Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại công ty bảo hiểm viến đông VASS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 92 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA: KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
o0o




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP


TÊN ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM TẠI
CÔNG TY BẢO HIỂM VIỄN ĐÔNG (VASS)



Họ và tên sinh viên : Lƣu Thị Thu Hƣơng
Lớp : Anh 18
Khóa : 42
Giáo viên hƣớng dẫn : TS.Trịnh Thị Thu Hƣơng



Hà Nội, tháng 11 năm 2007


1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM VÀ THỊ
TRƢỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM 7
I, Khái quát chung về bảo hiểm 7
1, Khái niệm và bản chất của bảo hiểm 7
2, Tác dụng của bảo hiểm 9
3, Phân loại bảo hiểm 11
II, Tổng quan thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam 15
1, Tình hình thị trường bảo hiểm trong những năm qua 15
2, Tổng quan một số nghiệp vụ của thị trường 21
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH BẢO HIỂM CỦA CÔNG TY BẢO HIỂM VIỄN ĐÔNG 27
I, Khái quát chung về công ty 27
1, Lịch sử hình thành 27
2, Cơ cấu tổ chức và chức năng, quyền hạn của các bộ phận 28
3, Các sự kiện nổi bật khác 33
4, Các cổ đông chính 33
5, Đối tượng phục vụ và lĩnh vực kinh doanh 34
6, Phương thức giải quyết bồi thường 35
7, Tình hình kinh doanh chung 36
II, Các loại hình bảo hiểm của Công ty 38
1, Bảo hiểm hàng hoá 39
2, Bảo hiểm tàu thuỷ nội địa 40
3, Bảo hiểm trọn gói trong kinh doanh 41
4, Bảo hiểm tài sản 42
5, Bảo hiểm kỹ thuật 43


2

6, Bảo hiểm hỗn hợp ngân hàng 43
7, Bảo hiểm trách nhiệm 44
8, Bảo hiểm con người 44
9, Bảo hiểm xe cơ giới 46
10, Bảo hiểm khác 47
11, Chương trình tái bảo hiểm 47
III, Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
công ty Bảo hiểm Viễn Đông 49
1, Kết quả đạt được 49
2, Những thuận lợi và hạn chế 57
CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM 65
I, Định hƣớng và chiến lƣợc phát triển của Công ty Cổ phần Bảo hiểm
Viễn Đông 65
1, Định hướng phát triển Công ty 65
2, Chiến lược phát triển trung và dài hạn 65
3, Chiến lược phát triển ngắn hạn 67
II, Giải pháp đối với Công ty 69
1, Vấn đề hiệu quả kinh doanh bảo hiểm 69
2, Vấn đề nhân sự 77
3, Vấn đề phòng ngừa rủi ro, tái bảo hiểm, đầu tư tài chính 79
III, Một số kiến nghị 81
1, Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước 81
2, Tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam 83
3, Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao 84
KẾT LUẬN 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 90
DANH MỤC BẢNG BIỂU 91




































4
LỜI MỞ ĐẦU

1, Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những những bước
tiến mạnh mẽ. Chúng ta là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
nhất khu vực châu Á, trung bình 8%/năm. Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) không ngừng tăng, nhất là từ sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới WTO vào tháng 1 năm 2007, trong 6 tháng đầu năm đã
thu hút được 6,4 tỷ USD - bằng 82% số vốn đăng ký trong cả năm 2006. Kim
ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng lên đáng kể. Đời sống của người dân ngày càng
được cải thiện, bình quân GDP/đầu người năm 2006 là 725,3 USD và dự kiến sẽ
nâng lên mức 1000 – 1100 USD/người vào năm 2010. Có thể nói, đây là những
điều kiện hết sức thuận lợi để thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển.
Với những tiền đề thuận lợi như vậy, chắc chắn nhu cầu bảo hiểm sẽ gia
tăng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ có cơ hội mở rộng thị
trường. Bên cạnh đó, việc có thêm nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham
gia vào thị trường và sự hạn chế những ưu đãi, hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng tạo
động lực cạnh tranh để các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực quản lý,
cải tiến chất lượng phục vụ, giảm chi phí hoạt động, phát triển nguồn nhân lực, tự
tìm ra cho mình chiến lược kinh doanh dài hạn giúp đứng vững trên thị trường và
nắm bắt các cơ hội to lớn phía trước. Đời sống nhân dân được cải thiện cũng dẫn
đến sự nhận thức một cách sâu sắc và quan tâm nhiều hơn đến việc tích luỹ, phòng

ngừa rủi ro, tai nạn, chăm lo giáo dục con em trong tương lai.
Công ty cổ phần Bảo hiểm Viễn Đông tuy mới được thành lập và là doanh
nghiệp bảo hiểm tư nhân đầu tiên tại Việt Nam nhưng đã chứng minh được năng
lực và khả năng của mình qua những kết quả ban đầu khá ấn tượng. Tuy nhiên, bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Để tạo dựng được một vị thế vững chắc
trên thị trường, Công ty cần nghiên cứu sâu sắc về lý luận và thực tiễn kinh doanh


5
để tìm ra cho mình một hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
kinh doanh bảo hiểm.
Với mục đích trên, người viết đã chọn đề tài “Thực trạng và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Công ty Bảo hiểm
Viễn Đông (VASS)”.

