Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Cạnh tranh giữa hàng dệt may việt nam và trung quốc cơ hội và thách thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 90 trang )


TRNG I HC NGOI THNG H NI
KHOA KINH T V KINH DOANH QUC T









KHO LUN TT NGHIP
TấN TI:
Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và
Trung Quốc. Cơ hội và thách thức



H v tờn sinh viờn : Nguyn Hng Nhung
Lp : Nga
Khoỏ : K42 G
Giỏo viờn hng dn : TS.T Thỳy Anh






H ni, thỏng 11/2007




MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG I - CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC DỆT MAY 4
I - Khái niệm cạnh tranh 4
II - Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may 5
1 - Quá trình phát triển của ngành dệt may 6
1.1 - Quá trình phát triển và hình thành của ngành dệt may 6
1.2 - Thương mại dệt may trên thế giới 6
1.3 - Một số thị trường nhập khẩu chính 11
2 - Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may 17
2.1 - Đặc điểm mới của môi trường cạnh tranh thế giới 17
2.2 - Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng dệt may 19

CHƢƠNG II - CẠNH TRANH GIỮA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC 25
I – Ngành dệt may Việt Nam 25
1 - Vị trí và vai trò của ngành dệt may với nền kinh tế quốc dân 25
2 - Thực trạng ngành dệt may Việt Nam 27
2.1 - Hoạt động sản xuất hàng dệt may xuất khẩu 27
3 - Phân tích thực trạng về hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam 37
3.1 - Kim ngạch xuất khẩu 37
3.2 - Thị trường xuất khẩu chính 39
4 - Phân tích ưu và nhược điểm của ngành dệt may Việt Nam 47
4.1 - Ưu điểm 47
4.2 – Nhược điểm 48

II – Ngành dệt may Trung Quốc 49
1 - Một số nhận định về ngành dệt may Trung Quốc kể từ khi nước này trở

thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) 49
2 - Thực trạng ngành dệt may Trung Quốc 53
2.1 - Tình hình sản xuất của ngành dệt 53
2.2 - Tình hình xuất khẩu ngành dệt may 53
2.3 - Tình hình điều chỉnh chính sách thuế xuất khẩu 58


III – Tƣơng quan về khả năng cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung
Quốc 59
1 – Những điểm tương đồng giữa Việt Nam và Trung Quốc 60
2 – Những điểm khác biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quá trình phát
triển ngành dệt may 61
2.1 - Về chất lượng sản phẩm và kiểu cách mẫu mốt. 61
2.2 - Về nguyên phụ liệu 62
2.3 - Về giá các sản phẩm dệt may. 63
2.4 - Về giá lao động. 64

CHƢƠNG III – CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC. GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SO VỚI HÀNG DỆT MAY
TRUNG QUỐC. 66
I – Cơ hội và thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam kể từ khi Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thƣờng mại thế giới
(WTO) 66
1 – Cơ hội 67
2 – Thách thức 69
II - Định hƣớng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 69
1 - Mục tiêu chiến lược 69
2 - Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 70
III - Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
so với hàng dệt may Trung Quốc 72

1 - Về phía Nhà nước và Chính phủ 72
2 - Về phía Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) 74
3 - Về phía doanh nghiệp 77
KẾT LUẬN 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
1

LỜI MỞ ĐẦU

Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển của
Việt Nam. Tháng 11/2006, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Điều này đồng nghĩa với việc sẽ có
rất nhiều cơ hội cũng như những thách thức đặt ra đối với Việt Nam. Tận
dụng các cơ hội để hạn chế những thách thức là một vấn đề không hề đơn
giản đòi hỏi những nỗ lực hết mình của các Bộ ngành và các doanh nghiệp
Việt Nam.
Như ta đã biết, nền kinh tế Việt Nam từ trước tới nay phát triển chủ
yếu dựa vào những nguồn lực sẵn có của đất nước như: tài nguyên thiên
nhiên, nguồn lao động Do đó, bên cạnh những chính sách tập trung phát
triển các ngành công nghiệp nặng (cơ khí chế tạo, điện tử ), Đảng và Chính
phủ cũng không hề xem nhẹ các ngành công nghiệp truyền thống như: nông
nghiệp, dầu khí, dệt may Thực tế, đây chính là những ngành hiện đang
mang lại phần lớn ngoại tệ cho đất nước. Trong đó, dệt may là ngành có bước
phát triển đáng kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Năm 2006, xuất khẩu dệt
may chiếm 11,54% tổng GDP của đất nước. Tới tháng 9/2007, dệt may đã
“vượt mặt” dầu khí trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong cả
nước. Không chỉ tạo ra nhiều lợi nhuận cho nền kinh tế, ngành dệt may còn

góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho một số
lượng lớn lao động cho xã hội. Đây chính là nhân tố quan trọng khiến dệt may
có được sự quan tâm chú ý đặc biệt.
Tuy nhiên, cũng như nhiều ngành khác, có rất nhiều vấn đề đặt ra đối
với ngành dệt may Việt Nam, nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
2
chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Một nguy cơ lớn đối với
ngành dệt may Việt Nam đó là chúng ta phải cạnh tranh với dệt may các
nước không chỉ tại các thị trường nước ngoài mà cả ở thị trường nội địa. Đối
thủ cạnh tranh chính của Việt Nam trong ngành dệt may có thể kể tới “người
hàng xóm khổng lồ” - Trung Quốc. Kể từ khi gia nhập WTO vào năm 2002,
Trung Quốc đã trở thành đối thủ đáng gờm đối với các quốc gia trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may. Với những ưu thế vế lực lượng
lao động, nguồn nguyên phụ liệu sẵn có lại được sự quan tâm đầy đủ của
Chính phủ, ngành công nghiệp dệt may của Trung Quốc đang gia tăng mạnh,
đây không chỉ là nỗi lo ngại đối với công nghiệp may mặc của nhiều quốc gia
trong khu vực mà còn là thách thức đối với ngành công nghiệp này trên toàn
cầu. Do Việt Nam và Trung Quốc có những nét tương đồng về chính trị, xã
hội, văn hoá nên sự phát triển của ngành dệt may Trung Quốc thực sự đã tác
động rất lớn đối với ngành này của Việt Nam ở cả mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Vậy liệu Việt Nam có thể vươn lên cạnh tranh với Trung Quốc trong lĩnh vực
dệt may hay sẽ bị quốc gia này qua mặt? Đây là câu hỏi cần có sự hợp tác hỗ
trợ giải quyết của các Bộ ngành liên quan cũng như của các doanh nghiệp dệt
may trong nước.
Với mục đích góp một phần nhỏ vào việc phân tích thực trạng ngành
dệt may Việt Nam cũng như Trung Quốc, đánh giá những thuận lợi khó khăn
của chúng ta khi đối mặt với Trung Quốc, từ đó đưa ra một số giải pháp nâng

cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam so với Trung Quốc em
xin lựa chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp là: “Cạnh tranh giữa hàng dệt may
Việt Nam và Trung Quốc. Cơ hội và thách thức”
Khoá luận tốt nghiệp gồm ba chương:
- Chương I - Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
3
- Chương II - Cạnh tranh giữa hàng dệt may của Việt Nam và Trung
Quốc.
- Chương III – Cơ hội và thách thức. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh
tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Do lượng kiến thức cũng như kinh nghiệm vẫn còn hạn chế nên bài viết
này không tránh khỏi thiếu sót mong nhận được lời nhận xét và sự chỉ bảo của
các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương cũng như những người quan
tâm tới đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại
Thương đã tận tình dạy dỗ chỉ bảo em trong suốt quá trình học tập tại Trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Cô giáo TS. Từ Thuý Anh đã tận tình
hướng dẫn chỉ bảo để em có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.

Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Nguyễn Hồng Nhung









Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
5

CHƢƠNG I
Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may

I - Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường và nó
chỉ xuất hiện với những tiền đề kinh tế và pháp lý cụ thể. Nền kinh tế có năng
lực cạnh tranh quốc tế cao sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tạo thêm nhiều
việc làm, thu nhập, trình độ khoa học công nghệ nâng cao và đời sống nhân
dân được cải thiện.
Năng lực cạnh tranh diễn ra đồng thời ở ba cấp độ: năng lực cạnh tranh
quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của
sản phẩm, dịch vụ. Ba cấp độ này có liên quan với nhau: năng lực cạnh tranh
quốc gia cao khi có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, ngược lại
để doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh
tế phải thuận lợi, các chính sách vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền
kinh tế xã hội phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có
hiệu quả, chuyên nghiệp. Và một sản phẩm, dịch vụ có năng lực cạnh tranh
cao sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất ra
sản phẩm, dịch vụ đó.
Có thể nói, cạnh tranh đã dần trở thành một điều kiện để tồn tại và phát
triển của các nền kinh tế nói chung, của từng doanh nghiệp và từng ngành
hàng nói riêng. Đối với thị trường nội địa, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp

là động lực để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trên thị trường quốc tế, cạnh
tranh giữa các quốc gia về một chủng loại hàng hoá nào đó là việc không ai
có thể tránh được. Mỗi quốc gia đều phải ganh đua để có được lợi thế so với
các quốc gia khác.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
6
Trong thời điểm hiện tại, khi mà phần lớn các rào cản thương mại đã
được xoá bỏ, tự do hoá thương mại là xu hướng chung của thế giới thì cạnh
tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp và từng sản phẩm dịch vụ ngày
càng gay gắt hơn bao giờ hết. Yếu tố quyết định sức mạnh kinh tế của mỗi
nước tham gia thị trường thế giới chính là lợi thế cạnh tranh quốc gia. Các
quốc gia, các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao sẽ chiến thắng và chi
phối nền kinh tế thế giới, những quốc gia có năng lực cạnh tranh yếu hơn nếu
không cải thiện sẽ dễ bị loại bỏ. Do đó, Chính phủ các nước phải đưa ra các
chiến lược phát triển cho từng ngành kinh tế để tạo ra, duy trì và phát triển lợi
thế cạnh tranh quốc gia phù hợp với những đặc điểm riêng, trình độ phát triển
của thị trường và trình độ nền kinh tế của nước mình. Lợi thế cạnh tranh quốc
gia của mỗi nước là kết quả tổng hợp của lợi thế cạnh tranh của những ngành
kinh tế chủ lực cấu thành nền kinh tế của đất nước đó. Các ngành kinh tế đó
có quan hệ với nhau và với môi trường kinh tế chung của quốc gia. Do đó, khi
xác định chiến lược phát triển lợi thế cạnh tranh của từng ngành kinh tế cần
chú ý:
- Những giải pháp cần thiết để tăng lợi thế cạnh tranh của mỗi ngành
hàng thay đổi theo giai đoạn phát triển kinh tế, khiến cơ hội phát triển
của ngành hàng đó cũng thay đổi theo.
- Những nhân tố liên ngành có thể giúp cho một quốc gia trở nên cạnh
tranh hơn trên trường quốc tế.
Michael Porter, Giám đốc Viện chiến lược và Cạnh tranh của Trường

đào tạo Kinh doanh Harvard, đã nhận xét: “Sự thịnh vượng của một quốc gia
là cái được tạo ra chứ không phải là cái được thừa hưởng”. Trong thế giới
cạnh tranh, chỉ có liên tục phát triển và đổi mới lợi thế cạnh tranh mới có thể
tạo ra sự thịnh vượng.

Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
7
II - Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may
1 - Quá trình phát triển của ngành dệt may
1.1 - Quá trình hình thành và phát triển của ngành dệt may
Dệt may là một trong những hoạt động có từ xưa nhất của con người.
Sau thời kỳ ăn lông ở lỗ, lấy da thú che thân, từ khi biết canh tác, loài người
đã biết bắt chước thiên nhiên, đan lát các thứ cỏ cây làm thành nguyên liệu
như sợi lanh, sợi len, sợi bông, lụa (tơ tằm) Đây cũng là nguyên liệu chủ
yếu được sử dụng trong ngành dệt may trong suốt một thời gian dài cho dù
các kỹ thuật may dệt đã mau chóng đạt mức tinh vi, có khi thành cả nghệ
thuật. Điều này đã khiến cho sản xuất bị giới hạn, vải vóc vẫn là sản phẩm
quý, những y phục gấm vóc dành cho giai cấp quý tộc, thượng lưu, còn đại đa
số dân chúng chỉ mặc vải thô. Tới giữa thế kỷ 18, cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh với sự ra đời của các máy dệt cơ khí hoá chạy bằng hơi nước đã
đưa ngành dệt ra khỏi sản xuất thủ công trở thành một ngành công nghiệp
thực sự. Nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người đã nghiên cứu
sáng chế ra nhiều loại nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may như: sợi nhân
tạo, sợi tổng hợp. Điều này đã tạo ra một cuộc cách mạng trong may mặc,
biến thời trang trở thành một hiện tượng quần chúng ở nhiều quốc gia. Ngành
dệt may cũng từ đó phát triển ngày càng nhanh cùng với đà tiến triển của kinh
tế và thương mại. Hiện nay, ngành dệt may có liên quan chặt chẽ tới sự phát
triển của các ngành công nghiệp khác. Công nghiệp dệt may phát triển sẽ là

động lực để các ngành công nghiệp khác phát triển theo.

1.2 - Thương mại dệt may trên thế giới
Đời sống kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu ăn mặc không
chỉ dừng lại ở chỗ chỉ để phục vụ cho việc bảo vệ cơ thể, sức khoẻ con người
mà còn để làm đẹp thêm cho cuộc sống. Hàng dệt may dần dần đã trở thành
một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào mậu dịch quốc tế và là một
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
8
trong những yếu tố quan trọng cần thiết để tăng tính cạnh tranh và đảm bảo
giao thương sản phẩm trên thị trường. Vào 1/1/ 2005 khi Hiệp định dệt may
ATC (Agreement on Textiles and Clothing) hết hiệu lực, các nền kinh tế phát
triển như Hoa Kỳ, EU đã dỡ bỏ những hạn ngạch còn lại đối với hàng dệt may
nhập từ các nước thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này
đã mang lại nhiều thuận lợi cho các nước có đầy đủ năng lực cạnh tranh để
chiếm thêm thị phần mà trước đó đã là của các nước khác trong lĩnh vực may
mặc. Các nước có tiềm năng sản xuất, xuất khẩu với trình độ công nghệ cao
lại được Chính phủ quan tâm đầy đủ thì sẽ tận dụng được cơ hội này để phát
triển. Và Trung Quốc hay Ấn Độ , những nước sản xuất hàng dệt may giá rẻ,
đang có cơ hội trở thành nhà xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, vượt
trội mọi quốc gia khác. Trong điều kiện đó, người tiêu dùng tại các nước có
nền kinh tế phát triển sẽ hoàn toàn được lợi khi trên thị trường có nhiều sản
phẩm với đa dạng chủng loại và giá thì rẻ hơn nhiều.
Hiện nay có rất nhiều quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may đi
khắp nơi trên thế giới và phần lớn trong số đó phụ thuộc vào dệt may xét trên
cả phương diện giải quyết việc làm và nguồn thu ngoại tệ. Châu Á đang là
khu vực dẫn đầu về xuất khẩu hàng dệt may mà chủ yếu là từ Trung Quốc, Ấn
Độ, Pakistan, Bangladesh, Việt Nam , kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may

chiếm từ 20% đến 70% tổng xuất khẩu của những nước này và thu hút hàng
triệu lao động. Thị trường nhập khẩu chính của các nước sản xuất hàng may
mặc là EU, Hoa Kỳ (Ấn Độ là 94%, Bangladesh là 95%, Trung Quốc là 50%,
Việt Nam là 68%). Có thể nói, hạn ngạch dệt may chấm dứt, không chỉ các
nước chưa phải là thành viên WTO gặp nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh
mới mà ngay cả các nước xuất khẩu hàng dệt may là thành viên WTO có chi
phí sản xuất cao và những nước từng được hưởng quy chế đặc biệt khi tiếp
cận thị trường các nước giàu cũng sẽ bị thiệt hại bởi khó có thể cạnh tranh
được với hàng dệt may Trung Quốc cũng như Ấn Độ.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
9

Bảng 1:
Nhập khẩu hàng dệt may của các thị trƣờng Nhập khẩu chính năm 2006
Nước xuất khẩu
Hoa Kỳ
EU (25)
Nhật Bản
Canada
Thế giới (tỷ USD)
106,4
183,6
30,0
11,2
Tốc độ tăng trưởng (%)
Thế giới
4
6

6
9
Trung Quốc
15
10
8
22
Ấn §é
8
13
12
6
Pakistan
12
12
-7
9
Bangladesh
22
34
4
19
Campuchia
25
19
-
21
Indonesia
25
19

4
18
Philippines
9
26
-
5
ViÖt Nam
18
51
6
33
Th¸i Lan
1
11
-2
0
Srilanka
2
24
12
-
Đông á
-14
33
-5
-12
Các nước châu Phi cận
Sahara
-10

9
-
-
Ai Cập
32
14
-
-
Maroc
69
3
-
-
Tuynidi
-
0
29
-
NAFTA
-7
-
-
-
Mehico
-10
13
6
7
Canada
-7

