh mục
sản phẩm trung tâm tạm thời của Liên Hợp quốc.
1.2. Hệ thống phân phối
1.2.1. Khái niệm
Có hai phương thức phân phối phổ biến là phương thức phân phối trực tiếp và
phương thức phân phối gián tiếp. Phương thức phân phối trực tiếp là phương thức
hàng hóa được phân phối trực tiếp từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng không cần
qua trung gian. Các công ty có thể thực hiện phương thức này bằng cách bán hàng
tận nhà, bán qua thư đặt hàng, qua các cửa hàng của nhà sản xuất và qua Internet.
Ưu điểm của phương thức này là công ty có thể chủ động trong việc quyết định
hàng hóa phân phối, giám sát các hoạt động phân phối một cách chặt chẽ và phản
ứng kịp thời với những biến động trên thị trường, hơn nữa công ty không phải chia
lợi nhuận. Tuy nhiên doanh nghiệp lại phải đầu tư một khối lượng lớn, do vậy
phương thức này rất khó áp dụng cho các công ty vừa, nhỏ, thiếu kinh nghiệm.
Để khắc phục các nhược điểm trên, doanh nghiệp có thể sử dụng phương thức
phân phối gián tiếp. Phương thức này sử dụng một hệ thống trung gian gọi là hệ
thống phân phối hay là kênh phân phối. Đó là một hệ thống các tổ chức độc lập
liên quan đến quá trình tạo ra sản phẩm hay dịch vụ sẵn sàng cho người tiêu
dùng. Tầng lớp trung gian này bao gồm những người bán buôn, bán lẻ, đại lý, môi
giới, những đại diện của người bán và người mua kể cả các công ty vận tải, các đại
lý quảng cáo có nhiệm vụ hỗ trợ cho các hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống
phân phối là nguồn lực bên trong rất quan trọng của doanh nghiệp mà thường phải
hàng năm mới xây dựng được, rất khó thay đổi. Nó đặc trưng cho mối quan hệ ràng
buộc giữa người sản xuất và nhà phân phối. Và đó cũng là liên kết chặt chẽ giữa hệ
thống chính sách của doanh nghiệp với sự biến động thực tế trên thị trường. Chính
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
13
vì vậy, xây dựng hệ thống phân phối không chỉ nhằm mục tiêu trước mắt mà còn
phải nghĩ đến những dự kiến tương lai.
1.2.2. Cấu trúc hệ thống phân phối
a. Các nhân tố cấu thành của hệ thống phân phối
Hệ thống phân phối có quan hệ và cấu trúc rất phức tạp như các hệ thống mạng
lưới do chúng bao gồm các doanh nghiệp và các cá nhân độc lập và phụ thuộc lẫn
nhau. Các thành viên hay các nhân tố cấu thành một hệ thống phân phối bao gồm:
Người sản xuất: bao gồm rất nhiều loại thuộc nhiều ngành kinh doanh từ
nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng đến các nghành dịch vụ. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ của Khóa luận chỉ đề cập đến các nhà sản xuất kinh doanh (doanh
nghiệp sản xuất). Đó là những công ty sản xuất có quy mô lớn nhỏ khác nhau nhưng
đều chung mục đích là đáp ứng nhu cầu thị trường và đem lại lợi nhuận. Để thoả
mãn nhu cầu thị trường, sản phẩm của họ phải luôn luôn sẵn sàng để cung cấp cho
các thị trường đó. Nhưng phần lớn các công ty lớn nhỏ đều không có được các điều
kiện thuận lợi để phân phối sản phẩm của họ trực tiếp tới người tiêu dùng cuối
cùng. Mặt khác, họ thiếu cả kinh nghiệm cần thiết lẫn quy mô hiệu quả để thực hiện
tất cả các công việc phân phối sản phẩm. Do vậy, họ cần đến các tổ chức trung gian
phân phối. Người sản xuất chính là nhân tố đầu tiên của các kênh phân phối.
Người bán buôn: là những người bán hàng hoá và dịch vụ cho người mua
để họ bán lại hoặc sử dụng vào mục đích kinh doanh. Họ thường có khả năng lớn về
vốn, cung cấp tín dụng tài chính và có thể chi phối các quan hệ thị trường lớn.
Người bán buôn thường giao dịch với nhà sản xuất nhiều hơn là người tiêu dùng.
