Tải bản đầy đủ (.docx) (168 trang)

Công Cuộc Đổi Mới Với Những Thành Tựu Bước Đầu Quan Trọng Đã Đưa Đất Nước Ta Ra Khỏi Cuộc Khủng Hoảng Kinh Tế - Xã Hội Và Bước Vào Thời Kỳ Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa (Cnh), Hiện Đại Hóa (Hđh).Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.25 KB, 168 trang )

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Cơng cuộc đổi mới với những thành tựu bước đầu quan trọng đã
đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH). Những thành
tựu đạt được đã làm cho thế và lực của đất nước có bước phát triển cao
hơn, kinh tế, chính trị, xã hội cơ bản ổn định, đời sống nhân dân được cải
thiện. Đảng và Nhà nước ta tích lũy được những kinh nghiệm quý báu
trong tổ chức, quản lý và điều hành kinh tế - xã hội. Đó là những thuận lợi
cơ bản của sự phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Nhưng vẫn
còn những nhân tố gây mất ổn định như: sự phát triển chưa vững chắc về
kinh tế, tình trạng phân hóa giàu nghèo tăng lên, nạn tham nhũng và những
tệ nạn xã hội chậm được khắc phục, những hiện tượng mất dân chủ, nhất là
ở cơ sở gia tăng, những vấn đề sắc tộc và tơn giáo có xu hướng trở nên
phức tạp và hoạt động chống phá của các lực lượng thù địch vẫn đang tiếp
diễn. Sự thay đổi sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội nước ta đang làm thay
đổi nhanh chóng cơ sở hạ tầng của xã hội và đòi hỏi những thay đổi tương
ứng trong kiến trúc thượng tầng, trước hết là nhà nước. Sự vận động và
phát triển của xã hội đang đòi hỏi những thay đổi căn bản trong tổ chức bộ
máy và phương thức hoạt động của nhà nước phù hợp với điều kiện mới.
Nhà nước có định hướng được không và định hướng như thế nào nền kinh
tế thị trường đi theo quỹ đạo của CNXH và giải quyết những vấn đề chính
trị, xã hội trong điều kiện nền kinh tế đó là vấn đề thời sự hiện nay.
Thực tế quá trình đổi mới cho thấy vấn đề giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN) là hết sức khó khăn và có quan hệ mật thiết với việc
xây dựng và củng cố nhà nước trong sạch vững mạnh, thật sự của dân, do dân,
vì dân. Không thể giữ vững được định hướng XHCN trong quá trình phát
triển của đất nước hiện nay nếu khơng đổi mới và hoàn thiện nhà nước. Đổi


1


mới và hoàn thiện nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
trong điều kiện mới trở thành một nhu cầu tất yếu và dễ nhận thấy. Nhưng
khó khăn là ở chỗ đổi mới và hồn thiện Nhà nước ta như thế nào để tạo ra
môi trường chính trị trực tiếp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định
hướng XHCN. Trước vấn đề chính trị cấp bách và hệ trọng đó, sự thống
nhất quan điểm về nhà nước pháp quyền (NNPQ), về NNPQ XHCN ở Việt
Nam và mối quan hệ của nó với sự nghiệp đổi mới cịn đang trong q trình
tìm tịi, thể nghiệm.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
được thông qua tại Đại hội VII (1991) của Đảng nêu vấn đề xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước như là một trong những phương hướng cơ bản của sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Sau đó vấn đề xây dựng NNPQ XHCN
đã được chính thức nêu trong Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (1994) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương (HNTƯ) Tám
khóa VII (1995). Những nghị quyết này xác định những quan điểm và
phương hướng cơ bản như là những định hướng chính trị chủ yếu cho q
trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta. Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội
VII của Đảng, Hiến pháp 1992 và nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban
hành đã đặt cơ sở pháp lý cho việc đổi mới và hoàn thiện Nhà nước ta theo
hướng xây dựng NNPQ XHCN. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII (1996) và các Nghị quyết HNTƯ Ba và Bốn (khóa VIII) của Đảng
tiếp tục bổ sung và phát triển các quan điểm về việc củng cố và hoàn thiện
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo hướng xây dựng
NNPQ XHCN. HNTƯ Ba (khóa VIII) nhận định, mấy năm qua “đã từng
bước phát triển hệ thống các quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng
NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân” [10, 36]; nhiều nội dung quan trọng
của việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta đã được triển khai và thu được

những kết quả bước đầu quan trọng. Tháng 2 năm 1998 Bộ Chính trị đã ra
Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới. Đây là nội dung quan trọng của việc củng cố và

2


hồn thiện chính quyền, thực hiện dân chủ ở cơ sở theo hướng xây dựng
NNPQ XHCN. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng NNPQ
XHCN trở thành nhiệm vụ trọng tâm của việc đổi mới hệ thống chính trị và
trở thành nguyện vọng của nhân dân, quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề xây dựng NNPQ XHCN để đảm
bảo định hướng XHCN ở Việt Nam vẫn là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và
thực tiễn. Nó địi hỏi vừa làm vừa rút kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu
một cách có hệ thống của nhiều ngành khoa học, trong đó có triết học. Việc
chọn đề tài về "
Mối quan hệ giữa việc xây dựng nhà nước pháp quyền với
sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa"là nhằm góp
phần vào q trình nghiên cứu đó.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Đổi mới và hồn thiện Nhà nước là nội dung chủ yếu của đổi mới
chính trị nhằm thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển nhanh chóng và vững
chắc theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. Từ khi HNTƯ Tám (khóa
VII) đặt vấn đề “Các cơ quan nghiên cứu khoa học về nhà nước và pháp
luật triển khai công tác nghiên cứu tư tưởng và đường lối quan điểm của
Đảng; tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà nước và pháp luật của nước ta,
góp phần làm sáng tỏ lý luận về NNPQ XHCN Việt Nam để xây dựng một
cách phù hợp” [6, 49], thì việc nghiên cứu vấn đề NNPQ ở nước ta bắt đầu
thu hút đông đảo các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo và quản lý. Các văn

kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu quan trọng của các đồng chí
lãnh đạo là những định hướng cơ bản cho việc nghiên cứu và tiến hành xây
dựng NNPQ XHCN ở nước ta. Có thể xem: Xây dựng NNPQ là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta tại Hội
nghị Bộ Tư pháp (8-1992), và các bài phát biểu tại Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kỳ và HNTƯ Tám (khóa VII), HNTƯ Ba và Bốn (khóa
VIII); kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa IX
(9/1992) và kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa X (9/1997) v.v... của đồng chí Đỗ

