Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.27 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A. Phần mở đầu.

Chúng ta đang sống trong một thời kì có nhiều biến động trên tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội,ở từng nớc, từng khu vực và trên phạm vi toàn thế giới. Đã
quá lâu rồi thời kì mà lịch sử bò lên phía trớc một cách chậm chạp,các quốc gia
có thể sống biệt lập, các dân tộc có thể sống tách rời nhau. Điều quan trọng là mỗi
quốc gia dân tộc mà trớc hết là mỗi Đảng cộng sản cần phải biết mình đang sống
trong giai đoạn lịch sử , với những đặc điểm gì,những mâu thuẫn cơ bản gì,vời xu
hớng phát triển ra sao để chọn hớng đi đúng,phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử,để định ra sách lợc cho đất nớc mình. Với lời cánh báo lịch sử thông qua sự
xụp đổ của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa,đó là do tình trạng trì trệ,khủng
hoảng do chậm nhận ra nhứng khuyết tật của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã
hội,do chậm tiến hành cải tổ cải cách,do chủ trơng cải tổ sai lầm,do không vận
dụng tốt những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ. Vì
thế nên tốc độ tăng trởng kinh tế giảm dần,trình độ kinh tế ngày càng tụt hậu về
phía sau trong cuộc đọ sức về kinh tế với Chủ nghĩa t bản. Nằm trong hệ thống các
nớc Xã hội chủ nghĩa,Việt Nam đang thực hiện quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội, từ
nhận thức sâu sắc về lí luận cũng nh nắm bắt kịp thời thời đại mới Việt Nam bắt tay
vào công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nớc(1986). Bằng những sách lợc hợp lí nớc
ta đã giành đợc những thành tựu đáng khả quan sau 15 năm đổi mới. Nh tại đại hội
Đảng IX đã khẳng định:. Điều đó cũng có nghĩa là nghiên cứu phân tích nền kinh
tế trong tổng thể các mối quan hệ ,sự vận động,phát triển không ngừng của nó. Do
vậy phải vận dụng quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng
duy vật của triết học Mac Lenin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Thực
tiễn nghiên cứu quan điểm sẽ giúp cho nền kinh tế nớc ta tránh đợc những mặt
xấu,.những mặt sai lầm từ nên kinh tế các nớc khác và trên hết là vận dụng những
kinh nghiệm của nó vào quá trình xây dựng nền kinh tế nớc nhà. Bởi vậy việc tìm
hiểu quan điểm đó là hết sức cần thiết đối với những nhà quản lý nói chung ,những
sinh viên và đặc biệt là đối với sinh viên chuyên nghành kinh tế.
Do sự có hạn của thời gian và tầm nhìn còn hạn chế của sinh viên năm thứ


nhất,ở bài viết này em xin đề cập đến một khía cạnh của sự vận dụng hai nguyên lý.
Đó là quan điểm phát triển với việc xem xét nó trong công cuộc đổi mới kinh tế ở
Việt Nam. Với bài tiểu luận này em xin đợc nêu và đánh giá về cơ sở lí luận cũng
nh phản ánh thực tế của quan điểm qua 15 năm đổi mới(1986 - 2000)cùng với
những chiến lợc kinh tế trong những năm đầu thế kỉ XXI.
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B.phần nội dung.
Để hiểu rõ quan điểm phát triển với việc xem xét nó trong công cuộc
đổi mới kinh tế ở Việt Nam nh thế nào. Ơ đây tôi xin đợc trình bày dới hai chơng
viết với mục đích : chơng đầu làm cơ sở lý luận ,làm tiền đề cho chơng sau nghiên
cứu hiên trạng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới coi nh là cơ sở thực tế của
đề tài.
Chơng 1. Quan điểm phát triển
1.Sự phát triển và nguồn gốc của nó theo quan điểm triết học.
1.1.Các khái niệm
a)vận động
Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ trạng thái này
sang trạng thái khác. sự biến đổi chuyển hoá này là vô cùng,vô tận với những
khuynh hớng và tính chất khác nhau. Có những biến đổi làm cho sự vật hiện tợng
mới ra đời,nhng cũng có những biến đổi dẫn đến sự tan rã tiêu vong của các vật thể
vật chất,hoặc cái lạc hậu thay thế cái tiến bộ v.v Khái niệm vận động khái quát
mọi sự biến đổi biến hoá nói chung,dù nó có tính chất,khuynh hớng và kết quả thế
nào.
b)phát triển
Khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận động nói chung. Nó chỉ
khái quát xu hớng chung của vận động, xu hớng vận động đi lên,cái mới ra đời thay
thế cái cũ. Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo các chiều hớng,từ thấp đến cao,từ
đơn giản đến phức tạp,từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Tuỳ theo các lĩnh vực
khác nhau của thế giới vật chất và sự phát triển thể hiện khác nhau.