Điều này sẽ trợ giúp tài chính cho các nhà sản xuất, giúp họ tập trung vốn cho việc
đầu tư sản xuất. Do có khả năng chi phối thị trường nên người bán buôn thường có
xu hướng độc quyền mua với người sản xuất. Nhưng do người bán buôn cũng ít tiếp
xúc với người tiêu dùng cuối cùng nên ít năng động và thông tin phản hồi từ thị
trường cũng là thông tin thứ cấp.
Người bán lẻ: là những người phân phối hàng hóa đến người tiêu dùng cuối
cùng nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân, không vì mục đích thương mại. Họ thường
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
14
không có quy mô lớn nhưng lại có những phương tiện bán hàng đa dạng, hệ thống
cửa hàng phong phú như siêu thị, cửa hàng tổng hợp, trung tâm thương mại. Do vậy
họ thường xuyên tiếp xúc với những khách hàng cuối cùng, nắm bắt được nhu cầu,
thị hiếu, thói quen mua sắm của họ. Bên cạnh đó, khả năng an toàn trong kinh
doanh của họ thường cao hơn những nhà bán buôn nhờ phải cung cấp hàng hoá đa
dạng, dự báo được những biến động của thị trường. Tuy nhiên, người bán lẻ chịu sự
chi phối của người bán buôn hoặc đại lý, do vậy họ có xu hướng muốn thiết lập trực
tiếp với nhà sản xuất.
Người đại lý: là người đại diện cho bên mua, bên bán, đại lý bán buôn hay
đại lý bán lẻ. Họ thường không có quyền sở hữu hàng hoá, không phải chịu rủi ro
trong kinh doanh. Lợi nhuận của đại lý được tính bằng phần trăm hoa hồng mà bên
bán hay bên mua phải trả theo quy định trong hợp đồng đại lý. Đại lý không có
quyền quyết định giá cả hàng hóa nên khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh trong
kinh doanh kém.
Người môi giới: là người thực hiện việc tìm kiếm nhu cầu thị trường, lựa
chọn các nguồn cung ứng hợp lý để thõa mãn các nhu cầu đó. Họ chính là người
xúc tiến việc mua bán hàng hóa trên thị trường, giúp cho cung và cầu gặp nhau. Do
vậy họ sẽ được hưởng tiền hoa hồng cả từ phía người mua và người bán.
Người tiêu dùng cuối cùng: là người trực tiếp sử dụng các sản phẩm bán ra
từ nhà sản xuất, là thị trường mục tiêu được đáp ứng bởi các hệ thống thương mại
của kênh. Họ chính là người ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu của các thành viên
trong kênh và là nhân tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp.
Từ những ưu, nhược của các thành viên trong hệ thống kênh phân phối, nhà
sản xuất (doanh nghiệp) phải luôn nghiên cứu và phát triển các thành viên của kênh
sao cho phù hợp với quy mô sản xuất - kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường một
cách hiệu quả nhất, đảm bảo cho vịêc thực hiện mục tiêu cuối cùng mà mọi doanh
nghiệp đều muốn vươn tới là tối đa hoá lợi nhuận.
b. Cấu trúc của hệ thống phân phối
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
15
Dựa vào phương thức phân phối kênh phân phối có thể được chia thành các loại
kênh phân phối sau:
Kênh 0: là kênh phân phối trực tiếp, trong đó chỉ có nhà sản xuất và nhà tiêu
dùng cuối cùng vì vậy có những ưu điểm và nhược điểm như đã trình bày ở trên.
Kênh 1: là kênh gián tiếp, kênh ngắn bao gồm hoạt động bán hàng thông qua
một loại trung gian. Kênh này giúp doanh nghiệp không những phát huy được
những ưu điểm của kênh phân phối trực tiếp mà còn giải phóng được một phần
chức năng lưu thông để tăng cường chuyên môn hoá, sản xuất giảm bớt số lượng
vốn và nhân lực đầu tư cho hoạt động phân phối. Tuy nhiên dạng kênh này vẫn có
những hạn chế nhất định như không phát huy hết được các ưu thế của phân công lao
động xã hội ở trình độ cao, các nhà sản xuất hoặc người bán lẻ phải kiêm chức năng
bán buôn. Do vậy, việc phân bổ dự trữ trong kênh 1 vẫn không hợp lý và cân đối
dẫn đến việc lưu thông hàng hoá còn gặp nhiều khó khăn. Thông thường kênh này
được sử dụng đối với các mặt hàng mang tính chất chuyên doanh, phục vụ một số
nhu cầu thường xuyên ổn định của người tiêu dùng.