3


Mười. Các bài phát biểu này đề cập vấn đề xây dựng NNPQ như là một
trong những nội dung của sự nghiệp đổi mới vì CNXH ở nước ta.
Một số đề tài cấp nhà nước thuộc các Chương trình Khoa học Công nghệ thực hiện trong những năm 1991-1995 đã dành sự chú ý cần
thiết lý giải mối quan hệ giữa xây dựng NNPQ với giữ vững định hướng
XHCN, trên bình diện triết học. Có thể nêu một số đề tài sau: Đề tài KX
05-01: Chính trị và hệ thống chính trị trong Học thuyết Mác - Lênin và
những bài học về sự vận dụng nó ở các nước XHCN trước đây, (1993 1995), của Viện Thông tin Khoa học - Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh do Giáo sư Đào Duy Cận làm chủ nhiệm.
Đề tài này nêu vấn đề củng cố và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng xây
dựng NNPQ XHCN như một trong những nội dung chủ yếu của đổi mới và
hồn thiện hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Đề tài KX 05-02: Chính
trị và hệ thống chính trị của các nước tư bản phát triển, (1993 - 1995), của
Viện Khoa học Chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia (CTQG) Hồ Chí
Minh do Giáo sư Hồ Văn Thông làm chủ nhiệm. Đề tài này nêu nhiều giá
trị tư tưởng chính trị - triết học có liên quan đến vấn đề NNPQ và xây dựng
NNPQ XHCN ở nước ta. Đề tài KX 05-04: Đặc trưng cơ bản của hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH, (1992-1994) của Khoa
Triết học - Học viện CTQG Hồ Chí Minh do Giáo sư, Phó tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Long làm chủ nhiệm. Đề tài này nêu nhiều ý kiến có tính phương

pháp luận về đặc điểm của NNPQ XHCN ở nước ta. Đề tài KX 05-05: Cơ
chế thực hiện dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta, (1992 -1993), của
Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do Phó
giáo sư, Phó tiến sĩ Hồng Chí Bảo làm chủ nhiệm. Đề tài này đề cập vấn
đề NNPQ trong mối quan hệ với dân chủ.
Vấn đề mối quan hệ giữa việc xây dựng NNPQ với sự phát triển đất
nước theo định hướng XHCN và sự cần thiết của việc xây dựng NNPQ
XHCN ở nước ta đã được đề cập trong một số cơng trình nghiên cứu của

4


các tác giả sau đây: Nguyễn Duy Quý - Một số suy nghĩ về xây dựng
NNPQ ở nước ta. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2 năm 1992, trang (tr.)
12-15. Vấn đề xây dựng NNPQ ở nước ta. Tạp chí Cộng sản, số 4 năm 1992,
tr. 14-17. Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
nước ta, Nhà xuất bản (Nxb) CTQG - Sự thật (ST), Hà Nội - 1998. Mơ
hình CNXH ở nước ta [68, 5-7]. Hồ Văn Thông - Vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay [73, 23-28]. Hệ thống chính trị
ở các nước tư bản phát triển. Nxb CTQG - ST, Hà Nội - 1998. Lê Hữu
Nghĩa - Vai trị của chính trị trong việc bảo đảm định hướng XHCN [56,
18-20]. Nguyễn Hữu Khiển - Tính tất yếu kinh tế và chính trị trong sự hình
thành và phát triển của nhà nước pháp quyền [21, 18-20]. Nguyễn Tiến Phồn
- Vai trị lãnh đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay [62,
46-49]. Điểm nóng Thái Bình - những bài học kinh nghiệm và những vấn
đề lý luận [17]. Nguyễn văn Oánh - Định hướng XHCN ở Việt Nam: nội
dung cơ bản và những điều kiện chủ yếu để thực hiện [59]. Trần Thành Bệnh quan liêu của bộ máy nhà nước và phương hướng khắc phục trong
q trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến
sĩ Triết học, mã số 5. 01.02, Hà Nội - 1994.

Nhiều cơng trình nghiên cứu về NNPQ và xã hội công dân trong
mối quan hệ với CNXH của các tác giả nước ngồi: Liên-xơ (cũ), Nga,
Trung Quốc, Pháp v.v... đã được công bố trong các “Tài liệu phục vụ
nghiên cứu”, “Sưu tập chuyên đề” do Viện Thông tin Khoa học xã hội Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia ấn hành. Có thể xem:
Kudriaseve V. - Nhà nước pháp quyền - xã hội và cá nhân [24, 7-10, 24].
Những phương diện pháp luật của tự do [25]. Nhiều cơng trình nghiên cứu
của các tác giả Liên Xô (cũ) như Kudriaseve V., Lukasheva E., Lazarev
B.M., Vlasenko N.A., Kopejchikov V.V., Borodin V.V. và Derov S.V.; của
tác giả Đức như Blankenagel A. (qua tổng thuật, lược thuật của các tác giả
Việt Nam) [ 58] đã trình bày quan niệm về NNPQ, NNPQ XHCN và quan

5


hệ của chúng với CNXH. Zheng Zhi Suo - Trung Quốc vì sao khơng thực
hiện thể chế Tam quyền phân lập. Tạp chí Thơng tin Khoa học xã hội, số 1
năm 1992, tr. 14-18. Đinh Vĩ - Cải cách thể chế chính trị và phát triển xã
hội ở Trung Quốc, Tài liệu nghiên cứu số tham khảo đặc biệt 96-13, Hà Nội 1996. Sgard J.- Sự cần thiết của pháp luật và nhà nước trong bước chuyển
qua nền kinh tế thị trường [71, 17-21]. Ở phương Tây “NNPQ đó chưa được
hồn thành và việc nghiên cứu nó khơng chấm dứt” [4, 6]. Nhiều cơng trình
nghiên cứu lớn của các tác giả Pháp [4], [57], [63] v.v... và Mỹ [89], [14]
v.v... về NNPQ ở mức độ nhất định, là những gợi mở cần thiết cho việc
nghiên cứu đề tài này.
Có thể nói, những năm qua việc nghiên cứu vấn đề xây dựng NNPQ
XHCN trong mối quan hệ với sự nghiệp đổi mới đã thu hút sự quan tâm
của nhiều ngành khoa học, trong đó có triết học ở Việt Nam. Song, một
cơng trình với tính cách là một luận án triết học nghiên cứu mối quan hệ
biện chứng giữa xây dựng NNPQ với sự phát triển đất nước theo định
hướng XHCN, như đề tài này xác định, thì cịn chưa thấy ở nước ta.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN


Mục đích của luận án:
Thơng qua việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa việc xây
dựng NNPQ với sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN mà luận
chứng cho tính tất yếu của việc xây dựng NNPQ XHCN - một điều kiện
khơng thể thiếu của q trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận án:
Khái quát lịch sử tư tưởng về NNPQ, NNPQ hiện thực và vai trị
của nó trong sự phát triển của xã hội lồi người.
Phân tích tính tất yếu khách quan của việc xây dựng NNPQ trong
mối quan hệ biện chứng với sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN
ở Việt Nam hiện nay.

6


Nêu lên một số đặc điểm của NNPQ Việt Nam và phương hướng cơ
bản của việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng NNPQ với phát triển
đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
4. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

Luận án nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa việc xây dựng
NNPQ với sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện
nay dưới góc độ triết học, phân tích và khái qt những vấn đề lý luận có
tính phương pháp luận. Để giải quyết mối quan hệ trên, luận án đề cập ở
mức cần thiết đến nội dung NNPQ cũng như định hướng XHCN ở Việt
Nam. Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa xây dựng NNPQ với phát triển
đất nước theo định hướng XHCN, nên vấn đề về NNPQ và tác động của nó
đối với định hướng khơng thể khơng chiếm phần ưu tiên.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Vận dụng tổng hợp các quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử (mà hạt nhân là phép biện chứng giữa kinh tế và chính trị) của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối của Đảng
và Nhà nước ta. Sử dụng phương pháp so sánh trong chính trị học để phân
tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa xây dựng
NNPQ với định hướng XHCN ở Việt Nam. Gắn lý luận với thực tiễn và lấy
thực tiễn làm cơ sở cho tư duy lý luận. Theo dõi sát những vấn đề chính trị,
kinh tế và xã hội thực tiễn của đất nước, lấy đó làm cơ sở và mục đích
hướng tới của việc phân tích và tổng kết lý luận.
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN ÁN

Với những kết quả bước đầu, luận án đặt hy vọng vào việc góp
phần nghiên cứu cơ bản về vấn đề NNPQ trong mối quan hệ với định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Những kết quả đó sẽ góp phần vào
việc thống nhất nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm xây dựng thành
công NNPQ XHCN đảm bảo sự phát triển đất nước theo đúng định hướng
XHCN ở Việt Nam hiện nay.

7


7. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN

1. Trên cơ sở khái quát lịch sử tư tưởng và thể chế nhà nước có liên
quan, luận án rút ra những giá trị có tính phổ biến trong tư tưởng về NNPQ
và góp phần đưa lại một cách nhìn lịch sử về NNPQ cũng như vai trị của
nó đối với sự phát triển xã hội loài người.
2. Nêu một số nội dung cơ bản và tính chất của NNPQ trong thời
đại ngày nay trên cơ sở thống nhất tính giai cấp với tính nhân loại, đặc biệt

là thống nhất tính giai cấp cơng nhân và tính nhân loại trong NNPQ XHCN.
3. Vạch rõ mối quan hệ nội tại giữa NNPQ và Nhà nước XHCN.
NNPQ với đầy đủ ý nghĩa của nó chỉ có thể thực hiện qua Nhà nước
XHCN. Chứng minh NNPQ, cũng như tự do, dân chủ và nhân quyền với
đầy đủ ý nghĩa của chúng là phạm trù chính trị của CNXH.
4. Phân tích sự tác động qua lại giữa phát triển kinh tế - xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường với xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện
nay. Nêu một số đặc điểm và phương hướng cơ bản của việc xây dựng
NNPQ XHCN đảm bảo định hướng XHCN ở nước ta. Qua đó bước đầu
làm rõ một số đặc điểm của quá trình hình thành và phát triển của NNPQ
XHCN ở Việt Nam.
8. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 145 trang, chia làm 3 chương, 7 tiết.

8


Chương 1
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI

Từ thời cổ đại, mầm mống tư tưởng về NNPQ đã xuất hiện dưới
dạng các quan điểm triết học, chính trị của các nhà tư tưởng, các nhà cầm
quyền có tinh thần cải cách. Sự hưng suy của các triều đại, các nền dân chủ
trước mỗi bước phát triển của lịch sử nhân loại đều đặt ra những câu hỏi có
tính phổ qt: quyền lực nhà nước từ đâu mà có; làm thế nào để quyền lực
nhà nước khơng bị thối hóa, biến chất; nhà nước và pháp luật là gì và kết
hợp với nhau như thế nào; cơng dân có vị trí như thế nào trong mối quan hệ

với nhà nước và pháp luật; nhà nước như thế nào thì đáp ứng được sự phát
triển của xã hội v.v... Qua q trình lịch sử lâu dài, lồi người dần dần tìm
thấy câu trả lời cho những vấn đề trên bằng việc tổ chức nhà nước thành
NNPQ - nhà nước được tổ chức và vận hành bằng những cơ chế bảo đảm
quyền lực của nó thuộc về nhân dân, chứ không phải thuộc về người cầm
quyền; quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không phải bằng ý muốn chủ
quan của người cầm quyền. Những hạt giống tư tưởng về NNPQ có từ thời
cổ đại, ấp ủ qua đêm dài trung cổ hàng nghìn năm, đã bừng nở vào thời đại
Phục hưng, Ánh sáng và nhất là vào thời kỳ chuẩn bị các cuộc cách mạng
tư sản ở Tây Âu các thế kỷ XVII -XVIII. Học thuyết về NNPQ tư sản ra
đời, dựa trên cơ sở các quan điểm pháp lý của giai cấp tư sản đang lên, đã
tấn công quyết liệt và làm sụp đổ từng mảng lớn chế độ phong kiến độc
đốn và chun quyền. Nó đã “phiên dịch ra ngôn ngữ pháp lý yêu cầu của
chủ nghĩa tự do kinh tế” [82, 481] ở thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản
(CNTB) và góp phần xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
(TBCN). NNPQ từ những ý tưởng qua hàng nghìn năm đã trở thành học
thuyết và từ học thuyết qua hàng trăm năm đã được hiện thực hóa một phần
trong các Nhà nước tư sản với những bản sắc dân tộc khác nhau. Cho đến