6
-7
-
Hoa Kỳ
-
11
-3
-1
EU (25)
-3
1
-2
2
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
10
(Đông Á bao gồm Đài Loan, Hồng Kông, Macao, Hàn Quốc)
Nguồn: Tạp chí Thương Mại, số 28/2007
Tình hình thị trường dệt may thế giới trong năm 2006 và những tháng
đầu năm 2007 tương đối ổn định, không có biến động lớn. Xuất khẩu hàng dệt
may của Trung Quốc không bị ảnh hưởng nhiều từ việc áp đặt hạn ngạch của
Hoa Kỳ và EU trong khi một số nước đang phát triển tại châu Á như
Bangladesh, Campuchia, Việt Nam tiếp tục gia tăng tốc độ xuất khẩu cao. Tỷ
lệ hàng dệt may sản xuất bởi các nhà sản xuất Hoa Kỳ và EU giảm. Nhập
khẩu hàng dệt may của những thị trường Nhập khẩu lớn (Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản, Canada) đạt 331,2 tỷ USD trong năm 2006, tăng 5.5% so với năm 2005,
cao hơn chút ít so với tốc độ tăng trưởng của năm trước, bất chấp sự suy giảm
tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là thị trường có mức tăng trưởng nhập khẩu hàng dệt may thấp

nhất trong số 4 thị trường trên, chỉ đạt ở mức 4%. Tại thị trường Hoa Kỳ, thị
phần của các nhà xuất khẩu là các nước phát triển, các nước công nghiệp hoá
ở khu vực Đông Á, các nước Trung Mỹ và các nước khu vực Địa Trung Hải
tiếp tục giảm. Nhập khẩu của Hoa Kỳ từ khu vực NAFTA và CH Đôminica
và từ khu vực châu Phi cận Sahara giảm tương ứng 7% và 10%. Nhập khẩu từ
các nền kinh tế mới công nghiệp hoá ở Đông Á giảm 14%, và nhập khẩu từ
EU giảm 3%. Tuy nhiên, mức suy giảm nhập khẩu từ các nước này lại được
bù đắp bằng mức tăng nhập khẩu từ một số nước Châu Á (Ấn Độ tăng 8%,
Bangladesh - 22%, Pakistan - 12%, Việt Nam - 18% ). Do những thoả thuận
về kiểm soát nhập khẩu mà Hoa Kỳ và EU đã áp dụng với hàng dệt may
Trung Quốc từ cuối năm 2005 làm cho tổng nhập khẩu vào Hoa Kỳ, Canada
và EU từ Trung Quốc chỉ tăng khoảng 15% vào năm 2006, trong khi năm
2005 đã tăng tới 41%.
Trong cơ cấu thị trường Nhập khẩu của EU cũng có sự chuyển dịch
tương tự. Thị phần của các nước xuất khẩu truyền thống như Maroc,
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
11
Tuynidi giảm, trong khi thị phần của các nước sản xuất rẻ ở châu Á đều tăng
trưởng khá mạnh. Ngoại trừ Trung Quốc vẵn là nước Xuất khẩu lớn nhất sang
thị trường EU, xuất khẩu hàng dệt may của các nước châu Á khác cũng tăng
(Bangladesh tăng 34%, Việt Nam thậm chí còn tăng 51% về giá trị)
Nhật Bản cũng có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bằng với EU đạt 6%.
Ấn Độ (12%), Trung Quốc (8%), Srilanca (12%), Maroc (29%) là những
nước xuất khẩu một lượng lớn hàng dệt may vào Nhật Bản. Trong số các
nước này, Trung Quốc có nhiều thuận lợi hơn cả do gần gũi về mặt địa lý với
Nhật Bản và không phải chịu các hạn chế định lượng. Hơn 3/4 hàng dệt may
của Nhật Bản có xuất xứ từ Trung Quốc. Nếu tính riêng hàng may mặc, hàng
nhập khẩu từ Trung Quốc chiếm tới 80% thị phần của Nhật Bản.

Trong số các thị trường nhập khẩu dệt may chính trong năm 2006,
Canada là nước có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu cao nhất với mức tăng nhập
khẩu gần 9% và Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu dệt may
vào Canada cao nhất, đạt 33%. Tại thị trường này, mặc dù không bị tái áp
dụng hạn ngạch nhưng nhập khẩu từ Trung Quốc cũng chỉ tăng 22%.
Nhìn chung, nhu cầu hàng dệt may trên thế giới ngày càng tăng nhanh.
Hoa Kỳ và EU vẫn là hai thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất trên thế
giới mặc dù tốc độ tăng trưởng năm 2006 của 2 thị trường này không cao
(Hoa Kỳ đạt 106,4 tỷ USD, EU đạt 183,6 tỷ USD). Mặc dù, phải tới tháng
11/2006 khi đã là thành viên của WTO mới được dỡ bỏ các hạn ngạch nhưng
tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường
này trong năm 2006 đã tăng mạnh đạt mức cao, đặc biệt là tại thị trường EU ở
mức 51%. Trong khi đó, do ảnh hưởng bởi chế độ áp đặt hạn ngạch của Hoa
Kỳ và EU nên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc,
đối thủ chính của Việt Nam trong lĩnh vưc dệt may hiện nay tại hai thị trường
này giảm mạnh. Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tới các
nước và vùng lãnh thổ không áp đặt hạn ngạch đối với hàng dệt may của nước
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
12
này đều đạt mức kỷ lục. Có thể nói Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm để
cạnh tranh với người hàng xóm khổng lồ là Trung Quốc
1.3 - Một số thị trường nhập khẩu hàng dệt may chính
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là thị trường lớn và năng động nhất thế giới với nhu cầu tiêu
dùng khổng lồ. Với dân số hơn 298 triệu người (2005) đây là thị trường
khổng lồ của các nước xuất khẩu hàng may mặc. Mỗi năm Hoa Kỳ nhập khẩu
khoảng 70 tỷ USD hàng dệt may (trong đó khoảng 56,4 tỷ USD là hàng may
sẵn). Những nước xuất khẩu hàng dệt may với khối lượng lớn sang Hoa Kỳ

là: Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Indonesia, Việt Nam. Năm 2006, 1 năm sau
khi Hiệp định hàng dệt may (ATC) hết hiệu lực, cơ cấu thị trường nhập khẩu
hàng dệt may của Hoa Kỳ hầu như không thay đổi nhiều. Giá trị nhập khẩu
hàng dệt may vào Hoa Kỳ của các nhà xuất khẩu chính vẫn tăng.
Bảng 2: Cơ cấu thị trƣờng Nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ
Nước xuất khẩu
Nhập khẩu hàng dệt may của
Hoa Ky (triệu USD)
Tỷ trọng (%)
2005
2006
Thế giới
89.205
93.278
100
Trung Quốc
22.405
27.068
29,0
Ấn §é
4.616
5.031
5,4
Pakistan
2.904
3.250
3,5
Bangladesh
2.457
2.997