Kênh 2: là loại kênh phổ biến nhất trong hoạt động phân phối và thường áp
dụng cho các nhà sản xuất có quy mô lớn. Kênh này có ưu điểm là mang tính
chuyên môn hoá cao giúp cho nhà sản xuất tách rời khỏi hoạt động phân phối và tập
trung nguồn lực vào sản xuất. Do vậy hàng hóa được lưu thông nhanh chóng, linh
hoạt, thoả mãn được nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên nhà sản xuất lại không có
mối liên hệ trực tiếp đối với người tiêu dùng cuối cùng, do vậy thông tin thu được
thường là thông tin thứ cấp nên không kịp thời và kém chính xác.
Kênh 3 (dạng kênh đầy đủ): là kênh được nhiều nhà sản xuất và người bán lẻ
nhỏ sử dụng. Ở đây một đại lý được sử dụng để giúp tập hợp hàng hóa và phối hợp
cung cấp sản phẩm với khối lượng lớn. Kênh này đáp ứng tốt nhất yêu cầu phân
công xã hội về lao động giữa người sản xuất và lưu thông và cả nội bộ lưu thông.
Nó cho phép xã hội tối đa hóa hoạt động thương nghiệp trên mọi vị trí bán lẻ và mọi
địa điểm dân cư. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của kênh này là mâu thuẫn nội bộ
trong kênh có thể xảy ra do các thành viên khác không đạt được lợi ích của mình.
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
16
Mặt khác, doanh nghiệp có thể không kiểm soát được các thành viên và không nhận
được thông tin phản hồi hữu ích từ phía người tiêu dùng.
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
17
Sơ đồ 1: Các kênh phân phối cho hàng hóa dịch vụ tiêu dùng phổ biến
Kênh trực tiếp Kênh cấp 1 Kênh cấp 2 Kênh cấp 3
2. Vai trò của hệ thống phân phối trong nền kinh tế hiện đại
2.1. Đối với doanh nghiệp
Nhìn vào quá trình kinh doanh bình thuờng của một doanh nghiệp, bắt đầu
bằng ý tưởng sản phẩm, đến định vị thị trường, nghiên cứu sự thích hợp của sản
phẩm, sản xuất, bán hàng, thu tiền và tiếp tục cải tiến sản phẩm. Nếu diễn ra một
cách bình thường thì các khâu trong quá trình sản xuất và kinh doanh sẽ có tầm
quan trọng như nhau. Trong điều kiện thị trường Việt Nam hiện nay, khâu bán hàng
và tiếp thị hiện đang có ảnh hưởng lớn nhất đến sự sống còn của doanh nghiệp. Hệ
thống phân phối có tầm quan trọng trong quá trình kinh doanh và khi doanh nghiệp
càng nhỏ thì hệ thống phân phối càng quan trọng. Đối với đại đa số doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay thì hệ thống phân phối là yết hầu của công ty và thông thường
chính người chủ doanh nghiệp phải quan tâm và thực hiện các công tác phát triển
cũng như giữ vững được thị phần của mình trong một hệ thống phân phối đang có.
Tại Việt Nam hiện nay, chi phí cho hệ thống phân phối còn rất nhỏ so với các
Người tiêu dùng
Người SX (NK)
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người SX (NK)
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người SX (NK)
Đại lý
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người tiêu dùng
Người SX (NK)
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
18
phương tiện cạnh tranh khác và điều đó đã góp phần tạo nên sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Thông qua phân phối hàng hoá, các thành viên tham gia vào hoạt động phân
phối hàng hoá sẽ cung cấp các thông tin về hàng hoá dịch vụ từ người sản xuất đến
người tiêu dùng. Ngược lại thông qua họ, doanh nghiệp cũng sẽ nhận được các
thông tin phản hồi từ thị trường. Doanh nghiệp sẽ có điều kiện tiếp xúc với các
thành viên trung gian, với người tiêu dùng cuối cùng, do vậy sẽ tạo điều kiện cho
việc xây dựng, nâng cao nhãn hiệu, hình ảnh của mình.