2, Mục tiêu của khoá luận
Thông qua việc trình bày, phân tích, đánh giá tình hình kinh doanh bảo hiểm
trong những năm đầu hoạt động, người viết đã phân tích hiệu quả kinh doanh bảo
hiểm của Công ty Bảo hiểm Viễn Đông. Từ đó chỉ rõ, phân tích những lợi thế và
tồn tại để xây dựng một hệ thống các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

3, Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Lấy hoạt động kinh doanh bảo hiểm của toàn Công ty làm đối tượng nghiên
cứu để phân tích hiệu quả và từ đó tìm ra những giải pháp giúp Công ty nâng cao
hiệu quả kinh doanh bảo hiểm.

4, Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp
hệ thống, so sánh, phân tích, tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn qua các tài

liệu, việc tìm hiểu trực tiếp từ Công ty Bảo hiểm Viễn Đông và vận dụng các quan
điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đối để nhằm
làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

5, Những đóng góp của khoá luận
Khoá luận cung cấp hệ thống lý luận chung về bảo hiểm, phân tích tình hình
thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm trở lại đây, đưa ra các đánh giá cụ
thể về hiệu quả kinh doanh bảo hiểm của Công ty Bảo hiểm Viễn Đông.



6
6, Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương:
- Chƣơng I: Khái quát chung về bảo hiểm và thị trƣờng bảo hiểm Việt
Nam
- Chƣơng II: Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm của
Công ty Bảo hiểm Viễn Đông
- Chƣơng III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh bảo hiểm

Sau cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo TS.Trịnh Thị Thu
Hương đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận này. Ngoài ra, em cũng
xin cảm ơn Công ty Bảo hiểm Viễn Đông (VASS) đã giúp đỡ trong quá trình thu
thập tài liệu.




















7
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM
VÀ THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM

I, Khái quát chung về bảo hiểm
1, Khái niệm và bản chất của bảo hiểm
1.1, Các khái niệm bảo hiểm
Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong hoạt động kinh tế của con người
không thể tránh khỏi những tai hoạ, tai nạn bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra, gây thiệt
hại về người và tài sản. Để đối phó với những rủi ro này, bảo hiểm là một biện
pháp tốt nhất, hiệu quả nhất để góp phần khắc phục hậu quả. Có thể định nghĩa bảo
hiểm theo cách sau: “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi
thường (theo qui luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường
hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một
khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba.” Điều này có nghĩa là người
tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình

thành quĩ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm
lấy quĩ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người
tham gia.
Trong định nghĩa này, có một số khái niệm:
- Người bảo hiểm (The Insurer, Underwriter): là người nhận trách nhiệm về
rủi ro, được hưởng phí bảo hiểm và phải bồi thường khi có tổn thất xảy ra.
Người bảo hiểm có thể là công ty của nhà nước hay của tư nhân.
- Người tham gia bảo hiểm (The Insured): là người có lợi ích bảo hiểm
(insurable interest), là người bị thiệt hại khi rủi ro xảy ra và được người bảo
hiểm bồi thường. Người tham gia bảo hiểm là người có tên trong hợp đồng
bảo hiểm và là người phải nộp phí bảo hiểm.


8
- Rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm (Risk insured against): là rủi ro đã thoả thuận
trong hợp đồng. Người bảo hiểm chỉ bồi thường những thiệt hại do những
rủi ro đã thoả thuận gây ra.
- Phí bảo hiểm (Premium): là một khoản tiền nhỏ mà người tham gia bảo
hiểm phải nộp cho người bảo hiểm để được bồi thường. Mức phí bảo hiểm
thường do người bảo hiểm định ra trên cơ sở tính toán xác suất xảy ra rủi ro
hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo số phí thu về đủ để bồi
thường và bù đắp các chi phí khác đồng thời có lãi. Số thu về phí bảo hiểm
trong khi chưa bồi thường là một nguồn vốn quan trọng để công ty bảo hiểm
đầu tư sang những lĩnh vực kinh doanh khác.
1.2, Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người tham
gia, từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm
trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh

khi tại nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
Phân phối trong bảo hiểm là phân phối không đều, không bằng nhau. Nghĩa
là không phải ai tham gia bảo hiểm cũng được phân phối và phân phối với số tiền
như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người tham gia bảo
hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ, gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ
sở mức thiệt hại thực tế và điều kiện bảo hiểm. Điều này cũng có nghĩa là phân
phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào
quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối (trừ một số sản
phẩm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí).
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Nguyên tắc này
được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như quá trình phân
phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.


9
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì
lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. Bảo hiểm
với nguyên tắc số đông cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu
sắc trước rủi ro của mỗi thành viên.
2, Tác dụng của bảo hiểm
Nhìn chung, bảo hiểm mang lại rất nhiều lợi ích kinh tế - xã hội thiết thực.
Sau đây là một số tác dụng chính:
 Bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi
ro gây ra: Rủi ro dù là thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về mặt kinh
tế, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân,
doanh nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể có lúc gây thiệt hại về người. Những
tổn thất này sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người
tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh
doanh một cách bình thường. Tác động này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên
thu hút được số đông người tham gia.

 Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cuộc sống con người an
toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp. Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với
người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro. Các
công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực để thực hiện các biện
pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn những biện pháp phòng tránh
tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa cháy, kết hợp với ngành
giao thông làm các biển báo, đường lánh nạn…
 Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước: Với quĩ bảo hiểm
do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc
bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi
phục đời sống, sản xuất kinh doanh. Như vậy, ngân sách Nhà nước không phải
chi ra để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, trừ trường


10
hợp tổn thất có tính thảm hoạ, mang tính xã hội rộng lớn. Mặt khác, hoạt động
bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách
Nhà nước thông qua các loại thuế, đồng nghĩa với việc tăng doanh thu cho ngân
sách.
 Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội. Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một số
lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài việc chi trả trợ
cấp hay bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội. Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ
trong thời gian dài rồi mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có
thể sử dụng để kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu… nghĩa là đầu tư vào
hoạt động kinh tế để sinh lời. Như vậy góp phần tăng nguồn vốn cho nền kinh
tế, làm cho hệ thống tài chính sôi động hơn.
 Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông

qua hoạt động tái bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm
quốc tế có mối quan hệ qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển thông qua hình
thức phát tán rủi ro và chấp nhận rủi ro giữa các công ty của nhiều quốc gia. Vì
thế, bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ kinh tế, vừa ổn định thu, chi
ngoại tệ cho ngân sách.
 Bảo hiểm thu hút được một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần
giảm bớt tình trạng thất nghiệp. Đồng thời hoạt động bảo hiểm cũng góp phần
giải quyết đời sống cho lao động làm việc trong ngành, góp phần tạo ra một bộ
phận trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
 Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế -
xã hội, giúp họ yên tâm hơn trong cuộc sống, sinh hoạt và trong sản xuất kinh
doanh. Với một mức giá khiêm tốn của phí bảo hiểm, bảo hiểm có thể giúp đỡ
các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả của những rủi ro khôn lường.


11
Ông Wiston Churchill - một chính khách người Anh đã nói: “Nếu có thể, tôi
sẽ viết từ “Bảo hiểm” trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày tôi càng
tin chắc rằng, với một giá khiêm tốn, bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình ra
khỏi thảm hoạ không lường trước được”
3, Phân loại bảo hiểm
3.1, Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm
a, Bảo hiểm xã hội (Social Insurance)
 Khái niệm: là nhu cầu khách quan của người lao động, nó đảm bảo thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ gặp phải những sự
kiện bảo hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao động, nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình họ. Bảo hiểm xã hội mang tính cộng đồng, nhân
văn sâu sắc. Nó được phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động.
 Bảo hiểm xã hội bao gồm:
- Chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, viên chức Nhà nước

- Bảo hiểm thất nghiệp
- Bảo hiểm y tế…
b, Bảo hiểm thương mại (Commercial Insurance)
 Khái niệm: là loại hình bảo hiểm mang tính chất kinh doanh, kiếm lời. Hoạt
động của bảo hiểm thương mại chịu sự chi phối của pháp luật, nhất là luật kinh
doanh bảo hiểm, các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Bảo hiểm thương
mại không chỉ xâm nhập vào mọi hoạt động kinh tế - xã hội khắp đất nước liên
quan đến tài sản, trách nhiệm dân sự và con người mà còn phát triển, mở rộng
ra thị trường thế giới thông qua hoạt động phân tán rủi ro. Ngày nay, bảo hiểm
thương mại trở thành một dịch vụ tài chính rất phát triển trong nền kinh tế thị
trường và có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế quốc dân.
 Phân loại:
- Theo hình thức tham gia:


12
+ Bảo hiểm tự nguyện
+ Bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo
hiểm trách nhiệm của chủ đối với người lao động…)
- Theo kỹ thuật bảo hiểm:
+ Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia: là các bảo hiểm có thời hạn ngắn
(thường là một năm), đảm bảo cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn
định và độc lập với tuổi thọ con người. Vì vậy, bảo hiểm theo kỹ thuật
phân chia cũng chính là bảo hiểm phi nhân thọ.
+ Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ dự
phòng được tích tụ qua nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Nó đảm
bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian, đối tượng và
thường gắn liền với tuổi thọ con người. Bảo hiểm nhân thọ thuộc loại bảo
hiểm có kỹ thuật tổn tích.
- Theo đối tượng bảo hiểm:

+ Bảo hiểm tài sản
+ Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
+ Bảo hiểm con người
3.2, Căn cứ vào tính chất của rủi ro bảo hiểm
a, Bảo hiểm nhân thọ (Life Insurance)
 Khái niệm: là bảo hiểm những rủi ro liên quan đến tính mạng hoặc tuổi thọ của
con người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời
hạn bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ
vĩnh viễn.
 Bảo hiểm nhân thọ bao gồm:
- Bảo hiệm trọn đời
- Bảo hiểm sinh kỳ
- Bảo hiểm tử kỳ


13
- Bảo hiểm hỗn hợp
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ…
b, Bảo hiểm phi nhân thọ (Non-life Insurance)
 Khái niệm: là những loại bảo hiểm khác ngoài bảo hiểm nhân thọ.
 Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm:
- Bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người
- Bảo hiểm hàng hải (Marine insurance): gồm Bảo hiểm thân tàu (Hull
insurance); Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu (P&I insurance) và
Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển
- Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng
không…
- Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
- Bảo hiểm hàng không

- Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt
- Bảo hiểm dầu khí
- Bảo hiểm xe cơ giới
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người giao nhận
- Bảo hiểm trách nhiệm chung và trách nhiệm sản phẩm
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
- Bảo hiểm nông nghiệp
- Bảo hiểm du lịch
- Bảo hiểm bồi thường cho người lao động…
3.3, Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
a, Bảo hiểm tài sản: Đối tượng bảo hiểm là tài sản (cố định hay lưu động) của tập
thể hoặc cá nhân, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có giá… Khi tham gia bảo


14
hiểm có thể xác định được ngay giá trị của đối tượng bảo hiểm. Thiệt hại được bồi
thường trong loại hình bảo hiểm này được căn cứ vào mức độ tổn thất của tài sản
và vì vậy nó mang tính vật chất.
b, Bảo hiểm trách nhiệm: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người
được bảo hiểm đối với người thứ ba hay đối với sản phẩm… Khi tham gia bảo
hiểm, ta không thể xác định được giá trị bảo hiểm mà chỉ đưa ra hạn mức trách
nhiệm tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên được xác định trên hợp đồng bảo hiểm.
c, Bảo hiểm con người: Đối tượng bảo hiểm là con người, các bộ phận của cơ thể
con người hoặc các vấn đề có liên quan như tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức
khoẻ hoặc các sự kiện liên quan và có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người.
Loại hình bảo hiểm này cũng không thể xác định được giá trị bảo hiểm, chỉ có thể
căn cứ vào các thoả thuận và các hạn mức trách nhiệm.
3.4, Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm
a, Bảo hiểm bắt buộc
 Khái niệm: là những loại hình bảo hiểm mang tính chất bắt buộc đối với đối

tượng bảo hiểm, do pháp luật qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo
hiểm… Bảo hiểm bắt buộc thường gắn với các loại rủi ro có hậu quả gây tổn
hại đến lợi ích toàn bộ xã hội.
 Bao gồm:
- Bảo hiểm tai nạn hành khách
- Bảo hiểm xe cơ giới và trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
- Bảo hiểm cháy nổ…
b, Bảo hiểm tự nguyện
Là những loại hình bảo hiểm mà đối tượng bảo hiểm không thuộc diện bắt
buộc. Việc tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham
gia. Tính tự nguyện ở đây được thể hiện ở sự giao kết giữa người được bảo hiểm
và người bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.


15
3.5, Căn cứ vào phạm vi bảo hiểm
a, Bảo hiểm đối ngoại
 Đối tượng bảo hiểm có liên quan đến nước ngoài và đồng tiền thanh toán là
đồng ngoại tệ.
 Bao gồm:
- Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
- Bảo hiểm khách du lịch…
b, Bảo hiểm đối nội
 Đối tượng bảo hiểm chỉ nằm trong phạm vi một quốc gia. Đồng tiền thanh
toán là đồng nội tệ.
 Bao gồm:
- Bảo hiểm đối với hàng hoá vận chuyển nội địa
- Bảo hiểm y tế…

II, Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam

1, Tình hình thị trƣờng bảo hiểm trong những năm qua
Trong giai đoạn 2004 - 2006, nền kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng
mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình là 8,1%/năm. Đặc biệt, năm 2005
chứng kiến mức tăng kỷ lục 8,43% - cao nhất trong vòng 8 năm trở lại đây. Cơ cấu
GDP cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng dần,
nông nghiệp giảm tương ứng. Đến năm 2006, tỉ trọng công nghiệp trong GDP là
41,5%, nông nghiệp là 38,1% và còn lại 20,4% cho dịch vụ. Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) từ con số 4,2 tỷ USD năm 2004 đã đạt 7,8 tỷ USD năm 2006,
tăng trung bình 36,9%/năm.Thu nhập bình quân đầu người cũng cải thiện dần qua
các năm: 555 USD/người năm 2004, 637 USD/người năm 2005 và 725,3
USD/người năm 2006.


16
Hình 1.1, Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 2004 - tháng 6/2007
7.2%
7.4%
7.6%
7.8%
8.0%
8.2%
8.4%
8.6%
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 T6/2007

(Nguồn: Vietnam Economic Times – August 2007)

Kim ngạch xuất khẩu năm 2006 dẫn đầu trong cả giai đoạn với 39,6 tỉ USD. Sáu
tháng đầu năm 2007 đánh dấu những bước phát triển quan trọng của nền kinh tế
sau khi gia nhập WTO với tốc độ tăng trưởng 7,87%. Việt Nam thu hút được 717

dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với số vốn xấp xỉ 6,4 tỷ USD, tăng 8% so
với cùng kỳ năm ngoái. Các ngành công nghiệp như đóng tàu, xây dựng, hàng hải,
vận tải đường bộ đều tăng trưởng mạnh. Thị trường chứng khoán bắt đầu khởi sắc
và phát triển nóng từ năm 2005. Ngành tài chính ngân hàng cũng có những bước
phát triển và mở rộng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn tồn tại không ít những khó khăn, thách thức.
Thiên tai lũ lụt hoành hành gây thiệt hại không nhỏ về người và của. Dịch cúm gia
cầm H5N1 gây thiệt hại nặng nề cho đàn gia súc gia cầm và dân cư. Số vụ tai nạn
giao thông vẫn ở mức báo động, mức độ thiệt hại và tài sản ngày càng gia tăng.
Giá vàng và đô la Mỹ biến động liên tục, chỉ số giá tiêu dùng leo thang đã gây
không ít khó khăn cho nền kinh tế và cuộc sống của người dân.
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội ổn định và tăng trưởng mạnh mẽ đã
tạo đà thuận lợi để thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. Toàn thị trường có sự
chững lại, mặc dù tổng doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng nhưng tốc độ tăng


17
trưởng lại giảm dần. Điều này báo hiệu chấm dứt thời kỳ tăng trưởng nóng và đi
vào xu thế ổn định.