3,2
Campuchia
1.726
2.150
2,3
Indonesia
3.081
3.901
4,2
Philippin
1.920
2.085
2,2
ViÖt Nam
2.880
3.396
3,6
Th¸i Lan
2.124
2.124
2.3
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
13
Đông á (4)*
7.145
6.055
6,5
Các nước châu Phi cận

Sahara, trong đó:
1.486
1.316
1.4
Ai Cập
614
806
0,9
Maroc
60
102
0,1
Tuynidi
53
48
0,05
NAFTA, trong đó:
9.169
8.466
9,1
Mehico
7.246
6.376
6,8
Canada
2.844
2.587
2,8
EU (25)
8.635

8.242
8,8
(Đông Á bao gồm Đài Loan, Hồng Kông, Ma Cao, Hàn Quốc)
Nguồn: U.S. Department of Commerce, Office of Textiles and Apparel
Mặc dù bị áp dụng chế độ hạn chế và kiểm soát nhập khẩu của Hoa Kỳ
những Trung Quốc vẫn là nước xuất khẩu dệt may lớn nhất vào Hoa Kỳ đạt
27.068 triệu USD chiếm 29% tổng giá trị nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Trong khi
đó, các nước xuất khẩu lớn khác như Ấn Độ, Pakistan hay Bangladesh có giá
trị nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ cũng tăng nhưng chỉ đạt lần lượt là
5,4%; 3,5%; 3,2%. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường này trong
năm 2006 tuy có tăng nhưng hiện tại Việt Nam vẫn chỉ chiếm vị trí thứ 8
trong số các nước xuất khẩu nhiều dệt may nhất sang Hoa Kỳ.
Khi không còn bị bó buộc bởi hạn ngạch thì lượng hàng dệt may nhập
khẩu vào Hoa Kỳ từ các nước thành viên WTO sẽ tăng cao nhờ đó các công
ty nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ sẽ được tự do lựa chọn nguồn cung
cấp nào rẻ nhất, còn người tiêu dùng Mỹ sẽ dễ dàng tìm được những sản
phẩm dệt may phù hợp nhất về giá cả, chất lượng và kiểu dáng. Theo Bản
phúc trình của Uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ, chế độ hạn ngạch đã đặt thêm
gánh nặng khoảng 20% vào giá thành của các sản phẩm may mặc, tức là mỗi
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
14
năm người tiêu dùng Mỹ phải trả khoảng 14 tỷ USD khi mua những loại sản
phẩm này.
Hiện tại, giá sản phẩm dệt may tại thị trường Hoa Kỳ có xu hướng giảm
do nhiều nhà sản xuất tại nước này đã chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài để
giảm chi phí cũng như do tỷ trọng hàng may mặc giá rẻ nhập khẩu từ các
nước có chi phí sản xuất thấp gia tăng. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Mỹ vốn
đã quen sử dụng các sản phẩm có tên tuổi. Nhiều sản phẩm mang nhãn mác

riêng của nhà sản xuất cũng như của các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng (rất nhiều
sản phẩm trong số đó được gia công tại Việt Nam) luôn là sự lựa chọn của
dân cư Mỹ. Như vậy có thể nói thương hiệu là một vấn đề quan trọng của các
quốc gia trong đó có Việt Nam khi muốn nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa
Kỳ bên cạnh những tiêu chuẩn về xuất xứ hay chất lượng và giá cả

Liên minh Châu Âu (EU)
Liên minh châu Âu (EU) bao gồm 27 quốc gia với gần 4 triệu km
2

456 triệu dân có thu nhập cao, chiếm gần 37% thương mại thế giới là một
khối kinh tế hùng mạnh có lịch sử phát triển rất lâu đời. EU một thị trường
lớn, đa dạng có nhiều triển vọng cho hàng xuất khẩu của các quốc gia, nhưng
cũng là một thị trường “sang trọng” và “khó tính”. Đây là thị trường nhập
khẩu dệt may lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, kim ngạch nhập khẩu dệt may vào EU
hàng năm lên tới trên 60 tỷ USD chủ yếu là từ các nước: Đức (24%), Anh
(21%), Pháp (14%). Những nước xuất khẩu dệt may lớn nhất vào EU hầu hết
là các nước đang phát triển đến từ châu Á: Trung Quốc (21%), Thổ Nhĩ Kỳ
(17%), Ấn Độ (9%), Bangladesh (6%), Tuynidi (6%) và Maroc (6%). Hàng
hoá muốn có vị trí tại thị trường EU phải đáp ứng được các tiêu chuẩn quy
định về y tế, an toàn về môi trường. EU có quy định phải làm rõ các đặc trưng
của sản phẩm hoặc các công đoạn liên quan đến sản phẩm, phương pháp sản
xuất, và cũng có thể có cả các yêu cầu về tên riêng, biểu tượng, bao bì, nhãn
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
15
mác hoặc yêu cầu nhãn hiệu. Do đó, chinh phục thị trường dệt may EU là một
điều không dễ, nhất là khi Việt Nam phải cạnh tranh với Trung Quốc, một
cường quốc về các mặt hàng may mặc.