9


nay, NNPQ tư sản đã tích lũy được khơng ít những giá trị có tính phổ biến,
nhưng do bản chất giai cấp tư sản chi phối nên nó vẫn chưa phải là NNPQ
với đúng ý nghĩa của nó và khơng có khả năng đáp ứng sự phát triển tiếp
theo của lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa trên cơ sở thế giới
quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đã thực hiện cách tiếp cận mới
sâu sắc và triệt để hơn đối với vấn đề NNPQ. Giữa nhà nước XHCN và
những giá trị phổ biến của nhân loại về NNPQ có quan hệ nội tại với nhau.
Xây dựng NNPQ XHCN là nhằm đáp ứng yêu cầu chính trị trong sự phát

triển tiếp theo của lịch sử nhân loại là quá độ lên CNXH. Ở đây vấn đề
NNPQ được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với tiến trình vận động
và biến đổi khơng ngừng của lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử đều đặt ra và
làm rõ thêm quan niệm về NNPQ như là một nhà nước thỏa mãn các yêu
cầu phát triển của xã hội. NNPQ vừa là sản phẩm, vừa là sức mạnh thúc
đẩy xã hội loài người tiến lên. Khái quát lịch sử tư tưởng về NNPQ, thực
chất, là trình bày mối quan hệ giữa tư tưởng NNPQ và sự phát triển của xã
hội qua các thời đại lịch sử.
1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI

1.1.1. Những mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền
trong quá trình phát triển của xã hội cổ đại
Những mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong quá
trình phát triển xã hội phương Đông cổ đại
Ở phương Đông, do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, nên cùng
với sự ra đời của các quốc gia dân tộc là sự xuất hiện các nhà nước - cơng
xã nơng thơn, những “hình thức nhà nước thô sơ nhất, tức là chế độ chuyên
chế phương Đông” [41, 255]. Đặc trưng cơ bản của chúng là: quyền lực tập
trung trong tay vua; bạo lực và tôn giáo là cơng cụ bảo đảm tính hợp pháp
của nhà nước; vua là con Trời, pháp luật là ý Trời; nhà nước là cơng cụ
tồn năng của vua để trị nước, an dân. Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện

1
0


vào loại sớm nhất thế giới, tồn tại đến tận các thế kỷ IV và III trước Công
nguyên (tr.CN.). Theo truyền thuyết Ai Cập, Chúa Trời từng nói với vua
Ramgiêsu II (Ramses II, 1300 tr.CN) rằng: “Ta là cha của con... Ta trao

cho con sứ mệnh của trời đất để con cai quản...” [31, 31]. Ngay từ đầu
người nô lệ đã khơng tin vào tính hợp pháp và tính cơng bằng của nhà nước
áp bức bóc lột cho dù đã được thần thánh hóa. Họ từng bước nhận thức
rằng quyền lực nhà nước mà trao cho vua, dù vua anh minh nhường nào, thì
bạo lực vẫn xảy ra. Vua “khốc lên mình tấm áo của vị linh mục” là để che
đậy sự độc đoán, chuyên quyền. Ở Nhà nước Babilon (Babylone) cổ đại, bộ
luật của vua Hammurapi (Hammourabi, 1792 - 1750 tr.CN) là bộ luật thành
văn cổ nhất thế giới với 3900 năm tuổi. Vua chúa và tầng lớp chủ nô
Babilon cổ đại đã dùng hệ thống pháp luật này bảo vệ chế độ sở hữu của
tầng lớp chủ nô và cai trị xã hội. Trong nhà nước Ấn Độ cổ đại, pháp luật
được sử dụng rất sớm để bảo vệ các giáo sĩ đạo Bàlamôn và trừng trị những
kẻ xâm phạm đến chế độ tư hữu. Người Ấn Độ quan niệm, “Một chính
quyền trừng phạt mạnh đó là điều duy nhất bảo đảm cho sự tồn tại cho hôm
nay và tương lai” [31, 42]. Phật giáo Ấn Độ (xuất hiện vào thế kỷ VI-V
tr.CN) cho rằng những người cầm quyền “ln ln chìm đắm trong dịng
xốy triền miên của sự tham lam, thì liệu cịn ai có thể bình yên đi trên trái
đất” [31, 45]. Đấy là tiếng chuông cảnh tỉnh đầu tiên đối với những căn
bệnh nan y của các nhà nước phương Đông cổ đại.
Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại (từ Thiên niên
kỷ thứ II tr.CN) là lịch sử đấu tranh quyết liệt xung quanh việc lựa chọn
phương thức trị nước an dân giữa các trường phái chính trị - xã hội khác
nhau (vô vi nhi trị, kiêm ái trị, nhân trị, lễ trị, đức trị và pháp trị...). Lão
giáo (do Lão Tử sáng lập vào khoảng thế kỷ thứ VI-V tr.CN) cho rằng pháp
luật do vua tạo ra là nguồn gốc của áp bức, bóc lột và trái với quy luật của
tự nhiên, là người bạn đồng hành của tàn bạo và độc đoán. Tuân thủ những
quy luật tự nhiên (đạo) của cuộc sống là làm cho con người giữ được trọn
vẹn bản tính của mình. Lão Tử chủ trương lấy "vô vi nhi trị" làm đường lối