Bảng 1.2: Doanh thu thị trường bảo hiểm Việt Nam (2004 – tháng 6/2007)
Doanh thu
Tăng
trưởng
Doanh thu
Tăng
trưởng
Doanh thu
Tăng
trưởng

1 2004 4.790 23,2% 7.710 19,7% 12.500 21%
2 2005 5.678 18,5% 8.130 5,4% 13.808 10,5%
3 2006 6.360 12% 8.500 4,6% 14.860 7,6%
4 Tháng 6/2007 4.036 33% 4.426 25,8% 8.462 29,1%
Bảo hiểm
phi nhân thọ
Bảo hiểm
nhân thọ
Tổng cộng
TT
Năm
Đơn vị: tỷ đồng
(Nguồn: Bản tin Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam)

Khởi đầu là năm 2004 với 12.500 tỷ đồng doanh thu phí bảo hiểm. Một số
điểm đáng chú ý là với việc thực hiện Nghị định 43 của Chính phủ về hướng dẫn
thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp đều bổ sung thêm vốn chủ
sở hữu làm tăng tổng số vốn đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm
lên hơn 6.500 tỷ đồng. Một số công ty bảo hiểm nhà nước tiến hành cổ phần hoá
thành công như Bảo Minh, công ty tái bảo hiểm Vinare. Các doanh nghiệp từng
bước nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ, tung ra nhiều sản phẩm
mới, chú trọng công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực để chuẩn bị cho lộ trình
mở cửa hội nhập của Việt Nam. Tuy nhiên, có một số nhân tố khách quan khiến
mức độ tăng trưởng của năm này thấp, đó là chỉ số giá tiêu dùng tăng tới 9,5%, sự
cạnh tranh của hệ thống các ngân hàng thương mại với mức lãi suất huy động tiền
gửi tiết kiệm cao hơn năm trước.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ tăng trưởng 19,7% với 6,5 triệu hợp đồng bảo
hiểm có hiệu lực và 1,8 triệu hợp đồng khai thác mới trong kỳ. Công ty bảo hiểm
Prudential đứng đầu thị trường, tiếp đó là Bảo Việt Nhân thọ. Đối với thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ, tổng doanh thu là 4.790 tỷ đồng, tăng 23,2% so với năm



18
2003. Bảo Việt vẫn chiếm thị phần cao nhất (với 40,2%), đứng thứ hai là Bảo
Minh (22,1%) và thứ ba là PJICO (13,3%). Nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới có
doanh thu phí bảo hiểm cao nhất (1.356 tỷ đồng - chiếm 28,3% tổng doanh thu)
còn bảo hiểm cháy nổ là nghiệp vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất (87,7%).
Năm 2005, mức tăng trưởng chỉ còn bằng một nửa so với năm trước đó.
Toàn thị trường đạt doanh thu 13.808 tỷ đồng. Tổng số vốn điều lệ là 7.420 tỷ,
tổng dự phòng nghiệp vụ là 23.696 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư vào nền kinh tế quốc
dân đạt 26.276 tỷ đồng. Với sự gia nhập của các công ty bảo hiểm nước ngoài là
AAA, AIG (phi nhân thọ), Prévoir, ACE Life, New York Life (nhân thọ) đã nâng
tổng số doanh nghiệp bảo hiểm lên 23. Các công ty đang hoạt động cũng tiến hành
tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam
mua lại cổ phần của công ty bảo hiểm QBE và thành lập công ty bảo hiểm 100%
vốn trong nước BIC. Sau đó, chính công ty QBE mua lại công ty bảo hiểm Allianz
và thành lập một doanh nghiệp mới. Cùng với quyết định số 310 của Thủ tướng
Chính phủ, Công ty bảo hiểm Bảo Việt chính thức chuyển đổi thành Tập đoàn tài
chính Bảo Việt với rất nhiều đơn vị thành viên. Có thể nói, đây là những chuyển
biến tạo ra sự thay đổi lớn trong thị trường bảo hiểm Việt Nam trong năm này.
Với 36.760 đại lý bảo hiểm, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đạt doanh thu
5.678 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2004. Bảo Việt vẫn dẫn đầu với 38% thị
phần, tiếp đó là Bảo Minh, PJICO tụt xuống vị trí thứ tư sau PVI. Về các nghiệp
vụ, bảo hiểm xe cơ giới tiếp tục dẫn đầu với doanh thu 1.601 tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng 28,2%. Đứng thứ hai là bảo hiểm con người với 14,8% thị trường. Bảo hiểm
xây dựng lắp đặt có tốc độ tăng trưởng cao nhất - 80%, chiếm tỷ trọng 8,6%. Thị
trưởng bảo hiểm nhân thọ chứng kiến một năm tăng trưởng chậm chạp với tốc độ
5,4% - bằng 25% so với năm trước đó. Khu vực này có quỹ dự phòng nghiệp vụ
21.380 tỷ đồng và đã đầu tư 21.806 tỷ đồng vào nền kinh tế quốc dân.