Nguồn: Văn phòng Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS)
Ngày 1/1/ 2005, Hiệp định về hàng dệt may (ATC) sẽ hết hiệu lực mở
ra một cơ hội mới cho tất cả các quốc gia sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may
đã là thành viên WTO trên thế giới. Giá trị nhập khẩu hàng dệt may vào EU
ngày một tăng. Cũng như tại thị trường Mỹ, Trung Quốc vẫn là nước có giá
trị nhập khẩu hàng may mặc vào EU lớn nhất, chiếm gần 29% thị phần dệt
may của EU. Thực tế, vào tháng 6/2005, EU đã áp dụng các biện pháp hạn
chế nhập khẩu đối với một số mã hàng dệt may của Trung Quốc nhưng dường
như vẫn không làm ảnh hưởng nhiều tới thị phần của nước này tại EU. Giá trị
nhập khẩu của Trung Quốc trong năm 2005 vẫn đạt gần gấp đôi so với nước

29%
15%
7%
6%
5%
4%
3%
3%
2%
2%
1%
23%

Trung Quốc

Thổ Nhĩ Kỳ


India

Rumania

Bangladesh
Tuynisia
Moroc
Pakistan
Hongkong
Indonesia
Việt Nam
Khác

Biểu đồ 1:
Cơ cấu nguồn nhập khẩu hàng dệt may vào thị trƣờng EU
năm 2005 theo giá trị
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
16
đứng vị trí thứ hai là Thổ Nhĩ Kỳ (21.133.685 nghìn euro so với 10.952.449
nghìn euro). Ấn Độ, đối thủ cạnh tranh chính của Trung Quốc trong lĩnh vực
này chỉ đứng vị trí thứ ba trong số những nước chiếm thị phần lớn nhất tại
EU, chiếm 7%, một con số quá nhỏ so với 29% của Trung Quốc. Trong khi
đó, Việt Nam còn thấp hơn nữa, chỉ chiếm 1,06% đạt 774.563 nghìn euro.
Nguyên nhân chủ yếu là do trong năm này hạn ngạch đối với dệt may của các
nước thành viên WTO đã được xoá bỏ còn Việt Nam chưa gia nhập tổ chức
này nên vẫn phải chịu hạn ngạch do đó lượng xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường EU vẫn bị hạn chế.


Nhật Bản
Nhật Bản là một nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Với dân số hơn
127 triệu người, GDP đạt xấp xỉ 550,5 triệu USD. Nhật Bản là thị trường tiêu
thụ hàng hoá lớn thứ hai trên thế giới sau Hoa Kỳ, đồng thời cũng là nước
nhập khẩu lớn với kim ngạch nhập khẩu hàng năm lên tới 300 - 400 tỷ USD.
Nhật Bản hiện là nước lớn nhất Châu Á và thứ ba thế giới (sau Hoa Kỳ và
EU) về nhập khẩu hàng may mặc phục vụ tiêu dùng nội địa. Trị giá hàng may
mặc nhập khẩu của Nhật Bản chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với thế giới.
Mỗi năm Nhật Bản nhập khoảng 20 tỷ USD hàng dệt may. Đây là thị trường
nhập khẩu hàng dệt may không hạn ngạch, mức độ tự do hoá cao nên cạnh
tranh rất khốc liệt. Đồng thời, Nhật Bản cũng là nơi đòi hỏi cao về chất lượng
sản phẩm cũng như quy tắc xuất xứ hàng hoá. Hàng hoá nhập khẩu vào Nhật
Bản phải đáp ứng các Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản (Japan Industrial
Standard - JIS). Hàng hoá được đóng dấu JIS sẽ rất dễ tiêu thụ tại Nhật Bản vì
người Nhật rất tin tưởng vào các tiêu chuẩn kiểm tra của JIS.
Hiện tại, Trung Quốc vẫn là quốc gia dẫn đầu về thị phần hàng dệt may
tại Nhật Bản. Năm 2006, trị giá nhập khẩu hàng dệt may của Trung Quốc tăng
so với năm 2005 chiếm 83,15% thị phần, khoảng 2.202.777 triệu Yên. Tiếp
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
17
theo là Italia chiếm 4,23% khoảng 111.983 triệu Yên. Tuy giá trị nhập khẩu
hàng dệt may của Italia có tăng so với năm 2006 nhưng thị phần của nước này
lại giảm, nhất là lượng nhập khẩu giảm 5,73%. Việt Nam đứng thứ ba trong
số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu đạt
73.873 triệu Yên (năm 2006) chiếm 2,79% thị phần. So với năm 2005 thì tốc
độ tăng trưởng của Việt Nam là khá cao, trị giá tăng 10,51%, lượng nhập
khẩu tăng 6,55%.



Nguồn: Văn phòng Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS)
Trong giai đoạn 1996 - 2000, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu dệt may
lớn nhất của Việt Nam, với mức tăng trưởng trung bình 21,2%. Tuy nhiên tới
giai đoạn 2000 - 2005, xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đã gặp khó
khăn do nền kinh tế Nhật rơi vào tình trạng khó khăn, sức mua phục hồi chậm
lại có sự cạnh tranh quyết liệt của Trung Quốc. Song theo dự báo của giới
phân tích, cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới đang có dấu hiệu chuyển
mình. Tỷ lệ thất nghiệp giảm, người tiêu dùng cùng giới doanh nghiệp ngày


87%
1%
1%
1%
1%
0%
0%
1%
1%
3%
4%

Trung Quốc
Italia
Việt Nam
Hàn Quốc
Thái Lan
Hoa Kỳ
Pháp


India
Indonesia
Anh
Khác

Biểu đồ 2:
Cơ cấu nguồn nhập khẩu hàng may mặc thị trƣờng Nhật
Bản theo giá trị năm 2006

Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
18
càng tin tưởng vào tương lai nên chi tiêu cũng như đầu tư nhiều hơn. Giai
đoạn thiểu phát có dấu hiệu chấm dứt. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam
phục hồi lượng xuất khẩu dệt may vào Nhật Bản


2 - Cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may
2.1 - Đặc điểm mới của môi trường cạnh tranh dệt may thế giới
Trong 5 năm qua thị trường nhập khẩu hàng dệt may trên thế giới đã
tăng trưởng với tốc độ bình quân 6% cho sản phẩm dệt và 8% cho sản phẩm
may mặc. Ước tính trong 5 năm tới, mức tăng trưởng thị trường nhập khẩu
bình quân mỗi năm là 8%, trong đó dệt đạt 6% và may mặc đạt 9%. Tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng dệt may thế giới năm 2010 đạt 700 tỷ USD.
Hiện nay, ngành dệt may thế giới đang phân chia thành ba khu vực
chính là: châu Á, khu vực Tây Âu và Đông Âu, khu vực Trung và Nam Mỹ.
Sau năm 2005, khi các hạn ngạch trong dệt may đã bị xoá bỏ, bản đồ sản xuất
và lưu thông hàng dệt may thế giới đã có sự thay đổi. Khu vực Trung và Nam