1
1



trị nước. Chủ trương này không phải là thái độ tiêu cực của người yếm thế,
phẫn thế, mà là không làm gì trái với tự nhiên, khơng đem tư tâm can thiệp
vào việc người, giữ xã hội trong trạng thái quân bình và đem lại hạnh phúc
cho con người. Nho giáo (do Khổng Tử, 551- 479 tr.CN, sáng lập vào thế kỷ
thứ VI-V tr.CN) lúc đầu chủ trương nhân trị, lễ trị hay đức trị hoàn toàn,
nhưng về sau do yêu cầu sự phát triển của xã hội đã phải tìm đến những yếu
tố thích hợp của tư tưởng pháp trị. Đến Mạnh Tử (372-289 tr.CN), Nho giáo
được phát triển thành thuyết vương chính và được lịng dân với tư tưởng dân
vi quý. Vua vâng mệnh Trời mà trị dân, nhưng mệnh Trời phải hợp với lòng
dân, người cầm quyền phải dựa vào dân. Tới Tuân Tử (~ 298-238 tr.CN)
thì chủ trương kết hợp “lễ” với “luật” để trị nước xuất hiện. Tuân Tử cho
rằng, pháp luật là “cái giá của thiên hạ” ngăn cấm điều bạo ngược, ghét bỏ
điều ác và ngăn chặn điều xấu chưa xảy ra. Đối với người tốt thì dùng lễ, đối
với người xấu thì dùng luật. Phái Mặc gia (do Mặc Tử, 478-382 tr.CN, khởi
xướng) khi luận về nhà nước lại cho rằng con người có quyền bình đẳng tự
nhiên với nhau và quyền lực tối cao trong xã hội là thuộc về dân. Dân có
quyền lựa chọn vua và kiểm tra hoạt động của vua. Những người có đủ đức
tài, khơng kể địa vị xã hội của họ, đều xứng đáng tham gia lãnh đạo đất
nước. Mặc Tử quan niệm khơng có số mệnh tiền định. Cuộc sống của con
người phụ thuộc vào việc thực hiện như thế nào những nguyên tắc kiêm ái mà
cơ sở của nó là ý Trời.
Cuối thời Xuân Thu (722-481 tr. CN), giai cấp địa chủ mới đã
giành được vai trò chủ đạo ở cơ sở hạ tầng của xã hội Trung Quốc. Nhà
Chu trở nên suy tàn, chiến tranh kéo dài, ruộng đất từ tay vua chuyển sang
tầng lớp địa chủ phong kiến mới. Giao thông vận tải mở mang. Đồ sắt xuất
hiện. Thương nghiệp, thủ công nghiệp và các đơ thị lớn ra đời. Văn hóa dân
tộc phục hưng. Tầng lớp trí thức hình thành. Nhiệm vụ còn lại của tầng lớp
địa chủ mới là tạo ra những thay đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng

và xác lập quan hệ sản xuất mới để hoàn thành q trình phong kiến hóa.

1
2


Giai cấp địa chủ đang lên muốn dùng bạo lực kiên quyết chống lại các tàn
dư của chế độ công xã thị tộc, gia trưởng để nhanh chóng kết thúc cục diện
phân tán, thống nhất quốc gia và tập trung phát triển sức sản xuất của xã
hội. Tư tưởng pháp trị xuất hiện phản ánh ý chí của giai cấp địa chủ mới
đó.
Tư tưởng pháp trị do Quản Trọng (~ 683-640 tr.CN) - người nước
Tề và Tử Sản (~ -522 tr.CN) - người nước Trịnh khởi xướng. Tư tưởng
pháp trị sơ kỳ này chủ trương tơn trọng vua, vì vua là người đặt ra pháp
luật. Còn vua phải yêu dân thì mới được dân phục tùng. Yêu dân là vì yêu
vua. Vua và pháp luật của vua quý hơn dân. Pháp luật của vua phải rành
mạch về luật - hình - chính và hợp với lợi ích của dân theo thiên thời, địa
lợi và nhân hòa. Pháp luật trước khi ban hành phải được cân nhắc chu đáo, ít
thay đổi. Trời khơng vì vật mà thay đổi bốn mùa, minh qn thánh nhân
khơng vì một vật mà thay đổi pháp luật. Vua, tôi, trên, dưới, sang, hèn đều
phải tuân thủ pháp luật (quân, thần, thượng, hạ, quý, tiện giai tòng pháp).
Việc xét xử phải tuân thủ theo pháp luật (pháp bất vị thân). Thương Ưởng
(~ 347 tr.CN) - tướng quốc nước Tần, người đề xướng chủ trương “biến
pháp canh tân” - đã phát triển tư tưởng pháp trị lên một bước mới. Đó là
chủ trương trị nước phải có ba yếu tố: pháp luật, quyền lực và lòng tin của
dân. Pháp luật là phương tiện xác định tính hợp pháp của việc chiếm hữu
ruộng đất bằng mua bán, xác lập quyền bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội
và thiết lập chế độ chuyên chế trung ương tập quyền. Nhờ "tân pháp" của
Thương Ưởng mà nhà Tần trở nên hùng mạnh nhất trong các nước chư hầu
và làm cơ sở để nó thống nhất tồn Trung Quốc.

Hàn Phi (280-230 tr.CN) là người phát triển tư tưởng pháp trị lên đỉnh
cao. Theo đó, pháp luật là cơ sở duy nhất điều khiển công việc nhà nước và
xã hội. Thời thế thay đổi thì pháp luật cũng thay đổi. Tự nhiên phát triển
theo quy luật tự nhiên, thì xã hội phát triển theo quy luật xã hội và một triết
lý. Pháp luật định chuẩn hành vi con người và xã hội. Tư tưởng pháp trị của