1.2.Quan điểm phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật chỉ cho chúng ta:
muốn thực sự nắm đợc bản chất sự vật và hiện tợng, nắm đợc khuynh hớng vận
động của chúng phải có quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu khi phân
tích sự vật, hiện tợng trong sự vận động, phải phát hiện các xu hớng biến đổi
chuyển hoá của chúng, khắc phục t tởng bảo thủ trì trệ. Sự phát triển chỉ bộc lộ
ra khi ta so sánh các hình thức tồn tại của sự vât ở những thời điểm khác nhau
trên trục quá khứ hiện tại tơng lai. Nh ta đã biết vận động đi lên sẽ là
khuynh hớng thống trị (xét trên phạm vi lớn ). Và phát triển không phải là vận
động theo đờng thẳng mà chỉ là xu hớng vận động tiến lên. xoay quanh xu hớng
đó, sự vận động có thể diễn ra theo các véc tơ ngợc chiều nhau, đó chính là sự
thống nhất biện chứng giữa biến cố tất nhiên tính xu hớng của vận động trong
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quá trình với biến cố ngẫu nhiên tính vô định hớng của vận động tại một thời
điểm. Mặc dù tại mỗi thời điểm vân động có thể là vô định song ta có thể mô
hình hoá tính đa dạng của véc tơ vô định ấy vào ba nhóm: vận động tiến hoá, vận
động cân bằng, vận động thoái hoá (ngợc với xu hớng tiến hoá). Quan điểm nh
thế cho phép ta hình dung sự phát triển là xu hớng tự vạch đờng đi xuyên qua
muôn vàn sự tiến bộ đào thải và loại bỏ.
.2 Nguồn gốc của sự phát triển
Lê- nin có viết:phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Qua đó ta có thể thấy rằng nguồn gốc của sự phát triển đó là sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng,mọi sự vật và hiện tợng trên
thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong . Mỗi sự vật hiện tợng đều là một thể
thống nhất của các mặt,của các thuộc tính,các khuynh hớng đối lập nhau. Những
mặt này đối lập với nhau nhng lại ràng buộc với nhau tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tợng khách quan mà ,còn là một hiện tợng
phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong giới tự nhiên,đời sống xá hội và t duy
của con ngời. Chẳng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tợng mà

tồn tại trong suốt quá trình phát triển của chúng . Không có sự vật hiện tợng,nào lại
không có mâu thuẫn và không có giai đoan nào trong sự phát triển của mỗi sự
vật,hiện tợng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác
hình thành. Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những
mặt,những thuộc tính, những khuynh hớng trái ng ợc nhau trong mọt chỉnh thể
làm nên sự vật hiện tợng. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập,mặt đối lập nào
nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau
mới tạo thành mâu thuẫn. Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống
nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập ,đó là sự thừa nhận những khuynh
hớng mâu thuẫn , bài trừ lẫn nhau,đối lập,trong tất cả các hiện tợng và quá trình của
giới tự nhiên kể cả tinh thần xã hội. Theo quan điểm của phép biện chứng ,sự đồng
nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó,vừa
là cái khác với bản thân nó. Trong sự thống nhất đã bao hàm sự khác nhau sự đối
lập. Trong mỗi mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu
tranh giữa chúng. Bởi vì ,đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập
này không nằm yên bên cạnh nhau, chúng luôn luôn đấu tranh với nhau. Khái niệm
đấu tranh đợc Lê - nin đặt trong dấu ngoặc kép, vì vậy không nên hiểu khái niệm
đấu tranh theo một nghĩa đơn giản . Khái niệm đấu tranhgiữa các mặt đối lập
có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ nhau phủ định nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối
lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoan. Mỗi giai
đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thờng đợc
biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khác nhau đo biến thành sự đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột
với nhau gay gắt, nếu có điều kiên chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn
nhau, mâu thuẫn đợc giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị
phá hủy, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới đợc hình thành cùng với mâu thuẫn
mới. Mâu thuẫn mới này lại đợc triển khai, phát triển và lại đợc giải quyết làm cho
sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế cho sự vật cũ. Sự đấu tranh giữa các mặt đối