Mỹ sẽ yếu thế nhất do lợi thế xuất khẩu vào Mỹ của họ không còn nhiều. Lợi
thế cạnh tranh xuất khẩu đang và sẽ tập trung về hầu hết các nước đang phát
triển ở châu Á. Ngành dệt may củaTrung Quốc hiện đang phát triển rất mạnh,
chiếm khoảng 18% thị phần thế giới và trong vòng 10 năm tới con số này có
thế sẽ tăng lên 50% mặc dù bị Hoa Kỳ và EU áp dụng chế độ hạn chế và kiểm
soát nhập khẩu. Ngoài Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam cũng là có khả năng
thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ dệt may. Các nước phát triển ở
châu Âu, Bắc Mỹ và châu Á tiếp tục bị giảm bớt thị phần do phải đối mặt với
sự cạnh tranh gia tăng từ các nước sản xuất hàng dệt may giá rẻ. Hàng từ
Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam sẽ dần “lấn sân” các nhà sản xuất tại châu Âu.
Trong vòng 5 năm tới, bối cảnh kinh doanh hàng dệt may thế giới có
những đặc điểm nổi bật sau:
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
19
- Thứ nhất là, thương mại dệt may thế giới ngày càng tập trung hơn vào
tay các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia, từ việc chuyển dịch đầu tư, sản
xuất, thiết kế sản phẩm, phân khúc thị trường, tổ chức chuỗi sản xuất
cung ứng cho đến khâu tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Các nước nhỏ, các
nhà sản xuất và các công ty trung gian nhỏ ngày càng khó có cơ hội
phát triển nếu nằm ngoài các chuỗi cung ứng này. Bên cạnh những yêu
cầu đã có như chất lượng ổn định, giá cả cạnh tranh, giao hàng đúng
tiến độ thì sắp đến các nhà nhập khẩu ngày càng có yêu cầu cao về khả
năng thiết kế sản phẩm, khả năng đáp ứng các hợp đồng nhanh, khả
năng về công nghệ thông tin và các tiêu chí về trách nhiệm xã hội và
bảo vệ môi trường như đảm bảo trật tự an toàn xã hội, không gây ô
nhiễm môi trường Trung Quốc là một điển hình thu được những
thành tựu đáng kể trong lĩnh vực dệt may đó là việc đa dạng hoá thị
trường xuất khẩu trong đó chú trọng tăng thị phần tại các nước châu Á.

Trong khi đó, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc lại tập trung vào sản
xuất mặt hàng cao cấp.
- Thứ hai là, khoa học kỹ thuật phát triển rất nhanh, việc nghiên cứu ứng
dụng công nghệ nano, các loại sợi vải chức năng đặc biệt, các loại
nguyên liệu có nguồn gốc thiên nhiên thân thiện với môi trường như:
tre, đậu tương, ngô hứa hẹn nhiều thay đổi mạnh mẽ hơn trong thời
gian tới. Vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại, các sản phẩm ngày
càng mang tính thời trang hơn. Thương hiệu sản phẩm trở nên quan
trọng trong chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm.
- Thứ ba là, xu thế bảo hộ mậu dịch của các nước lớn, đặc biệt là Hoa
Kỳ và phần nào là EU đối với Trung Quốc và Việt Nam. Để bảo vệ
ngành công nghiệp dệt may trong nước và của các đối tác trong khu
vực, Hoa Kỳ và EU đã và đang áp dụng cơ chế “bảo vệ” và hạn ngạch
nhằm hạn chế tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc tới năm 2008.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
20
Ngoài ra còn thúc ép Trung Quốc tăng giá đồng NDT để giảm bớt
chênh lệch mậu dịch. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho Trung Quốc
khiến nước này phải áp dụng trở lại cơ chế hạn ngạch nhằm hạn chế
xuất khẩu sang Hoa Kỳ và EU. Về phần Việt Nam, khi đã trở thành
thành viên chính thức của WTO, Hoa Kỳ lại áp dụng “cơ chế kiểm soát
nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam” trong 2 năm 2007 - 2008 và có
khả năng tiến hành tự điều tra chống bán phá giá. Điều này đã gây tâm
lý lo ngại, bất an cho các nhà nhập khẩu và bán lẻ Hoa Kỳ, tác động
mạnh đến các nhà đầu tư và xuất khẩu Việt Nam, buộc Việt Nam phải
áp dụng các biện pháp tự giám sát xuất khẩu trong 2 năm 2007 - 2008.

2.2 - Tiêu chí đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng dệt may

Dệt may là sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày
của con người, vì vậy những yếu tố cấu thành sức cạnh tranh của nó vừa
mang những đặc điểm chung như mọi hàng hoá khác đồng thời lại bao hàm
những đặc tính riêng của sản phẩm này. Tuỳ vào thị trường tiêu thụ, sản
phẩm dệt may lại bị chi phối bởi những đặc điểm riêng của thị trường đó.
Khoỏ lun tt nghip Cnh tranh gia hng dt may Vit Nam v Trung Quc.
C hi v thỏch thc.
Nguyn Hng Nhung Lp NgaK42G
21