1
3


Hàn Phi là sự kế thừa các giá trị trong tư tưởng “trọng thế” của Thận Đáo,
“trọng pháp” của Thương Ưởng và “trọng thuật” của Thân Bất Hại (~ 385337 tr.CN). Pháp luật muốn thực hiện được thì phải dựa vào “thế” và “thuật”.
Nội dung chủ yếu của tư tưởng pháp trị này là thừa nhận quyền bình đẳng của
các tầng lớp địa chủ phong kiến trước pháp luật; lấy pháp luật thay cho lễ
làm công cụ trị nước, an dân và tiền đề cho việc xây dựng chế độ phong
kiến vững mạnh; tôn trọng pháp luật là điều kiện làm cho đất nước giàu
mạnh. “Làm việc theo lòng tư lợi thì hỗn loạn, làm việc theo cơng pháp thì
ổn định” [75, 71]. Hình phạt khơng trừ bậc đại phu.Tư tưởng pháp trị thể
hiện sự tin tưởng vào tiến hóa của lịch sử. Khi chế độ phong kiến suy tàn
thì việc duy trì lễ, nhạc của nó chỉ làm mất đi cơ hội phát triển của xã hội.
Chủ trương pháp trị của Hàn Phi thích ứng với xu thế vận động khách quan
của xã hội Trung Quốc đương thời là kết thúc chế độ phong kiến cát cứ “tranh
bá đồ vương”, thiết lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền.
Giá trị lớn nhất của tư tưởng pháp trị là đặt sự quan tâm lớn đến lợi
ích quốc gia, dũng cảm chấp nhận chuyển biến, đổi mới, chống hoài cổ và
tạo điều kiện xây dựng quốc gia hùng mạnh. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi
không chỉ là sản phẩm của lịch sử, mà cịn là yếu tố có ý nghĩa quyết định
trong việc cải tạo và đưa nước Trung Hoa cổ đại vào thời kỳ phát triển mới.
Sự sụp đổ của nhà Tần sau 15 năm tồn tại và phục hồi Nho giáo trong các
triều đại phong kiến sau đó khơng làm mất đi những giá trị hiện thực của tư

tưởng pháp trị. Các chế độ chính trị của Trung Quốc sau này đề cao nhân lễ trị của Nho giáo, nhưng vẫn kết hợp dương nho - âm pháp.
Như vậy là, sự phát triển của xã hội có giai cấp ở phương Đông từ
thời cổ đại đã cần đến một nhà nước vững mạnh, quản lý đất nước bằng
pháp luật. Ngay từ khi có nhà nước, người phương Đông đã thấy được xu
hướng lạm dụng và thèm khát quyền lực của người cầm quyền. Việc tìm
kiếm phương thức quản lý xã hội có hiệu quả lại gặp mâu thuẫn là: quản lý
theo kiểu đức trị là đề cao tấm gương đạo đức của kẻ cai trị để dân noi theo
và duy trì sự ổn định xã hội. Kiểu quản lý này có vẻ nhân đạo, ơn hịa và có

1
4


thể duy trì lâu dài sự ổn định xã hội, nhưng thật khó có những bước phát
triển mạnh mẽ. Quản lý xã hội theo kiểu pháp trị hà khắc và tàn bạo, khơng
cần đến đạo đức và lịng tin thì thật khó có sự phát triển bền vững. Vì pháp
luật chỉ là ý chí của vua được luật hóa và buộc dân phải theo. Đức trị và
pháp trị bị áp dụng cực đoan đều bóp nghẹt các con đường dẫn đến sự phát
triển của xã hội. Các tư tưởng về nhà nước và pháp luật trên, về cơ bản, đều
dựa trên thế giới quan duy tâm, siêu hình và trình độ tri thức kinh nghiệm.
Xã hội phương Đông cổ đại được quản lý theo kiểu pháp trị trong thời gian
ngắn hơn so với đức trị là vì nó chưa thốt ra khỏi những định đề có sẵn
(lời dạy của tiên vương, thánh hiền) để vươn lên khái quát những tư tưởng
mới phản ánh đúng yêu cầu phát triển của mỗi thời đại.
Những mầm mống tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong quá
trình phát triển xã hội phương Tây cổ đại
Tư tưởng về nhà nước, pháp luật và các hình thức tổ chức chính trị
thực tiễn ở phương Tây cổ đại gắn liền với q trình tiến hóa của xã hội
chiếm hữu nô lệ và nền dân chủ Hy Lạp, La Mã qua các nền cộng hòa dân
chủ A-ten, Spáctơ và La Mã. Đây là thời kỳ kinh tế nông nghiệp phát triển

mạnh mẽ, thủ công nghiệp và thương nghiệp hưng thịnh. Đây cũng là thời
kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối trị nước là chủ nô dân chủ (đại
diện cho thợ thủ công và thương gia) và chủ nơ chun chính (đại diện cho
nơng dân). Cuối cùng đường lối dân chủ đã thắng. Các tư tưởng về dân chủ
và pháp luật hình thành dựa trên cơ sở phương pháp tư duy triết học mang
đặc trưng là khám phá, tìm tịi cái duy lý theo nhiều hướng mới phong phú
và được thể nghiệm trong khơng khí dân chủ phát triển đến trình độ tương
đối cao. Những tư tưởng trên được hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII - V tr.CN) gắn với sự hình thành của các nhà
nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V - nửa đầu thế kỷ IV tr.CN)
gắn với sự phát triển cao của các thể chế nhà nước. Giai đoạn thứ ba (nửa

1
5


sau thế kỷ IV- thế kỷ II tr.CN) gắn với sự suy vong của nhà nước thành
bang Hy Lạp cổ đại.
Trong thế kỷ thứ VI tr.CN, Xôlông (Solon, 638-559 tr.CN) khi chủ
trương cải cách triệt để Nhà nước thành bang Hy Lạp đã cho rằng quyền lực
cần được đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt tới
tự do và công bằng. Xôlông xác định sẽ giải phóng mọi người bằng quyền
lực của luật pháp, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật. Trên thực tế
“nhà nước đã đến cứu giúp nhân dân bằng một tổ chức cai quản do Xôlông
áp dụng” [42, 173]. Cải cách của Xôlông (594 tr. CN) với việc thành lập
Hội đồng quí tộc, Hội đồng chấp chính và Tòa bồi thẩm vừa đem lại cơ hội
cho những người quyền quý nắm các chức vụ nhà nước, vừa đem lại cơ hội
cho những người bình dân quyền lựa chọn và giám sát các quan chức nhà
nước. Cuộc cải cách này đặt nền móng cho nền dân chủ chính trị A-ten,
phát triển tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp, điều hịa lợi ích giữa các