19

Hình 1.3. Biểu đồ tỷ lệ doanh thu theo loại hình bảo hiểm – năm 2005
BH xe cơ giới
BH con người
BH thân tàu P&I
BH cháy nổ và mọi rủi
ro tài sản
BH hàng hoá vận
chuyển
BH xây dựng lắp đặt
BH khác

(Nguồn: Bản tin Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam năm 2005)

Đáng chú ý là năm 2006 có mức tăng trưởng giảm đáng kể, chỉ còn bằng
72,3% năm 2005 và 36% năm 2004. Thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra, thị trường
chứng khoán Việt Nam phát triển quá nóng, giá vàng và đô la Mỹ liên tục biến
đồng và những đợt tăng lãi suất tiền gửi ngân hàng là một số nguyên nhân chính
dẫn tới tình trạng này. Doanh thu toàn thị trường là 14.860 tỷ đồng, ngành đã đóng
góp trên 1.000 tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước và đầu tư trên 35.000 tỷ đồng cho
nền kinh tế.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn được thống lĩnh bởi 3 công ty bảo
hiểm Bảo Việt, Bảo Minh, PVI như năm trước. Doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt
6.360 tỷ đồng, tăng 12% so với năm 2005. Nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới vẫn
đứng vị trí hàng đầu về doanh thu với 1.711 tỷ đồng, tăng 6,9% và chiếm 26,9%
doanh thu. Thị trường bảo hiểm nhân thọ vẫn giữ nguyên mức tăng trưởng 4,6%

xấp xỉ năm 2005 với doanh thu 8.500 tỷ đồng. Ở khu vực này, những tên tuổi của
các doanh nghiệp nước ngoài chiếm phần lớn những vị trí dẫn đầu như Prudential,
Manulife, AIA, Bảo Việt Nhân thọ là doanh nghiệp nhà nước duy nhất vẫn duy trì
được vị trí thứ hai của mình trong top đầu này. Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp
thị trường có dấu hiệu chững lại, số hợp đồng mới khai thác giảm 14,7%, chỉ còn
1,2 triệu hợp đồng, số hợp đồng khôi phục cũng giảm 7,5%. Hướng khắc phục của
10%
7,8%
8,6%
21,3%
28,2%
14,8%
9,3%


20
các doanh nghiệp là phát triển các sản phẩm mới hướng đến nhiều đối tượng khách
hàng khác nhau, kết hợp các sản phẩm mới với những loại hình bảo hiểm bắt buộc.
Sau giai đoạn 2004 - 2006, cùng với việc chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO, thị trường bảo hiểm cũng đón nhận
những đổi thay về cơ cấu. Doanh thu toàn thị trường đạt 8.462 tỷ đồng, tăng 29,1%
so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm 57% tổng doanh thu cả năm 2006. Các công ty
bảo hiểm lớn lần lượt tiến hành cổ phần hoá và niêm yết trên thị trường chứng
khoán. Tiên phong là Bảo Việt với 600 tỷ đồng phát hành trên sàn chứng khoán Hà
Nội. Tiếp đó, Bảo Minh, Vinare, PVI, BIC… cũng tăng vốn điều lệ để đáp ứng nhu
cầu mở rộng qui mô kinh doanh. Sự ra đời các quyết định của Bộ Tài chính qui
định về việc bổ sung một số loại hình bảo hiểm bắt buộc hứa hẹn sự tăng trưởng và
những bước đột phá vào nửa sau của năm.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ chiếm 47,7% tổng doanh thu của toàn thị
trường, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới với

tốc độ tăng trưởng 27,3% vẫn giữ vị trí số 1 về doanh thu. Bảo hiểm cháy nổ và rủi
ro tài sản vươn lên vị trí thứ hai với mức tăng trưởng 42% nhờ quyết định
28/2007/QĐ-BTC về qui tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc. Hiệp hội Bảo
hiểm phát huy chức năng làm cầu nối giữa các doanh nghiệp trong ngành với cơ
quan quản lý Nhà nước, trong đó bao gồm việc thông qua kiến nghị tăng hoa hồng
đại lý bảo hiểm cho một số nghiệp vụ bán lẻ. Do sự cạnh tranh từ phía thị trường
chứng khoán và các ngân hàng thương mại giảm và nỗ lực của chính các doanh
nghiệp, thị trường bảo hiểm nhân thọ đã tăng trưởng trở lại với 4.426 tỷ đồng
doanh thu, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tóm lại, từ năm 2004 trở lại đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có những
tiến bộ đáng kể, dần bước vào giai đoạn phát triển bền vững nhưng vẫn tiếp tục sôi
động với nhiều hình thức sở hữu đa dạng, đón chờ sự hội nhập. Trước hết là hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện với sự ra đời của hàng loạt bộ luật, nghị
định, quyết định… Cùng với đà hội nhập khu vực và thế giới và lộ trình thực hiện