Th nht, giỏ c sn phm dt may.
Giỏ c sn phm dt may l mt tiờu chun quan trng ỏnh giỏ sc
cnh tranh ca nú. Giỏ c sn phm dt may c ngi tiờu dựng quan tõm
nhiu hn c bi con ngi luụn luụn mun cú sn phm tt nhng giỏ c
phi chng, hay núi chớnh xỏc l giỏ r. iu ny ó gii thớch ti sao hng dt
may Trung Quc vi nhng chng loi cú cht lng thp vn cú kh nng
xõm nhp vo th trng phỏt trin nh Hoa K hay EU.
cú th ng vng trong mụi trng cnh tranh quyt lit nh ti th
trng Hoa K v EU - Hai th trng nhp khu dt may chớnh trờn th gii -
thỡ bt c nh sn xut, xut khu dt may no cng phi c gng gim chi
phớ, h giỏ thnh sn phm, gim giỏ bỏn kộo ngi tiờu dựng n vi sn
phm ca mỡnh. Giỏ c l yu t u tiờn cú sc lụi cun ngi mua, bi xut
phỏt t thc t ca mõu thun gia nhu cu v vic tho món nhu cu b gii
hn bi kh nng thanh toỏn ca h. Tuy nhiờn, giỏ c khụng phi l yu t
Sc cnh tranh ca sn phm dt
may
Cht lng sn
phm: Cht liu vi
v k thut may
Dch v bỏn

hng: qung
cỏo. trin
lóm
Kiu cỏch
mu mó
Giỏ c

Thng hiu
sn phm

Giỏ tr s dng
Giỏ tr thm m
Nhu cầu
Khả năng cạnh tranh
Tâm lý mua hàng
Cơ sở hình thành
Bảng 3
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
22
quyết định duy nhất, cái quyết định ở đây còn là tương quan hợp lý giữa giá
cả và chất lượng sản phẩm “tiền nào của nấy”. Người tiêu dùng “hàng hiệu”
Hoa Kỳ hay EU sẵn sàng mua những chiếc váy, áo với giá cao ngất ngưởng,
nhưng đó phải là những sản phẩm với chất lượng tốt nhất. Đến với các cửa
hàng thời trang ở New York, bạn có thể thấy dân Mỹ sẵn sàng bỏ ra hàng
ngàn USD để mua những bộ quần áo của những hãng thời trang nổi tiếng như
Dior, Gucci Để có được điều đó thì các doanh nghiệp dệt may phải làm cho
khách hàng nghe và tin vào cái được khi sử dụng sản phẩm. Khi đó thì dù giá
cao bao nhiêu cũng thành thấp và ít nhất cũng là “phải chăng”.

Đối với những sản phẩm cùng có chất lượng cao thì những sản phẩm có
giá rẻ hơn sẽ hấp dẫn người mua hơn. Người tiêu dùng thường cân nhắc rất kỹ
trước khi mua bất cứ một sản phẩm nào. Họ so sánh về mặt chi phí - giá trị sử
dụng để có được sự hài lòng cao nhất từ việc sử dụng tiền cũng như thời gian
của họ. Vì thế trong kinh doanh hiện đại ngày nay những doanh nghiệp có sức
cạnh tranh cao là các doanh nghiệp có khả năng tìm kiếm các phương thức
quản lý hoạt động hiệu quả nhằm giảm chi phí và xây dựng chính sách giá cả
hợp lý đối với các sản phẩm của mình.

Giá bán sản phẩm dệt may của bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phụ
thuộc vào các yếu tố sau:
- Chiến lược đầu tư của tất cả các doanh nghiệp dệt may trước hết là
hướng vào hạ giá thành, điều này cho phép doanh nghiệp cạnh tranh
bằng giá cả. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải tìm đến tất cả các
phương thức nhằm giảm chi phí của các yếu tố đầu vào như: tìm nguồn
nguyên vật liệu, phụ liệu rẻ, kỹ thuật tiên tiến, giá nhân công thấp, giảm
chi phí ngoài sản xuất
- Đối với sản xuất phải coi trọng định mức kỹ thuật, tăng năng suất, cải
tiến kỹ thuật , tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm thiểu phế phẩm.
Khoá luận tốt nghiệp – Cạnh tranh giữa hàng dệt may Việt Nam và Trung Quốc.
Cơ hội và thách thức.
Nguyễn Hồng Nhung Lớp NgaK42G
23
- Đối với khâu lưu thông sản phẩm dệt may cần phải lựa chọn các
phương pháp bảo quản, vận chuyển, bốc xếp hợp lý, không mua bán
vòng vèo đẩy chi phí lưu thông lên cao. Đây chính là bộ phận chi phí
có thể giảm thiểu được nhiều nhất từ đó hình thành mức giá dệt may
xuất khẩu cạnh tranh nhất trên thị trường Hoa Kỳ, EU
Thứ hai, chất lượng sản phẩm dệt may.
Cũng như nhiều sản phẩm khác, bên cạnh giá cả thì chất lượng sản

phẩm dệt may cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu để quyết định khả năng
cạnh tranh của sản phẩm này trên thị trường. Khi xã hội ngày càng phát triển
thì nhu cầu của con người cũng ngày càng nâng cao. Trước đây, có giai đoạn
mà đối với con người thì “đủ mặc” đã là cả một vấn đề nan giải thì hiện này ở
phần lớn các quốc gia trên thế giới “mặc đẹp” đã trở thành mối quan tâm chủ
yếu của người dân. đặc biệt tại các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, EU hay
Nhật Bản.
Chất lượng của sản phẩm dệt may được hiểu ở đây không chỉ đơn thuần
là chất lượng sản phẩm riêng biệt mà là toàn bộ các nhân tố tác động tới quá
trình tiêu dùng, sự hài lòng của khách hàng đối với sản phẩm. Chất lượng sản
phẩm bao gồm các đặc tính của sản phẩm xác định bằng các thông số có thể
đo lường được hoặc so sánh được. Một sản phẩm được xác định là có chất
lượng khi các thông số của sản phẩm đó phù hợp với các tiêu chuẩn kĩ thuật
và thoả mãn được một nhu cầu cụ thể nào đó của xã hội. Người tiêu dùng
ngày càng có những đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Họ yêu cầu một sản
phẩm dệt may có chất lượng thì không chỉ đáp ứng những nhu cầu thiểt yếu
của mình mà phải giúp họ thể hiện được giá trị của chính bản thân mình, thể
hiện được những điểm mạnh của người mặc chúng. Đối với một sản phẩm có
chất lượng cao người tiêu dùng không hề do dự khi bỏ tiền ra mua. Còn nhà
sản xuất hoặc người kinh doanh, họ có thể đặt giá cao hơn so với nhưng sản
phẩm dệt may của đối thủ, từ đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn và đảm bảo

×