Việc phân phối hàng hóa đồng thời với việc di chuyển quyền sở hữu hàng hóa
từ người sản xuất đến người tiêu dùng, doanh nghiệp sẽ thu được tài chính để bù
đắp chi phí và tiếp tục tái đầu tư. Mỗi doanh nghiệp đều phải tự tìm kiếm cho mình
những thị trường có lợi nhất phù hợp với khả năng, tiềm lực của mình cũng như dự
đoán được những biến đổi trong tương lai. Nắm vững được hoạt động phân phối
cũng như dự báo được sự biến động của hàng hoá phân phối biến động trên thị
trường là điều kiện đảm bảo thành công của doanh nghiệp.
Có thể nói, thị trường phân phối trong lĩnh vực bán buôn bán lẻ đóng một vai
trò hết sức quan trọng, có tính chất quyết định một cách đáng kể đối với sự vận
động, phát triển của hoạt động sản xuất, kinh doanh bất kỳ nền kinh tế nào. Hoạt
động phân phối là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, chính vì vậy những
diễn biến, thái độ và hiệu quả hoạt động của thị trường phân phối đều gây ra những
tác động đáng kể nhất định đến các nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đặc biệt là các
nhà sản xuất và cung ứng hàng hoá, họ phụ thuộc khá nhiều vào các nhà phân phối
bán buôn, bán lẻ để đưa hàng hoá của mình ra thị trường một cách tốt nhất, nhanh
nhất và qua đó có thể hoạch định được chiến lược, sản xuất kinh doanh của mình.
2.2. Đối với ngƣời tiêu dùng
Phân phối hàng hóa bao gồm toàn bộ các hoạt động để đưa sản phẩm từ người
sản xuất đến người tiêu dùng hoặc sử dụng. Vì vậy lĩnh vực dịch vụ phân phối còn
được ví như chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng, khắc phục được
các vấn đề về thời gian, không gian và khoảng cách giữa hàng hoá, dịch vụ với
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
19
người tiêu dùng. Khi xã hội càng phát triển, thu nhập dân cư tăng lên, nhu cầu tiêu
dùng ngày càng đa dạng, phong phú. Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất phải
sản xuất với khối lượng lớn để đạt hiệu quả sản xuất nhờ quy mô. Sản xuất khối
lượng lớn một số chủng loại sản phẩm mâu thuẫn với nhu cầu số lượng nhỏ, chủng
loại đa dạng của người tiêu dùng. Hệ thống phân phối giúp giải quyết tốt sự khác
biệt giữa sản xuất quy mô lớn và tiêu dùng đa dạng, khối lượng nhỏ bằng cách mua
hàng hóa của nhiều nhà sản xuất khác nhau, bán lại cho nhiều người tiêu dùng tại
một địa điểm. Nhờ có hệ thống phân phối, hàng hóa có mặt trên thị trường kịp thời.
Về mặt thời gian, vì sản xuất không xảy ra cùng thời gian với nhu cầu sản phẩm tiêu
dùng sản phẩm nên phải dự trữ hàng hóa, hơn nữa nhiều hàng hóa mang tính thời vụ
còn tiêu dùng xảy ra quanh năm hoặc ngược lại, hệ thống phân phối giúp tạo nên sự
ăn khớp về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động lưu trữ. Về
mặt không gian, hệ thống phân phối phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự
túc giữa các vùng, các miền tạo thành thể thống nhất toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nhờ có hệ thống phân phối, hàng hóa có thể tràn ngập trên thị trường bất kỳ một
vùng, miền nào.
Quá trình lưu thông, luân chuyển hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu
dùng cuối cùng được thực hiện mang tính chuyên môn hóa cao, tiết kiệm thời gian,
chi phí. Chi phí trong khâu phân phối sẽ được chuyển vào khâu tiêu dùng nên cạnh
tranh trong dịch vụ phân phối sẽ góp phần làm giảm chi phí phân phối và giảm giá
bán cuối cùng cho nguời tiêu dùng.
