Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO của việt nam và giải pháp thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 99 trang )



1
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***








KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRONG WTO
CỦA VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN






Họ và tên sinh viên : Ngô Mai Dung
Lớp : Anh 1
Khóa : 42
Giáo viên hƣớng dẫn : TS. Trịnh Thị Thu Hƣơng






Hà Nội, Tháng 11/2007


2
MỤC LỤC
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

DANH MỤC BẢNG, BIỂU

LỜI MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1. CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRONG
WTO
4
I. Khái quát về dịch vụ bảo hiểm
4
1. Khái niệm dịch vụ bảo hiểm
4
2. Phân loại bảo hiểm
7
3. Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển của nền kinh tế
9
II. Những cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO
11
1. Những cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam trong WTO

11
2. Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO
16
CHƢƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CAM KẾT TRONG WTO ĐỐI
VỚI DỊCH VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM
22
I. Tổng quan về thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam
22
1. Quy mô thị trường
22
2. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
23
3. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
26
4. Hoạt động tái bảo hiểm
29
5. Hoạt động trung gian bảo hiểm
29
II. Tác động của các cam kết WTO đến hệ thống pháp luật về bảo hiểm
của Việt Nam
30
1. Rỡ bỏ các rào cản tham gia thị trường
31
2. Thành lập cơ quan quản lý nhà nước độc lập
32
3. Xây dựng hệ thống các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng
33


3

4. Gia tăng khả năng giám sát, đảm bảo sự thống nhất và ổn định tài chính
doanh nghiệp
34
5. Cam kết minh bạch hoá và công khai hoá các chính sách bảo hiểm
34
6. Đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng trên thị trường bảo hiểm
35
III. Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến phát triển dịch vụ
bảo hiểm
36
1. Cơ hội
36
2. Thách thức
36
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
BẢO HIỂM VIỆT NAM NHẰM ĐÁP ỨNG CÁC CAM KẾT WTO
50
I. Định hƣớng phát triển thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam
50
1. Mục tiêu
50
2. Một số chỉ tiêu chủ yếu
50
II. Dịch vụ bảo hiểm Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu hơn trong
tƣơng lai
51
1. Dịch vụ bảo hiểm và hệ thống pháp luật bảo hiểm Việt Nam tiếp cận gần
hơn các chuẩn mực quốc tế
51
2. Huy động thêm vốn đầu tư nước ngoài

52
3. Rủi ro được quản lý tốt hơn tạo thêm sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư
của Việt Nam
52
4. Bỏ ngỏ một số phân đoạn thị trường


53
5. Tăng cường xu hướng hợp nhất, sáp nhập và liên kết dịch vụ tài chính
54
6. Phát triển các kênh phân phối mới
55
II. Tìm hiểu kinh nghiệm của Trung Quốc trong mở cửa thị trƣờng bảo hiểm
57
1. Lịch sử phát triển của ngành bảo hiểm
57
2. Những thay đổi khi trở thành thành viên của WTO
58
3. Sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài
59


4
4. Môi trường pháp lý
60
5. Cấp phép hoạt động bảo hiểm
61
III. Các giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt nam
62
1. Các giải pháp vĩ mô

62
2. C¸c gi¶i ph¸p ®èi víi c«ng ty b¶o hiÓm
73
KẾT LUẬN
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC




5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

AAA Công ty cổ phần bảo hiểm AAA
ATM Máy rút tiền tự động
BAOMINH Tổng công ty cổ phần Bảo Minh
BAOVIET Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam
BTA Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ
CIRC Uỷ ban điều hành bảo hiểm Trung Quốc
GATS Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ
PJICO Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex
PTI Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện
PVI Công ty cổ phần bảo hiểm Dầu khí
VASS Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông
VINARE Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại thế giới


6

DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 1. Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm theo khối doanh nghiệp
22
Bảng 2. Số tiền bồi thường bảo hiểm phi nhân thọ
26
Bảng 3. Số hợp đồng, số tiền bảo hiểm và số phí bảo hiểm khai
thác mới năm 2006
27
Bảng 4. Tình hình trả tiền bảo hiểm 2005 - 2006
28
Bảng 5. Hoạt động tái bảo hiểm năm 2004 - 2006
29




Biểu đồ 1. Thị phần doanh thu phí bảo hiểm Việt Nam 2006
24
Biểu đồ 2. Doanh thu phí bảo hiểm gốc theo nghiệp vụ
25
Biểu đồ 3. Doanh thu phí bảo hiểm giữ lại theo nghiệp vụ
25
Biểu đồ 4. Doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới
27
Biểu đồ 5. Phí bảo hiểm thu xếp qua môi giới 2005-2006
30
Biểu đồ 6. Vốn điều lệ của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ năm 2006
44