giai cấp xã hội. Giữa thế kỷ này Pitago (580-500 tr.CN) đòi phải thực hiện
mệnh lệnh của nhà nước tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải được
đặt cao hơn các phong tục, tập quán truyền thống không thành văn. Cuối thế
kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V tr.CN, Hêracơlít (Heraclite, 530-470 tr.CN) hết sức
coi trọng pháp luật và quan niệm rằng, pháp luật là phương thức để thực
hiện cái phổ biến. Do đó, “nhân dân cần phải đấu tranh bảo vệ pháp luật
như bảo vệ chốn nương thân của mình” [80, 6]. Thế kỷ V tr.CN, Hêrôđôt
(Herodote, 480-425 tr.CN) khi so sánh ba chính thể qn chủ, q tộc và cộng
hịa, đã gợi ý về một thể chế chính trị hỗn hợp giữa các giá trị của ba loại
chính thể trên. Quyền lực trong xã hội là thuộc về dân, xã hội phải được quản
lý theo nguyên tắc công bằng trước pháp luật. Đêmơcơrít (Democrite, 460370 tr.CN) cho rằng nhà nước và pháp luật là sản phẩm của cuộc đấu tranh
lâu dài của con người nhằm liên kết với nhau thành cộng đồng. Nhà nước
là sự thể hiện quyền lực chung của công dân. Tự do của công dân nằm
trong sự tuân thủ pháp luật. Đến giữa thế kỷ V tr.CN, sự thắng lợi của nền
dân chủ A-ten đã tạo điều kiện cho sự ra đời của lý thuyết pháp quyền tự

1
6


nhiên do các nhà ngụy biện nêu ra. Theo lý thuyết này, nhà nước và pháp
luật là nhân tạo và được tạo nên bởi những thỏa thuận để bảo vệ an ninh
chung cho xã hội và quyền lợi công dân. Pháp luật là sức mạnh điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Cuối thế kỷ V tr.CN, khi nền dân chủ A-ten lâm vào
khủng hoảng, Xôcơrat (Socrate, 469-399 tr.CN) cho rằng dân chủ khơng thể
tồn tại được vì thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực thì cơng bằng và cơng
lý sẽ bị vi phạm.
Cuối thế kỷ V đầu thế kỷ IV tr.CN, Platôn (Platon, 427-347 tr.CN)
xác định rằng, người cầm quyền phải gạt sang một bên ý chí cá nhân để
tuân thủ và nhân danh ý chí của pháp luật. Ông cho rằng nhà nước sẽ sụp

đổ ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới quyền lực của
một ai đó. Pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền là sự cứu thoát nhà nước
và những lợi ích. Ở đâu có pháp luật - cái được xuất phát từ bản chất con
người mà định ra - thì ở đó mới có chế độ nhà nước. Nhà nước và viên
chức của nó tơn trọng pháp luật là điều kiện sống cịn của một nhà nước.
Tơn trọng pháp luật là tơn trọng lý trí, trí tuệ phổ biến. Theo ông, sự thiếu
công bằng sẽ làm lạc đường quyền lực và quyền lực sai lạc là quyền lực tự
làm mất mình. Sự sụp đổ của nền dân chủ A-ten vào giữa thế kỷ thứ IV
tr.CN đã làm cho Arixtốt (Aristote, 384-322 tr.CN) đi đến những kết luận
mới về nhà nước. Theo đó, quyền lực nhà nước hình thành một cách tự
nhiên. Pháp luật là quy tắc khách quan, chính trực và vô tư. Pháp luật chỉ
tồn tại giữa các cơng dân bình đẳng và tự do. Nó phải được bổ sung và điều
chỉnh theo yêu cầu của đời sống xã hội. Hình thức nhà nước thích hợp là
hình thức mà ở đó có sự phân biệt cần thiết giữa ba loại quyền lực: nghị
luận, chấp hành và xét xử. Tiến hóa tất yếu của các nhà nước là từ chỗ nằm
trong tay một người (vua) đến một số người (quý tộc) và của đa số người
(nhân dân). Nguyên nhân chủ yếu làm cho nhà nước sụp đổ là sự quá bình
đẳng hay quá bất bình đẳng. Khi quyền lực nhà nước bị lạm dụng thì kẻ
thống trị sợ mất quyền, người bị trị sợ trừng phạt; người cai trị tàn ác và
tham lam, người bị trị bị bạo ngược và sát hại. Tư cách người công dân

1
7


(động vật công dân) là can đảm, tự do, cao thượng và chính nghĩa. Tuy vậy
nền cộng hịa của Arixtốt là nền cộng hịa của các nhà thơng thái, các cơng
dân - triết gia có đủ điều kiện vật chất và tinh thần thực hiện các quyền của
mình. E.J.Cheaolier nhận xét: “Tia sáng đến từ Hy Lạp cổ đại chắc chắn
không phải là cái duy nhất soi sáng thời kỳ hiện đại, nhưng khơng có nó,

thì nền văn minh và ý thức châu Âu ngày nay đụng phải cơn kịch phát của
cuộc khủng hoảng của nó, sẽ khơng được hiểu biết một cách đầy đủ” [63, 15].
Lịch sử La Mã cổ đại là lịch sử hình thành và củng cố nhà nước và
chế độ chính trị của chính nó. Bộ luật La Mã xuất hiện là một bước tiến bộ
đánh dấu sự ra đời của một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và tạo
điều kiện cho người dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Đối
với La Mã cổ đại những mầm mống tư tưởng và tổ chức chính trị, nhà nước
có liên quan đến NNPQ đã được tích lũy trong điều kiện phát triển cao nhất
và sự sụp đổ sau đó của chế độ dân chủ chủ nô. Theo A.Sudre, “La Mã - tổ
quốc của pháp quyền, có tình cảm và bản năng chính trị nhưng nó đã khơng
có trí tuệ được suy nghĩ về khoa học đó” [63, 135]. Hai đại biểu của trí tuệ
La Mã về NNPQ là Pơlybi và Xixêrơn. Pôlybi (Polybe, 201-120 tr.CN) là
người La Mã đầu tiên nêu lên những tư tưởng quan trọng về nhà nước và
pháp quyền. Theo ơng, “khơng phải lý trí mà cịn kinh nghiệm dạy cho chúng
ta rằng hình thức của chính phủ hồn hảo nhất là hình thức được cấu thành
từ ba hình thức: quân chủ, quý tộc và dân chủ” [63, 140]. Trong đó cơ quan
chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc về quý
tộc và các cơ quan bảo dân (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô). Phân bố
và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm một
nhà nước hùng mạnh và mở rộng đế quốc La Mã ra khắp vùng Địa Trung
Hải lúc bấy giờ.
Xixêrôn (Ceceron, 106-43 tr.CN) cho rằng, nhà nước là một cộng
đồng pháp lý. Nhà nước là của chung nhân dân và là trật tự chung. Nhân
dân là một tập hợp liên kết với nhau bằng sự thỏa thuận về pháp luật và