21
các cam kết gia nhập WTO, thị trường bảo hiểm cũng đón nhận sự gia nhập của
hàng loạt các công ty bảo hiểm nước ngoài. Đây là động lực để các doanh nghiệp
trong nước không ngừng cố gắng để giữ vững thị phần và nâng cao tính cạnh tranh.
Cổ phần hoá, tăng vốn chủ sở hữu tăng cường khả năng tài chính, niêm yết
trên thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư nhàn rỗi từ dân chúng và thành
lập các tập đoàn tài chính là những động thái đầu tiên trong một loạt các nỗ lực để
theo kịp với quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã
chú trọng việc đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ thông tin nhằm phục vụ cho quá
trình quản lý, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và củng cố thương hiệu,
nâng cao uy tín để tăng tính cạnh tranh.
2, Tổng quan một số nghiệp vụ của thị trƣờng
2.1, Bảo hiểm hàng hải
a, Khái niệm và phân loại

 Khái niệm: Bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm những rủi ro, tổn thất trên biển,
của biển, trên bộ hoặc nội thuỷ có liên quan đến hành trình đường biển.
 Phân loại: Bảo hiểm hàng hải bao gồm:
- Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển: gồm hàng hoá xuất nhập
khẩu và hàng hoá trong phạm vi lãnh thổ quốc gia
- Bảo hiểm thân tàu: gồm vỏ, thiết bị, máy móc thiết bị trên tàu.
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu
b, Thực trạng thị trường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải những năm qua
Qua các năm 2004-2006, bảo hiểm hàng hải luôn đạt mức tăng trưởng khá.
Năm 2004, trong số các nghiệp vụ, bảo hiểm thân tàu và P&I đạt doanh thu 459 tỷ
đồng, tăng 20,15% so với năm 2003. Đứng đầu là Bảo Việt với doanh thu 161 tỉ
đồng, tiếp theo là Bảo hiểm dầu khí (PVI) và PJICO. Mặc dù hiện tượng cạnh
tranh diễn ra từ các năm trước đã giảm bớt nhưng vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm.
Các doanh nghiệp đã cùng hợp tác để đưa ra những thoả thuận để giải quyết các


22
vấn đề này. Trong năm này cũng xảy ra nhiều tổn thất về tàu biển khiến tỉ lệ bồi
thường tăng cao, chiếm 36,2%.
Năm 2005, bảo hiểm thân tàu và P&I đứng vị trí thứ ba, đạt doanh thu 491,6
tỉ đồng, tăng 7,22% so với năm trước. Tỷ lệ bồi thường là 39,5%. Giá trị các con
tàu tham gia bảo hiểm do các chủ tàu đánh giá lại tăng từ 1,5 đến 2,5 lần nhưng do
cạnh tranh về phí nên doanh thu phí bảo hiểm không tăng cao tương ứng. Trong
năm 2006, doanh thu của bảo hiểm thân tàu và P&I tiếp tục tăng trưởng 18,5%.
Đây là năm thứ 5 liên tiếp tỉ lệ bồi thường của nghiệp vụ này tăng cao, ở mức 54%.
Các sản phẩm có tính cạnh tranh cao là bảo hiểm tàu biển, P&I, tàu sông, tàu cá và
bảo hiểm đóng tàu. Phí bảo hiểm vẫn tăng không đều mặc dù giá trị đánh giá lại
của các con tàu tăng. Tuy mới triển khai nhưng bảo hiểm đóng tàu đã có hiện
tượng hạ phí bảo hiểm chỉ còn bằng 1/3 phí ban đầu hoặc giảm bớt các điều kiện
bảo hiểm chỉ còn bảo hiểm rủi ro hạ thuỷ trong khi đây là rủi ro lớn nhất ở nước ta.

2.2, Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là bảo hiểm cho những thiệt hại do
cháy và các rủi ro tương tự hay các rủi ro đặc biệt như: động đất, bão lụt, núi lửa,
sét đánh… gây ra cho đối tượng bảo hiểm.
Có thể nói năm 2004 là năm bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đạt
mức tăng trưởng kỷ lục 87,7% với mức doanh thu 412 tỷ đồng. Bảo Minh dẫn đầu
với 149,5 tỷ. Trong năm này, các doanh nghiệp đã đóng góp 150 triệu đồng để
phục vụ cho quá trình khảo sát, dự thảo, góp ý kiến xây dựng nghị định của Chính
phủ về Bảo hiểm bắt buộc cháy nổ, qui tắc biểu phí bảo hiểm. Tuy nhiên, qui trình
này diễn ra khá chậm và cho đến năm 2007, quyết định 28/2007/QĐ-BTC mới ra
đời nhằm công khai, minh bạch hoá các đối tượng có nguy cơ về cháy nổ.
Năm 2005, nghiệp vụ bảo hiểm này đứng thứ tư trong số các sản phẩm bảo
hiểm phi nhân thọ với doanh thu 472 tỉ đồng, tăng 13,7% so với năm trước. Bảo
Minh vẫn tiếp tục dẫn đầu với doanh thu 139,7 tỉ đồng. Nhìn chung giá trị tài sản