7
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 7/11/2006 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh
tế của Việt Nam- Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO sau 11 năm đàm phán. Bước ra “biển lớn”
kinh tế Việt Nam đón nhận được rất nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi để
phát triển, song bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng phải đối diện với
nhiều khó khăn và thách thức. Một trong những thách thức lớn của nền kinh
tế Việt Nam là phải cố gắng nỗ lực trên mọi phương diện để đáp ứng điều
kiện của một nước thành viên và nghiêm túc thực hiện cam kết WTO trên tất
cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, trong đó có ngành bảo hiểm.
Bảo hiểm là một ngành kinh doanh đặc biệt- kinh doanh rủi ro. Bảo
hiểm cũng là một ngành dịch vụ tài chính đặc biệt mang tính toàn cầu, đóng
vai trò quan trọng đối với sự ổn định của nền kinh tế quốc dân và đời sống xã
hội. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO kéo dài 11 năm cùng sự kiện
Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ được ký kết ngày
13/7/2000, bảo hiểm Việt Nam đã có những thay đổi lớn do những cố gắng
cải cách quy định pháp lý của Nhà nước đồng hành với sự nỗ lực cố gắng của
bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Khung pháp lý được điều
chỉnh hoàn thiện hơn, tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế; các doanh nghiệp
cũng phấn đấu trên mọi mặt để nâng cao khả năng cạnh tranh sẵn sàng đối

mặt với sức ép từ chính thị trường trong nước cùng sự “tấn công” mạnh mẽ
của các tập đoàn bảo hiểm nước ngoài.
Năm 2007 là năm đầu tiên chúng ta thực hiện các cam kết WTO với
các cơ hội và thách thức đan xen, vậy những yếu tố đó tác động đến ngành
bảo hiểm Việt Nam như thế nào; thị trường bảo hiểm trong nước đã làm được


8
gì và còn thiếu sót gì trong thời gian qua; và quan trọng hơn, chúng ta phải có
những giải pháp gì về phía nhà nước và doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát
triển trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài với tiềm lực tài chính mạnh mẽ,
kỹ thuật bảo hiểm tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiệu quả? Việc nghiên
cứu, phân tích để tìm ra câu trả lời cho các vấn đề nói trên là một yêu cầu cần
thiết hiện nay; xuất phát từ thực tế đó, tác giả lựa chọn vấn đề “Cam kết về
dịch vụ bảo hiểm trong WTO của Việt Nam và giải pháp thực hiện” làm đề
tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích cụ thể những cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong
WTO, liên hệ thực trạng các quy định của Việt Nam hiện nay, đánh giá những
tác động của các cam kết đối với sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam
từ đó đưa ra một số giải pháp thực hiện các cam kết đồng thời cũng là các giải
pháp phát triển thị trường bảo hiểm nhằm đáp ứng những quy định về dịch vụ
bảo hiểm trong WTO.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, khoá luận sẽ thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề liên quan đến khái niệm dịch vụ bảo hiểm
- Phân tích những cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO của Việt
Nam
- Nghiên cứu thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam và đánh giá

những tác động của các cam kết đến sự phát triển toàn ngành bảo hiểm
- Đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam
nhằm đáp ứng các cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu các cam kết về dịch vụ bảo hiểm
trong WTO của Việt Nam; thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam và những


9
tác động của các cam kết đến sự phát triển toàn ngành bảo hiểm trong những
năm gần đây và tập trung vào năm 2006, từ đó đề xuất một số giải pháp phát
triển thị trường bảo hiểm Việt Nam nhằm đáp ứng các cam kết về dịch vụ bảo
hiểm trong WTO.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp: phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh và đối chiếu. Ngoài ra tác giả còn đề cập đến các vấn đề theo quan
điểm phát triển, toàn diện, lịch sử và cụ thể nhằm phân tích một cách xác thực
thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua.
6. Bố cục của khoá luận
Tên khoá luận: “Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO của Việt
Nam và giải pháp thực hiện”
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục viết tắt, tài liệu tham khảo,
nội dung của khoá luận được bố cục thành 3 chương như sau:
Chương 1. Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO
Chương 2. Tác động của các cam kết trong WTO đối với dịch vụ bảo
hiểm Việt Nam
Chương 3. Một số giải pháp chủ yếu phát triển dịch vụ bảo hiểm Việt
Nam nhằm đáp ứng các cam kết WTO
Do những hạn chế về tài liệu, thời gian nghiên cứu cũng như nhận thức
của tác giả, khoá luận không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong

nhận được sự thông cảm và góp ý của các thầy cô giáo và bạn bè.
Tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Trịnh Thị Thu Hương- người đã dành
thời gian tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành khoá luận này.