1
8


bằng tính cộng đồng của các lợi ích chung. Nhà nước chỉ có ở nơi nào

khơng có bạo lực và chuyên quyền. Sự cần thiết của nhà nước bắt nguồn từ
bản chất trốn chạy sự cô đơn và khao khát đời sống cộng đồng của con
người. Công bằng là mệnh lệnh từ lý trí của con người mà nhà nước phải
tn theo. Pháp luật là lẽ cơng bằng chính trực phù hợp với bản chất có
trong tất cả mọi sinh vật. Pháp luật là cơng pháp giữ vai trị điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội. Phục tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người.
Phẩm chất cần có của người cầm quyền là tài năng, tâm hồn hướng thượng,
sự hy sinh vì lợi ích chung và bỏ qua những lợi ích riêng tư khơng chính
đáng. Người cầm quyền là người tốt nhất, chứ không phải người già nhất,
giàu nhất, hay khỏe nhất. Công dân lý tưởng là người tham gia tích cực vào
đời sống chính trị như là biểu hiện cao nhất của đời sống con người và
dành cho xã hội “cái tốt nhất mà tâm hồn và trí tuệ mà mình có được”. Nhà
nước hỗn hợp, kết hợp các yếu tố tích cực của các chính thể qn chủ, q
tộc và cộng hịa là hình thức có thể hạn chế sự thối hóa quyền lực.
Những tư tưởng trên phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm tìm ra
hình thức nhà nước đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội, thốt khỏi vịng
luẩn quẩn của nền chính trị Hy Lạp, La Mã cổ đại là: Chế độ qn chủ bắt
đầu từ những ơng vua có cơng khai quốc, sống vì nước vì dân, nhưng các
thế hệ vua sau đó lại đem đến bất hạnh cho dân và lạc hậu cho đất nước.
Quyền lực của vua trở nên vô giới hạn. Tài năng và đức độ bị vùi dập, sự
phỉnh nịnh và vu cáo sinh sôi. Chế độ quân chủ cuối cùng lại trở thành chế
độ độc tài và thay thế nó là chế độ quý tộc trị. Chế độ quý tộc do một hội
đồng có chủ quyền tối thượng bao gồm những phần tử ưu tú nhất của một
quốc gia nắm giữ. Lúc đầu nó tập hợp được trí tuệ sáng suốt của những
người ưu tú, tránh được sự độc đoán của vua chúa và sự hỗn loạn, dễ kích
động của “đám đơng dân chúng kém hiểu biết”. Nhưng dần dần trong giới
ưu tú xuất hiện cá nhân hay nhóm nhỏ thâu tóm quyền hành và tàn sát nhau
mưu lợi ích riêng. Cuối cùng chế độ quý tộc cũng trở nên độc tài. Chế độ
cộng hịa dân chủ hình thành bằng con đường bốc thăm, trao những chức


1
9


vụ cơng cộng cho những ai có khả năng và uy tín trong nhân dân, nhưng lại
có nguy cơ lạm dụng quyền lực từ một số người được ủy quyền. Dân chủ
trở thành hình thức nhà nước có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển của
lịch sử, nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ tổ chức quản lý
thấp, nên chế độ cộng hòa dân chủ khó có thể tồn tại. Dân chủ là cơng cụ
chế ngự sự lạm dụng quyền hành, nhưng lại dễ trở thành công cụ của
những kẻ mị dân.
Hy Lạp và La Mã là những quốc gia phương Tây đã phát triển có
tính điển hình về chính trị, kinh tế và xã hội thời cổ đại. Tư duy về nhà
nước và pháp quyền của người Hy Lạp và La Mã cổ đại thật phong phú. Tư
duy ấy vừa phản ánh hiện thực chính trị - xã hội biến đổi khơng ngừng, vừa
thúc đẩy hiện thực ấy phát triển. Tư duy về nhà nước và pháp quyền Hy
Lạp - La Mã cổ đại quan trọng đến mức mà "khơng có cái cơ sở của nền văn
minh Hy Lạp và Đế chế La Mã thì khơng có châu Âu hiện đại" [41, 254].
Hay theo cách nói của Ph. Ăng ghen, khơng có dân chủ chủ nơ thì khơng
có châu Âu hiện đại và khơng có CNXH hiện đại.
Như vậy là, xã hội phương Tây ngay từ thời cổ đại đã đề cao vấn đề
dân chủ như một hình thức nhà nước. Nhà nước chỉ là sự thể hiện quyền lợi
chung của công dân và lấy việc phục vụ dân làm mục đích tồn tại. Sự kết
hợp giữa nhà nước và pháp luật là cách tốt nhất để khách quan hóa nhà
nước, hạn chế ý chí chủ quan của người cầm quyền. Nhà nước tuân thủ
pháp luật là tuân thủ ý chí chung của xã hội. Chính trị hiện thực ở phương
Tây cổ đại đã kiểm nghiệm chân lý: “Nhà nước không biết đến pháp quyền
khơng phải chỉ là một nhà nước thối hóa, mà đó là một nhà nước tự tiêu
diệt” [63, 231-232]. Nhà nước dù của vua, quý tộc hay dân đều thơng qua
các cá nhân cầm quyền và có xu hướng bị lạm dụng. Quyền lực nhà nước

ln ln cũng có xu hướng bành trướng và hạn chế quyền tự do của con
người. Để khắc phục tình trạng này cần phân biệt quyền lực nhà nước thành
các quyền khác nhau theo chức năng, nhiệm vụ của nó. Cùng với tư tưởng
quản lý xã hội bằng pháp luật, tư tưởng phân chia và kiểm soát quyền lực

2
0



×