23
được bảo hiểm tăng 1,5 lần nhưng phí bản hiểm chưa tăng tương xứng do có sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bằng cách hạ mức phí bảo hiểm.
Mức tăng trưởng doanh thu năm 2006 đã giảm xuống chỉ dừng ở mức
10,6%. Số tiền bồi thường chiếm 27,6%, trong đó Bảo Việt có tỷ lệ bồi thường là
47%, cao nhất trong các doanh nghiệp. Dự báo trong 6 tháng cuối năm 2007, loại
hình bảo hiểm này sẽ tăng mạnh sau khi quyết định 28/2007/QĐ-BTC được ban
hành.
2.3, Bảo hiểm kỹ thuật
Bảo hiểm kỹ thuật bao gồm: Bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng, bảo hiểm rủi ro
lắp đặt, bảo hiểm thiết bị điện tử, bảo hiểm máy móc, bảo hiểm thiết bị chủ thầu,
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh kỹ thuật…
Sau năm 2003 với tốc độ tăng trưởng 25-30% do mức đầu tư cho các công
trình giao thông và điện lực tăng gấp đôi, năm 2004 bảo hiểm kỹ thuật tăng nhẹ về

doanh thu, chỉ còn 6,5%. Trong đó, bảo hiểm thiết bị máy móc tăng 17,8%, bảo
hiểm thiết bị điện tử tăng 0,6%, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt giảm 3%, bảo hiểm
dầu khí giảm 6,7%, bảo hiểm mọi rủi ro giảm 49%.
Năm 2005 chứng kiến sự tăng trưởng trở lại của các sản phẩm bảo hiểm kỹ
thuật với mức tăng 37,7%. Đây là mức tương xứng với sự tốc độ tăng trưởng
chung của nền kinh tế nước ta với 5,835 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
3,74 vốn ODA. Dẫn đầu là Bảo Việt với doanh thu 185 tỉ đồng, sau đó là Bảo hiểm
dầu khí (PVI) và Bảo hiểm Bưu điện (PTI). Trong năm 2006, doanh thu bảo hiểm
kỹ thuật tiếp tục tăng nhưng ít hơn so với năm trước, ở mức 35,2%. Trong đó bảo
hiểm xây dựng lắp đặt đạt 670 tỉ đồng doanh thu, tăng 36,5%. Tỉ lệ bồi thường ở
mức thấp, 7% đối với bảo hiểm xây dựng lắp đặt và 14,5% đối với bảo hiểm tài sản
và thiệt hại. Tình trạng cạnh tranh vẫn diễn ra khá gay gắt với các hình thức hạ phí
bảo hiểm, bổ sung một số điều kiện bảo hiểm chồng chéo với các loại hình bảo
hiểm khác, hạ mức khấu trừ… Bộ Tài chính đang tiến hành soạn thảo và sẽ sớm
ban hành các qui tắc và biểu phí về bảo hiểm xây dựng, lắp đặt, trách nhiệm người


24
sử dụng lao động trong hoạt động xây dựng để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động
bảo hiểm phát triển lành mạnh hơn.
2.4, Bảo hiểm xe cơ giới
Bảo hiểm xe cơ giới bao gồm: bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của
chủ xe cơ giới, bảo hiểm vật chất xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe đối
với hành khách trên xe, bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe đối với hàng hoá vận
chuyển trên xe, bảo hiểm bắt buộc khác.
Sau khi chính phủ ban hành Nghị định 15/NĐ-CP qui định việc xử phạt đối
với người tham gia giao thông không có bảo hiểm bắt buộc Trách nhiệm dân sự
chủ xe cơ giới, nhu cầu mua bảo hiểm bắt đầu bùng nổ. Trong giai đoạn từ năm
2004 đến năm 2006, nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới luôn dẫn đầu về mặt doanh thu
trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Cuối năm 2003, khi loại hình bảo hiểm này

có dấu hiệu chững lại, bảy doanh nghiệp là Bảo Việt, Bảo Minh, Bảo hiểm
Petrolimex (PJICO), Bảo hiểm dầu khí (PVI), Bảo Long, Bảo hiểm Viễn Đông đã
đóng góp gần 3 tỉ đồng cho các công trình, các sự kiện, hoạt động tuyên truyền về
an toàn giao thông, thống nhất giấy chứng nhận bảo hiểm. Nhờ đó, diện mạo của
bảo hiểm xe cơ giới đã từng bước thay đổi và doanh thu cũng đã tăng lên đáng kể.
Năm 2004 đạt doanh thu 1.356 tỉ đồng, tăng 39,8% so với năm 2003. Các doanh
nghiệp bảo hiểm còn từng bước cải tiến khâu giải quyết bồi thường, tổ chức trạm
cứu hộ giao thông, góp phần làm yên tâm những người tham gia bảo hiểm.
Năm 2005, riêng doanh thu từ bảo hiểm xe cơ giới chiếm gần 30% doanh
thu toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, đạt 1.603 tỉ đồng, tăng 18% so với năm
2004. Dẫn đầu thị trường là Bảo Việt với 676 tỉ đồng. Công ty Bảo hiểm Viễn
Đông tuy chỉ mới hoạt động nhưng đã đạt doanh thu 50,3 tỉ đồng, chiếm 55% tổng
doanh thu của công ty. Tuy vậy, số lượng xe ô tô tham gia bảo hiểm bắt buộc trách
nhiệm dân sự mới chỉ dừng lại ở 600.000 trên tổng số 800.000 xe, số lượng xe mô
tô là 5 triệu xe trên tổng số 15 triệu xe. Có thể nói, thị trường bảo hiểm xe cơ giới

×