10
CHƢƠNG 1. CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRONG WTO
I. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM
4. Khái niệm dịch vụ bảo hiểm
1.1. Dịch vụ
Có rất nhiều khái niệm về dịch vụ hiện nay đang được sử dụng, có lẽ
chính tính vô hình, khó nắm bắt của dịch vụ, sự đa dạng và phức tạp của các
loại hình dịch vụ làm cho việc đưa ra một định nghĩa rõ ràng gặp nhiều khó
khăn. Theo quan điểm của Các Mác “dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản
xuất hàng hoá, khi mà nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự
lưu thông thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người thì dịch vụ phát triển” [10].
Vào những năm cuối thế kỷ 20, khi dịch vụ đã trở thành một ngành
kinh tế quan trọng của các quốc gia và trở thành đối tượng nghiên cứu của các
nhà kinh tế, khoa học, người ta thường có hai cách hiểu về dịch vụ. Dịch vụ
hiểu theo nghĩa rộng là lĩnh vực kinh tế thứ 3 trong nền kinh tế quốc dân, theo
cách hiểu này thì những hoạt động nào nằm ngoài hai ngành công nghiệp và
nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt
động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh, thương mại, bao gồm các hoạt động hỗ
trợ trước, trong và sau khi bán hàng.
Theo Tạp chí “Nhà kinh tế”, dịch vụ là “bất kỳ cái gì đem bán mà
không thể rơi vào bàn chân bạn”. Như vậy, có thể hiểu dịch vụ là một sản
phẩm vô hình, không nhìn thấy được và không nắm bắt được. Dịch vụ là một
sản phẩm vì nó là kết quả của sức lao động của con người, được tạo ra nhằm
thoả mãn nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá cũng như đáp ứng nhu cầu

tiêu dùng của con người.
WTO đã phân loại dịch vụ thành 155 phân ngành, thuộc 11 khu vực sau
đây:
- Dịch vụ kinh doanh gồm: nghề nghiệp, máy tính và liên quan,


11
nghiên cứu và triển khai, bất động sản, cho thuê, dịch vụ kinh
doanh khác;
- Dịch vụ thông tin liên lạc gồm: bưu điện, chuyển phát nhanh,
viễn thông, nghe nhìn, dịch vụ khác;
- Dịch vụ xây dựng và kỹ thuật gồm: thi công xây dựng, lắp đặt
xây dựng, thi công khác;
- Dịch vụ phân phối: đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ, đại lý
độc quyền, dịch vụ khác;
- Dịch vụ đào tạo gồm: tiểu học, trung hoc, đại học, dịch vụ giáo
dục khác;
- Dịch vụ môi trường gồm: thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh và
tương tự, dịch vụ khác;
- Dịch vụ tài chính gồm: bảo hiểm và liên quan, ngân hàng và
liên quan, dịch vụ tài chính khác;
- Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và xã hội gồm: chữa bệnh,
bệnh viện, dịch vụ khác;
- Dịch vụ du lịch và liên quan gồm: khách sạn và nhà hàng, đại
lý và điều hành du lịch, hướng dẫn du lịch, dịch vụ khác;
- Dịch vụ giải trí, văn hoá và thể thao gồm: giải trí, tin tức, thư
viện, kiến trúc, bảo tàng…,thể thao và giải trí khác;
- Dịch vụ vận tải gồm: vận tải đường biển, vận tải thuỷ nội địa,
vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải ô tô, vận tải
đường ống, vận tải vũ trụ, vận tải đa phương thức, dịch vụ vận

tải khác;
- Dịch vụ khác.
Bảo hiểm


12
Có nhiều khái niệm về bảo hiểm hiện nay đang được sử dụng trên thị
trường bảo hiểm thế giới. Trong khuôn khổ khoá luận này, tác giả chỉ đưa ra
một số khái niệm được thừa nhận rộng rãi nhất trên thế giới.
- Theo “Uỷ ban thuật ngữ bảo hiểm” của “Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro
Hoa Kỳ” thì: “Bảo hiểm là việc chuyển giao những rủi ro do các tổn
thất bất ngờ và ngẫu nhiên gây ra từ người được bảo hiểm sang cho
người bảo hiểm khi họ cam kết bồi thường cho những tổn thất này;
cung cấp các quyền lợi bằng tiền khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các
dịch vụ liên quan đến rủi ro cho người được bảo hiểm”.
- Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: “Bảo hiểm là sự thoả thuận
qua đó một bên (người bảo hiểm) hứa sẽ thanh toán cho bên kia (người
được bảo hiểm hay người tham gia bảo hiểm) một khoản tiền nếu sự cố
xảy ra gây tổn thất tài chính cho người được bảo hiểm sang người bảo
hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, người bảo hiểm đòi
hỏi người được bảo hiểm một khoản tiền, đó là phí bảo hiểm”.
- Khái niệm bảo hiểm được sử dụng tại thị trường Châu Á: “Bảo hiểm là
biện pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít người cho
nhiều người có cùng khả năng chịu rủi ro nào đó thông qua việc tổ chức
ra một quỹ tài chính tập trung huy động từ các cá nhân, tổ chức tham
gia bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc bù đắp
những tổn thất do những rủi ro đó gây ra”.
- Còn ở Việt Nam, chưa có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm. Theo
giáo trình “Bảo hiểm trong kinh doanh” của trường Đại học Ngoại
thương Hà Nội, khái niệm bảo hiểm được hiểu là “một sự cam kết bồi

thường của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những
thiệt hại, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thoả thuận
gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối
tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm” [9].