Hơn nữa, bản thân hoạt động phân phối cũng tạo thêm lợi ích cho người tiêu
dùng thông qua việc tạo ra sự đa dạng về hàng hoá. Với sự tồn tại của hệ thống
phân phối, người tiêu dùng sẽ tiếp cận được nhiều chủng loại hàng hóa của nhiều
nhà sản xuất có quy mô, khu vực địa lý khác nhau, không chỉ từ các doanh nghiệp
trong nước mà còn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, người tiêu dùng
còn được hưởng các lợi ích như cung ứng về địa điểm mua bán, thuận tiện về các
dịch vụ bảo hành và cung cấp thông tin. Phân phối giữ vai trò quan trọng trong việc
cân đối cung cầu trên thị trường. Thông qua hoạt động phân phối, các mặt hàng
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
20
được phân phối đồng bộ và đa dạng hơn, thoả mãn nhu cầu không ngừng thay đổi
của người tiêu dùng.
Tóm lại, hệ thống phân phối có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, là một bộ phận không thể thiếu được trong chiến lược
Marketing của doanh nghiệp. Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế không ngừng phát
triển, đây chính là chìa khóa đem lại thành công cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hệ
thống phân phối cũng đem lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Hệ thống phân
phối hàng hóa còn được ví như chiếc phong vũ biểu phản ánh tình hình sản xuất,
kinh doanh, mức sống của dân cư trong xã hội. Do vậy, sự phát triển cũng như tính
hiệu quả của hệ thống phân phối luôn là mục tiêu cần phải ưu tiên và hướng tới của
các doanh nghiệp.
II. QUẢN LÝ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ PHÂN
PHỐI
1. Vai trò của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối
1.1. Khái quát về cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối
1.1.1. Khái niệm
Cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào ý định và
hướng tiếp cận của các nhà khoa học.
Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh được
cuốn Blacklaw dictionary diễn tả là sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều
thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba [16].
Với tư cách là hiện tượng xã hội, cạnh tranh được cuốn từ điển kinh doanh của
Anh xuất bản năm 1992 định nghĩa là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một khách hàng về
phía mình [2].
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh là sự ganh đua giữa các chủ thể (nhà sản xuất, người tiêu dùng) trong
nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện có lợi trong sản xuất,
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
21
tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh
tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra giữa
những người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng
hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua ở giá thấp”.
1.1.2. Đặc điểm
Mặc dù được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song các lý thuyết về kinh
tế đều nhất trí rằng, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là
động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được mô tả với những
đặc trưng sau:
Thứ nhất, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh.
Cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền đề nhất định. Đó là phải có sự tồn tại
của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác
nhau. Bên cạnh đó, cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do
hành xử trên thị trường như tự do lập hội, tự chịu trách nhiệm cho hoạt động kinh
doanh.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các
chủ thể kinh doanh. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải
quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định
là người tiêu dùng.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh
giành thị trường mua hoặc bán sản phẩm trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực
cho sự gia nhập thị trường, là thước đo sự thành đạt và là mục đích hướng đến của
các doanh nghiệp. Thị trường chỉ có cạnh tranh khi các doanh nghiệp tham gia có
chung lợi ích tiềm năng về nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua); hoặc về thị
trường đầu ra của sản phẩm (cạnh tranh bán).
Các nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực dịch vụ phân phối gồm có: chất lượng dịch vụ, giá cả hàng hóa, chế
độ khuyến mãi, vị trí địa lý. Trong đó chất lượng dịch vụ, giá cả hàng hóa phụ thuộc
chủ yếu vào hệ thống kho vận và hậu cần của doanh nghiệp.
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
22
Hệ thống kho vận và hậu cần như là hệ thống kho trữ hàng, kho lạnh, xe
chuyên dụng, thiết bị quản lý kho, bán hàng và các hệ thống cơ sở hạ tầng khác
đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí, tăng tốc độ quay vòng vốn, giảm
thời gian lưu kho, và ổn định chất lượng của hàng hóa. Việc xây dựng và vận hành
hệ thống hậu cần như vậy đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn và trình độ về công nghệ
quản lý và bí quyết công nghệ (know-how) thích hợp.
Vị trí địa lý các cửa hàng của một doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc tiếp cận nguồn khách hàng, điều này đặc biệt quan trọng đối với các cửa
hàng tiện nghi và đối với một xã hội mà quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh
chóng và có đời sống sinh hoạt đang được công nghiệp hóa.