13
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ bảo hiểm là một trong các phân ngành thuộc ngành dịch vụ tài
chính- ngành dịch vụ xếp thứ 7 trong 11 phân ngành dịch vụ.
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ, tức là công ty bảo hiểm không bán một
sản phẩm hữu hình như ô tô, xe máy…mà theo thuật ngữ thương mại quốc tế,
sản phẩm của các công ty được phân loại là một hoạt động “vô hình”. Người
sở hữu đơn bảo hiểm được cấp một văn bản- đơn bảo hiểm là bằng chứng cho
một hợp đồng giữa người tham gia bảo hiểm và công ty bảo hiểm. Cam kết
trong hợp đồng bảo hiểm là cam kết thanh toán bằng tiền hoặc hàng hoá theo
giá trị tương đương với một tổn thất cụ thể nào đó. Công ty bảo hiểm bán cam
kết của mình cho người được bảo hiểm. Hiệu lực của một hợp đồng bảo hiểm
chỉ được chứng minh vào một thời điểm trong tương lai. Vào thời điểm đó,
công ty bảo hiểm phải thanh toán tiền bồi thường cho người được bảo hiểm.
Ở bất cứ giai đoạn nào sau khi mua bảo hiểm, người được bảo hiểm sẽ được
bảo vệ, và đó chính là mục đích của việc mua bảo hiểm.
Ở Việt nam, kinh doanh bảo hiểm được hiểu là “hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm
chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng
phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”
[12].
Từ cách phân tích và cách hiểu nói trên, có thể hiểu khái quát dịch vụ
bảo hiểm là “sản phẩm lao động có hàm lượng trí tuệ cao của con người, được

cung ứng trong lĩnh vực bảo hiểm nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất, lưu
thông, phân phối, tiêu dùng của nền kinh tế cũng như nhu cầu tiêu dùng của
người dân” [14].
5. Phân loại bảo hiểm


14
Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà người ta có thể phân loại bảo hiểm
thành nhiều loại:
2.1. Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm
2.1.1. Bảo hiểm xã hội: có tính chất bắt buộc, theo những luật lệ chung,
không tính đến rủi ro cụ thể, không nhằm mục đích kinh doanh…bao gồm
chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ, viên chức nhà nước; bảo hiểm y tế;
bảo hiểm thất nghiệp…
2.1.2. Bảo hiểm thương mại: loại hình bảo hiểm không mang tính chất
kinh doanh, kiếm lời.
2.2. Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm
2.2.1. Bảo hiểm nhân thọ: là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của con
người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết thời
hạn bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật
toàn bộ vĩnh viễn, bao gồm: bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm sinh kỳ, bảo
hiểm từ kỳ, bảo hiểm hỗn hợp, bảo hiểm trả tiền định kỳ…
2.2.2. Bảo hiểm phi nhân thọ, bao gồm các loại khác như: bảo hiểm sức
khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm tài sản
và bảo hiểm thiệt hại, bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm hàng
không, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm xe cơ
giới…
2.3. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
Bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người, bảo hiểm trách nhiệm.
2.4. Căn cứ theo quy định của pháp luật

2.4.1. Bảo hiểm tự nguyện
2.4.2. Bảo hiểm bắt buộc, bao gồm:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới;
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối
với hành khách;


15
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp
luật;
- Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm;
- Bảo hiểm cháy nổ.
Theo biểu cam kết WTO, Việt Nam đưa ra cam kết mở cửa thị trường
với bốn loại là: Bảo hiểm nhân thọ (trừ bảo hiểm y tế), Bảo hiểm phi nhân
thọ; Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; Trung gian bảo hiểm (như môi
giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm); Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (như tư vấn, dịch
vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường). Tác giả sẽ tập trung
phân tích vào nội dung cam kết này trong các phần tiếp theo của khoá luận.
6. Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển của nền kinh tế
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người
tham gia bảo hiểm, để từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống; đồng
thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, bảo
hiểm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội. Xã hội ngày càng văn minh
và phát triển thì hoạt động dịch vụ này ngày càng phát triển đa dạng. Bảo
hiểm là hoạt động tài chính chứ không phải dịch vụ sản xuất và càng không
phải là một hoạt động sản xuất. Vai trò của bảo hiểm được thể hiện ở những
mặt chủ yếu sau:
Bồi thường tổn thất: Bồi thường thiệt hại là một lợi ích quan trọng đối
với xã hội. Bồi thường cho phép cá nhân và hộ gia đình khôi phục tình trạng

tài chính của mình sau khi tổn thất xảy ra. Qua đó, họ có thể duy trì được sự
ổn định kinh tế do một phần hoặc toàn bộ tổn thất đã được phục hồi, như vậy
họ không cần đến sự trợ giúp của các quỹ phúc lợi xã hội, hay trợ cấp của nhà
nước, cũng như không cần đến sự hỗ trợ tài chính của họ hàng, bạn bè.
Việc bồi thường được thực hiện đối với các công ty cũng đem lại lợi ích
lớn cho xã hội. Sau khi tổn thất xảy ra, bồi thường cho phép các công ty tiếp


16
tục hoạt động kinh doanh của mình, công nhân tiếp tục có việc làm, các nhà
cung cấp tiếp tục có hợp đồng và người tiêu dùng vẫn nhận được các hàng
hoá và dịch vụ. Nhà nước cũng được lợi do các khoản thuế vẫn thu được.
Tóm lại, việc bồi thường thiệt hại đóng góp rất nhiều cho sự ổn định của các
hộ gia đình và các hãng sản xuất kinh doanh; và vì vậy, nó là lợi ích kinh tế
xã hội quan trọng nhất của bảo hiểm.
Giảm bớt lo âu và sợ hãi: Điều này đúng cả trước và sau khi tổn thất.
Ví dụ, khi những người trụ cột trong gia đình sở hữu các hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ đủ lớn, họ sẽ ít lo lắng về mặt tài chính của những người phụ thuộc
họ trong trường hợp họ chết sớm. Những người tham gia bảo hiểm tai nạn dài
hạn sẽ không phải lo lắng nhiều đến thu nhập của mình nếu không may bị ốm
nặng hay gặp tai nạn bất ngờ và những người chủ tài sản một khi đã tham gia
bảo hiểm tài sản của mình thì cũng sẽ yên tâm rằng họ sẽ được bồi thường
nếu gặp tổn thất.
Tạo lập quỹ đầu tư: Các công ty bảo hiểm là những nhà đầu tư cung
cấp nguồn vốn dài hạn cho Chính phủ và các ngành công nghiệp thông qua
huy động quỹ từ các cổ đông và người tham gia bảo hiểm. Đầu tư là một lĩnh
vực mà các công ty bảo hiểm nhân thọ rất quan tâm, điều này có được nhờ
tính chất hoạt động kinh doanh của họ. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có
hiệu lực nhiều năm, trong thời gian này người tham gia bảo hiểm đóng những
khoản phí đều đặn, sau khi trích lập quỹ dự trữ để trả cho các hợp đồng đáo

hạn và những tổn thất, hàng năm các công ty bảo hiểm nhân thọ luôn có
những khoản tiền nhàn rỗi rất lớn. Với các khoản tiền nhàn rỗi và vốn tự có
của mình, trước kia họ thường đầu tư vào trái phiếu Chính phủ và chứng
khoán có lãi suất cố định. Ngày nay, để bắt kịp với tốc độ lạm phát và chi phí
gia tăng, các công ty bảo hiểm đã mở rộng các hình thức đầu tư của mình: đầu
tư vào cổ phiếu thường, đầu tư xây dựng và kinh doanh bất động sản, cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, bảo lãnh phát hành chứng khoán, bảo trợ cho


17
các dự án phát triển sản phẩm và công nghệ mới. Nhờ những khoản đầu tư
của các công ty bảo hiểm, nguồn vốn của xã hội được gia tăng đáng kể, điều
này giúp cho các doanh nghiệp có thể đa dạng khoản vay và giảm chi phí vốn,
qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất: Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất là một
lợi ích quan trọng khác của bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm rất tích cực tham
gia vào các chương trình đề phòng và hạn chế tổn thất. Họ cũng sử dụng một
lượng lớn cán bộ làm công tác ngăn chặn tổn thất bao gồm các kỹ sư an toàn,
chuyên gia trong phòng cháy, tai nạn nghề nghiệp, chăm sóc y tế và trách
nhiệm sản phẩm. Một số hoạt động ngăn ngừa tổn thất quan trọng mà các
công ty bảo hiểm thường tham gia như: an toàn cho đường cao tốc giảm tai
nạn chết người, ngăn ngừa hoả hoạn, giảm các bệnh nghề nghiệp, chống mất
cắp ô tô, ngăn ngừa và bảo vệ những tổn thất do phá hoại, ngăn ngừa việc lưu
hành những sản phẩm khuyết tật, phòng chống nổ nồi hơi…Các hoạt động đề
phòng, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu cả tổn thất trực tiếp và gián tiếp hay
hậu quả của chúng mang lại lợi ích cho toàn xã hội.
Đẩy mạnh tín dụng: Bảo hiểm là một công cụ hữu hiệu của các tổ chức
tín dụng trong việc hạn chế rủi ro, thu hồi các khoản nợ thông qua việc yêu
cầu người đi vay tham gia bảo hiểm tài sản thế chấp hoặc tham gia bảo hiểm
nhân thọ bản thân họ với giá trị hợp đồng tương đương với khoản vay, với