1.1.3. Ý nghĩa của cạnh tranh trong lĩnh vực phân phối
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là
diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Theo đó cạnh tranh có những ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nói chung và
lĩnh vực dịch vụ phân phối nói riêng.
Thứ nhất, cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Một nguyên lý của
thị trường là ở đâu có nhu cầu mà từ đó có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có mặt
các nhà kinh doanh. Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và
khả năng đáp ứng của nhà sản xuất, phân phối. Người tiêu dùng không phải sống
trong tình trạng xếp hàng chờ mua mà nhà phân phối luôn tìm đến để đáp ứng nhu
cầu của họ một cách tốt nhất. Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các
doanh nghiệp luôn tìm cách hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng về với
mình.
Thứ hai, cạnh tranh có vai trò điều phối. Cạnh tranh đảm bảo phân phối thu
nhập và các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh nghiệp giỏi, có khả
năng và bản lĩnh trong kinh doanh. Trong cuộc cạnh tranh, dường như có sự hiện
diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi nguồn lực kinh tế từ những doanh nghiệp
kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có khả năng sử dụng tốt hơn. Sự
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
23
dịch chuyển đó đã làm cho các giá trị kinh tế của thị trường được sử dụng một cách
tối ưu.
Thứ ba, cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách
hiệu quả nhất nhằm giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm. Cạnh tranh có tác dụng
thúc đẩy việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong kinh doanh để tăng chất
lượng hàng hóa, dịch vụ. Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi
mới liên tục trong đời sống kinh tế - xã hội.
1.2. Tổng quan về quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối
1.2.1. Khái niệm
Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối bao gồm tất cả các
biện pháp của nhà nước nhằm duy trì cạnh tranh, một mặt tạo tiền đề cho cạnh
tranh, mở cửa thị trường phân phối loại bỏ các rào cản (barrier) cản trở xâm
nhập thị trường, mặt khác, nó phải có các biện pháp chống lại các chiến lược
hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp [4].
Các biện pháp quản lý cạnh tranh được xây dựng dựa trên những cơ sở sau:
chủ trương phát triển kinh tế của quốc gia; tình hình thực tế của đời sống kinh tế
và tương quan cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế chính trên thị trường; xu
thế kinh tế quốc tế hiện đại; tập quán kinh doanh truyền thống của quốc gia. Vì
đó, các biện pháp quản lý cạnh tranh của các nước luôn khác nhau. Thậm chí
trong một quốc gia, các biện pháp quản lý cạnh tranh có nội dung và nhiệm vụ
thay đổi theo từng thời kỳ.
Có thể thấy được những vấn đề nói trên bằng việc nghiên cứu biện pháp quản
lý cạnh tranh của một số quốc gia điển hình. Với chủ trương thừa nhận tự do cạnh
tranh, ngăn ngừa sự hình thành độc quyền và lạm dụng sức mạnh độc quyền nên để
quản lý cạnh tranh, Mỹ không những chỉ áp dụng luật cạnh tranh mà còn có các
chính sách kinh tế khác như chính sách thuế, chính sách bảo hộ và hỗ trợ tài chính
để thúc đẩy cạnh tranh và bảo vệ nó trên thị trường. Tại Nhật Bản, yếu tố truyền
thống trong tập quán kinh doanh đã có ảnh hưởng lớn đến quản lý cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ phân phối. Văn hóa người Nhật ủng hộ các doanh nghiệp thoả
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
24
thuận với nhau, thống nhất hành động và chấp nhận hạn chế cạnh tranh. Mặt khác,
sau chiến tranh, thị trường Nhật Bản chưa thừa nhận và phổ biến quan niệm cạnh
tranh là sự ganh đua tự phát. Họ cho rằng, cạnh tranh là một hình thức quản lý của
nhà nước mà không phải là một nguyên tắc tổ chức của nền kinh tế. Vì thế, các biện
pháp quản lý cạnh tranh phải tập trung vào việc chính phủ quản lý được những rủi
ro và hạn chế cạnh tranh quá mức. Chính phủ phải kiểm soát sự gia nhập thị trường
của doanh nghiệp để xây dựng cạnh tranh bằng cách xác định và cân đối quan hệ
cung cầu. Trong khi đó, Việt Nam lại chủ trương xây dựng thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo. Do vậy, chúng ta đã xác định việc cần thiết phải có sự tồn tại độc quyền của
doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực mà ta coi là thiết yếu và duy trì một thị
trường cạnh tranh có mức độ.
Bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực khi
cạnh tranh không lành mạnh xảy ra, các doanh nghiệp dùng các thủ đoạn vi phạm
pháp luật hay bất chấp pháp luật để nhằm đạt được lợi ích. Những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh hay hạn chế cạnh tranh sẽ có tác động đi ngược lại lợi ích
của toàn xã hội, làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế vì không khuyến khích được
các loại hình doanh nghiệp tham gia vào sản xuất, kinh doanh.
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối
Bản chất của quản lý cạnh tranh chính là sự can thiệp của nhà nước vào môi
trường cạnh tranh tự do nhằm ngăn chặn và hạn chế những hành vi không lành
mạnh. Mặc dù ngay từ ngày đầu khai sinh ra mô hình cạnh tranh tự do, nhà kinh
tế học lỗi lạc Adam Smith đã đặt nhà nước vào đời sống cạnh tranh với chức
năng chống ngoại xâm, đảm bảo trật tự xã hội và công bằng trong lợi ích. Nhưng
sau đó, sự lên ngôi của bàn tay vô hình đã xoá mờ dần những cảnh báo của ông
đối với những biến dạng của thị trường. Vì thế, vai trò của nhà nước trở nên mờ
nhạt đối với cạnh tranh. Cho đến nay, khi nhận thức về tính hai mặt của cạnh
tranh không còn nằm trong các lý thuyết kinh tế kinh điển hay hiện đại mà đã
được kiểm chứng bởi thực tế thị trường thì vai trò quản lý cạnh tranh của nhà
nước lại càng trở nên bức thiết.
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực
dịch vụ phân phối
Hồ Thị Thanh Nga Lớp A9-K42C-
KT&KDQT
25
Ý nghĩa của quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối được xác lập
dựa trên các quan điểm cơ bản sau: [13]
Thứ nhất, quan điểm về giới hạn của sự tự do. Tư tưởng của tự do không đồng
nghĩa với tự do vô chính phủ đã được xây dựng và hoàn thiện cùng với những đấu
tranh của loài người. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự tồn tại của tự do để các
nguồn lực thị trường mới có thể vận hành tốt và đem lại hiệu quả cho sự phát triển.
Sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật sẽ gạt bỏ các biểu hiện nhân danh tự do để
huỷ hoại sự tự do đó.
Thứ hai, lý thuyết về khả năng điều tiết thị trường của bàn tay vô hình dường
như chỉ đem lại hiệu quả tối ưu cho thị trường khi các mối quan hệ mà nó điều
khiển hoàn toàn lành mạnh. Lịch sử đã nhận thấy được sự bất lực của bàn tay vô
hình trước những thủ đoạn bất tận và bất chính của con người thực hiện để giành lợi
ích kinh tế trong cạnh tranh.
Thứ ba, thừa nhận vai trò điều tiết của nhà nước không có nghĩa là phủ nhận
giá trị của bàn tay vô hình mà Adam Smith đã đưa ra cách đây vài thế kỷ. Vai trò
của quản lý cạnh tranh có giới hạn là sự hỗ trợ từ phía nhà nước cho bàn tay vô hình
của thị trường. Nói cách khác, cần có một cái bắt tay giữa quyền lực thị trường và
nhà nước trong việc điều tiết các quan hệ cạnh tranh trên thị trường. Có nghĩa là, sự
quản lý của nhà nước luôn phải tôn trọng các quy luật chung vốn có của nền kinh tế,
tránh gây nguy cơ đe doạ đến sự tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Cho đến nay, tất cả các quốc gia đều đã thừa nhận vai trò của quản lý cạnh
tranh. Trong các lý thuyết kinh tế hiện đại cũng khẳng định sự tất yếu và không thể
thiếu vai trò của nhà nước trong đời sống kinh doanh. Điều quan trọng là phải cân
nhắc mức độ can thiệp của nhà nước đối với thị trường cạnh tranh để vừa tạo được
một môi trường tự do cạnh tranh vừa hạn chế, ngăn chặn được những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Nhất là khi cùng với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
và khuyến khích đầu tư trong nước, số lượng các doanh nghiệp tham gia vào nền
kinh tế ngày càng tăng. Sự năng động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường đang tạo ra những chuyển