điều kiện người hưởng lợi là các tổ chức cho vay. Trong trường hợp tài sản
thế chấp bị phá huỷ hoặc người đi vay chết hoặc bị thương tật không có khả
năng thanh toán nợ thì các tổ chức tín dụng vẫn có thể thu hồi nợ trên cơ sở
bồi thường của các công ty bảo hiểm. Trong thực tế, các ngân hàng cung cấp
tín dụng để các công ty hay hộ gia đình thực hiện mua tài sản (dây chuyền
công nghệ, máy móc thiết bị, xe hơi…) trả góp thì họ thường bắt buộc tham
gia bảo hiểm vật chất cho các tài sản này. Như vậy bảo hiểm có tác dụng
thúc đẩy tín dụng cá nhân và doanh nghiệp trong phạm vi toàn xã hội.


18
II. NHỮNG CAM KẾT VỀ DỊCH VỤ BẢO HIỂM TRONG WTO
1. Những cam kết về thƣơng mại dịch vụ của Việt Nam trong WTO
Sau hơn 11 năm đàm phán kể từ khi Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); ngày 7/11/2006, bộ văn kiện gia
nhập WTO của Việt Nam đã được đại hội đồng WTO thông qua, bao gồm các
tài liệu sau:
- Nghị định thư về việc gia nhập WTO của Việt Nam
- Báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO
- Biểu cam kết về thương mại hàng hóa (bao gồm cam kết về thuế
nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và trợ cấp nông nghiệp)
- Biểu cam kết về thương mại dịch vụ
1.1. Giới thiệu về biểu cam kết thƣơng mại dịch vụ
1.1.1. Cấu trúc
Biểu cam kết dịch vụ gồm 4 cột: i) cột mô tả ngành/phân ngành; ii) cột
hạn chế về tiếp cận thị trường; iii) cột hạn chế về đối xử quốc gia và iv) cột
cam kết bổ sung [11].
Cột mô tả ngành/phân ngành thể hiện tên dịch vụ cụ thể được đưa vào
cam kết. Theo danh mục phân loại ngành dịch vụ của Ban Thư ký WTO, có
tất cả 11 ngành và 155 phân ngành dịch vụ được các Thành viên WTO tiến

hành đàm phán.
Cột hạn chế về tiếp cận thị trường liệt kê các biện pháp duy trì đối với
các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. GATS quy định 6 loại biện pháp hạn
chế bao gồm: 1) hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ; 2) hạn chế về
tổng giá trị của các giao dịch hoặc tài sản; 3) hạn chế về tổng số hoạt động
dịch vụ hoặc số lượng dịch vụ cung cấp; 4) hạn chế về số lượng lao động; 5)
hạn chế hình thức thành lập doanh nghiệp; 6) hạn chế góp vốn của nước
ngoài. Biểu cam kết nào liệt kê càng nhiều biện pháp nói trên thì mức độ mở
cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng hẹp.


19
Cột hạn chế về đối xử quốc gia liệt kê các biện pháp nhằm duy trì sự
phân biệt đối xử giữa nhà cung cấp dịch vụ trong nước với nhà cung cấp dịch
vụ nước ngoài. Biểu cam kết nào liệt kê càng nhiều biện pháp trong cột hạn
chế về đối xử quốc gia thì sự phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ
trong nước với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài càng lớn.
Cột cam kết bổ sung liệt kê các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động
cung cấp và tiêu dùng dịch vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp cận thị
trường hay hạn chế về đối xử quốc gia. Cột này mô tả những quy định liên
quan đến trình độ tiêu chuẩn kỹ thuật, các yêu cầu hoặc thủ tục về việc cấp
phép…
1.1.2. Các phƣơng thức cung cấp dịch vụ
GATS quy định 4 phương thức cung cấp dịch vụ, bao gồm: 1) cung cấp
qua biên giới; 2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ; 3) hiện diện thương mại; 4) hiện
diện thể nhân [11].
Phương thức cung cấp qua biên giới (gọi tắt là phương thức 1) là
phương thức theo đó dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một thành viên
này sang lãnh thổ của một thành viên khác, tức là không có sự di chuyển của
người cung cấp và người tiêu thụ dịch vụ sang lãnh thổ của nhau.

Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (gọi tắt là phương thức 2) là
phương thức theo đó người tiêu dùng của một thành viên di chuyển sang lãnh
thổ của một thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ.
Phương thức hiện diện thương mại (gọi tắt là phương thức 3) là phương
thức theo đó nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên thiết lập các hình thức
hiện diện như công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh, chi
nhánh…trên lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ.
Phương thức hiện diện thể nhân (gọi tắt là phương thức 4) là phương


20
thức theo đó thể nhân cung cấp dịch vụ của một thành viên di chuyển sang
lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ.
Cam kết được đưa ra cho từng phương thức từ 1 đến 4 trong hai cột hạn
chế về tiếp cận thị trường và hạn chế về đối xử quốc gia.
1.1.3. Mức độ cam kết
Do các điều kiện được sử dụng trong “Biểu cam kết” của mỗi thành
viên sẽ tạo ra các cam kết có tính ràng buộc pháp lý nên cần chính xác trong
việc thể hiện có hay không có các hạn chế về tiếp cận thị trường và về đối xử
quốc gia, phụ thuộc vào mức độ hạn chế mà mỗi thành viên có thể đưa ra,
thường có bốn trường hợp sau:

 Cam kết toàn bộ
Các thành viên không đưa ra bất cứ hạn chế nào về tiếp cận thị trường
hay đối xử quốc gia đối với một hoặc nhiều dịch vụ hay đối với một hoặc
nhiều phương thức cung cấp dịch vụ. Khi đó, các thành viên sẽ thể hiện trong
biểu cam kết của mình cụm từ “Không hạn chế” vào các cột và phương thức
cung cấp dịch vụ thích hợp. Tuy vậy, các hạn chế được liệt kê trong phần cam
kết chung vẫn được áp dụng.
 Cam kết kèm theo những hạn chế

Các thành viên chấp nhận mở cửa thị trường cho một hoặc nhiều ngành
dịch vụ nhưng liệt kê tại các cột tương ứng của biểu cam kết các biện pháp hạn
chế áp dụng cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Khi đó, các thành viên sẽ thể
hiện trong biểu cam kết các cụm từ như “Không hạn chế, ngoại trừ ….” hoặc
“Chưa cam kết, ngoại trừ….”. Nếu chỉ liệt kê biện pháp mà không kèm theo một
trong hai cụm từ trên thì đương nhiên hiểu là “Không hạn chế, ngoại trừ …”.
 Không cam kết
Các thành viên có thể duy trì khả năng đưa ra mọi biện pháp hạn chế
tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia đối với một hoặc nhiều phương thức


21
cung cấp dịch vụ cụ thể. Khi đó, các thành viên sẽ thể hiện trong biểu cam kết
cụm từ “Chưa cam kết”. Trong trường hợp này, các cam kết liệt kê trong phần
cam kết chung vẫn được áp dụng.
 Không cam kết vì không có tính khả thi kỹ thuật
Trong một số trường hợp, một phương thức cung cấp dịch vụ có thể là
không khả thi về mặt kỹ thuật. Ví dụ, dịch vụ xây nhà cung cấp qua biên giới.
Khi đó, các thành viên sẽ thể hiện cụm từ “Chưa cam kết” nhưng ghi chú là
“do không khả thi về mặt kỹ thuật”.
1.2. Nội dung cam kết về dịch vụ tài chính trong WTO
Về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, trong thỏa thuận WTO, Việt
Nam cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, 155 phân ngành.
Về mức độ cam kết, trước hết, công ty nước ngoài không được hiện
diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được Việt Nam
cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như thế là không nhiều.
Ngoài ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc
tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt
Nam. Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ
phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở

cửa thị trường ngành đó.
1.2.1. Dịch vụ bảo hiểm
Về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên, Việt Nam đồng ý
cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi
nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày bắt đầu thực hiện cam kết. Tác giả sẽ đi sâu
phân tích cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong các phần tiếp theo của khoá luận.
1.2.2. Dịch vụ ngân hàng
Về cơ bản, Việt Nam không cam kết đối với hình thức cung cấp dịch
vụ qua biên giới, trừ dịch vụ cung cấp thông tin tài chính và các dịch vụ tư
vấn phụ trợ; không hạn chế tiêu dùng ở nước ngoài; chỉ các ngân hàng nước
ngoài có tổng tài sản lớn hơn 10 tỷ USD mới được thành lập ngân hàng 100%


22
vốn nước ngoài (từ 1/4/2007), trên 20 tỷ USD mới được thành lập chi nhánh.
Ngân hàng nước ngoài được phép phát hành thẻ tín dụng. Chi nhánh của ngân
hàng nước ngoài được phép huy động tiền đồng tăng dần theo thời gian (từ
1/1/2011 sẽ được phép như ngân hàng trong nước), nhưng không được mở
ATM và các điểm giao dịch ngoài trụ sở. Bên nước ngoài được phép mua tối
đa 30% cổ phần của ngân hàng trong nước [27].
1.2.3. Dịch vụ chứng khoán
Việt Nam không cam kết đối với hình thức cung cấp dịch vụ qua biên
giới, trừ dịch vụ cung cấp thông tin tài chính và các dịch vụ tư vấn phụ trợ;
không hạn chế việc tiêu dùng dùng dịch vụ ở nước ngoài; cho phép thành lập
văn phòng đại diện và liên doanh đến 49% vốn đầu tư nước ngoài từ thời
điểm gia nhập; cho phép thành lập công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán
100% vốn đầu tư nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập và cho phép thành
lập chi nhánh của công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài sau 5
năm đối với một số loại hình dịch vụ như: quản lý tài sản, thanh toán, tư vấn
liên quan đến chứng khoán và cung cấp, trao đổi thông tin tài chính.

2. Cam kết về dịch vụ bảo hiểm trong WTO
2.1. Nội dung cam kết
Theo cam kết WTO, Việt Nam cam kết mở cửa cho các dịch vụ sau:
 Bảo hiểm gốc:
- Bảo hiểm nhân thọ, trừ bảo hiểm y tế
- Bảo hiểm phi nhân thọ
 Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm
 Trung gian bảo hiểm (như môi giới bảo hiểm và đại lý bảo hiểm)
 Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (như tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá
rủi ro và giải quyết bồi thường).
Lộ trình cam kết


23
Theo “Biểu cam kết về thương mại dịch vụ” trong “Bộ văn kiện gia
nhập WTO” của Việt Nam, các cam kết về dịch vụ bảo hiểm được quy định
cụ thể như sau:
2.2.1 Cam kết mở cửa thị trƣờng
 Đối với phương thức cung cấp qua biên giới: Việt Nam cho phép các
công ty bảo hiểm nước ngoài được cung cấp không hạn chế các dịch vụ
bảo hiểm sau:
- Dịch vụ bảo hiểm cung cấp cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam;
- Dịch vụ tái bảo hiểm;
- Dịch vụ bảo hiểm vận tải quốc tế, bao gồm bảo hiểm cho các rủi ro
liên quan tới:
 Vận tải biển quốc tế và vận tải hàng không thương mại quốc tế,
với phạm vi bảo hiểm bao gồm bất kỳ hoặc toàn bộ các khoản
mục sau: hàng hoá vận chuyển, phương tiện vận chuyển hàng
hoá và bất kỳ trách nhiệm nào phát sinh từ đó;

 Hàng hoá đang vận chuyển quá cảnh quốc tế
- Dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm;
- Dịch vụ tư vấn, dịch vụ tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi
thường.
 Đối với phương thức tiêu dùng ở nước ngoài: Việt Nam cam kết không
hạn chế
 Đối với phương thức cung cấp hiện diện thương mại: Việt Nam cam
kết không hạn chế, ngoại trừ:
- Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài không được
kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, bao gồm bảo hiểm trách
nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây
dựng và lắp đặt, bảo hiểm các công trình dầu khí và các công trình


24
dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Hạn chế
này sẽ được bãi bỏ vào ngày 1/1/2008.
- Sau 5 năm kể từ khi gia nhập, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ, căn cứ vào
các quy định quản lý thận trọng.
 Đối với phương thức cung cấp hiện diện thể nhân: chưa có cam kết trừ
các cam kết chung về nhập cảnh và lưu trú tạm thời.
2.2.2 Cam kết đối xử quốc gia
 Đối với phương thức cung cấp qua biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài
và hiện diện thương mại: mở cửa không hạn chế
 Đối với phương thức cung cấp hiện diện thể nhân: chưa cam kết ngoài
các cam kết chung.
2.2.3 Cam kết bổ sung
Là các biện pháp ảnh hưởng đến hoạt động cung cấp và tiêu dùng dịch
vụ nhưng không thuộc về hạn chế tiếp cận thị trường hay hạn chế về đối xử

quốc gia, ví dụ những quy định liên quan đến trình độ, tiêu chuẩn kỹ thuật,
các yêu cầu hoặc thủ tục về việc cấp phép…Tuy nhiên trong cam kết về dịch
vụ bảo hiểm không có cam kết bổ sung.
2.3. Các phƣơng thức cam kết
2.3.1. Về cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, dịch vụ
đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc biệt là được
phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số


25
loại hình bảo hiểm phi nhân thọ và giới hạn trong nhóm đối tượng người
nước ngoài và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì chúng ta hy vọng rằng với sự
lớn mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt
uy tín và năng lực tài chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều,
một phần do tâm lý khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn doanh nghiệp
bảo hiểm có trụ sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông tin về rủi
ro tốt nhất do đó có khả năng bảo hiểm tốt nhất, mặt khác các doanh nghiệp
bảo hiểm nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung
cấp dịch vụ tốt hơn. Hơn nữa, theo xu thế chung và triển vọng phát triển của
ngành bảo hiểm Việt Nam, tỷ trọng phí bảo hiểm phi nhân thọ trong tổng
doanh thu phí bảo hiểm của cả thị trường sẽ giảm dần so với nhân thọ, do đó
những tác động của cam kết này đối với ngành bảo hiểm sẽ giảm dần theo
thời gian.
2.3.2. Về các cam kết hiện diện thương mại

Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh
doanh dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường
bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện
đang hoạt động trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị trường.
Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước
ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng
thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên
phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo
đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam.
Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia
thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách

×