lập đã làm cho cá sự vật không thẻ tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh
giũa các mựt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của mọi sự vận động phát
triển. Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm
thời tơng đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên,tơng đối của các sự vật
hiện tợng. Còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là
nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về vật chất của các sự vật hiện tợng.
Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động,
tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiện tợng trong thế giới vật
chất. Lê - nin khẳng định:sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt
đối, cũng nh sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.
Nghiên cứu sự phát triển ta phải gắn liền với việc tìm ra nguồn gốc của nó, đó
là cái nền tảng cái cốt lõi của vấn đề. Nh trình bày ở trên đó là những cơ sở khi
nghiên cứu quan điểm phát triển. Sự phát triển thống trị trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống,vậy nó thể hiện nh thế nào trong kinh tế.
3) Quan điểm phát triển trong kinh tế
Đối với một nền kinh tế, xu hớng tăng trởng tự vạch đờng đi biểu hiện xuyên
qua cá thời điểm mà ở đó ta có thể nhận thấy hoặc là nó đang ở trạng thái tơng
đói ổn định (tổng cung = tổng cầu) hoặc là mở rộng sản xuất (tổng cung < tổng
cầu) hoặc là trong trạng thái thu hẹp lại sự khủng hoảng và sang trạng thái (tổng
cung > tổng cầu). Cứ mỗi khi nền kinh tế nền kinh tế lâm vào khủng hoảng suy
thoái nếu nó không đủ sức vợt qua đến thời kì phục hồi để tăng trởng về sau thì
nó sẽ bị đào thải và loại bỏ bằng một cuộc cách mạng xã hội hay đảo chính để
thiết lập lại một trật tự kinh tế mới.
Vì vậy, vận động bao hàm trong mình cả sự đào thải,loại bỏ ,nhng phát
triển từ thấp lên cao , từ đơn giản đến phức tạp ngày càng hoàn thiện hơn. cho
nên nguyên tắc phát triển đòi hỏi:
Trong việc hoạch định các chơng trình phát triển kinh tế xã hội của một đất
nớc đòi hỏi phải dự báo đợc xu hớng vận động của nền kinh tế trong tơng lai,
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

đồng thời dự báo đợc xu hớng vận động của các sự kiện , các lĩnh vực có liên
quan nh:
Xu hớng chính trị xã hội
Xu hớng phát triển khoa học công nghệ
Xu hớng tiêu dùng của dân c
v.v
Mọi xu hớng là mọi nguồn lực đòi hỏi phải xắp xếp sao cho không nhữnh
không triệt tiêu nhau, mà còn tạo nên véc tơ tổng hợp lực thúc đẩy nền kinh tế
đến các mục tiêu mong muỗn.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu kinh tế , nguyên tắc phát triển đòi hỏi nhà nghiên
cứu phải quan niệm mục đích của nghiên cứu là dự báo . Bất kì một công trình
nghiên cứu kinh tế nào hay một quan điểm kinh tế nào cũng chỉ thực sự có giá trị
khi nó chỉ ra đợc xu hớng của sự vận động của đối tợng ngiên cứu trên cơ sởkhảo
sát đánh giá các trạng thái tồn tại của nó trong hiện tại và trong quá khứ.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng 2. Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam
từ góc nhìn quan điểm phát triển
1)Nguồn gốc, tiền đề,động lực cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Đó là do sự vận động bên trong của quá trình kinh tế. Giải quyết những mâu
thuẫn giữa lực lợng sản suất và quan hệ sản suất trong phơng thức sản suất. Do
cha nhận thức đầy đủ rằng thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình
lịch sử tơng đối lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đờng, và do t tởng chỉ đạo chủ
quan nóng vội, muốn bỏ qua những bớc đi cần thiết, Đại hội Đảng IV cha xác
định những mục tiêu của chặng đờng đầu tiên. Trong những năm 1976 1980
trên thực tế, chúng ta chủ chơng đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi cha có đủ
các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lí kinh tế đã lỗi thời.
Đại hội lần thứ năm cùng với việc khẳng định lại nhiệm vụ chiến lợc,đã cụ thể
hoá một bớc đờng lối kinh tế trong chặng đờng trớc mắt, đề ra những mục tiêu
tổng quát, những chính sách lớn về kinh tế xã hội, nhng cha kiên quyết khắc

phục t tởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ chơng về cơ cấu
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lí kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trớc hết là cơ cấu sản suất và đầu t, thờng chỉ
suất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng
thực tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành
một cơ cấu hợp lí, cha sử dụng hiệu quả những khả năng mở rộng quan hệ kinh
tế với nớc ngoài.
Trong năm năm 1976- 1980, đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây
dựng cơ bản và phát triển sản suất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và
xắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình
quy mô lớn,không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lơng thực, thực phẩm,
phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu t nhiều mà kết quả
lại thấp.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trên cơ sở xác định lại bớc đi của công nghiệp hoá,đại hội V chủ chơng trong
năm năm 1882- 1985 vừ phát triển vừa xắp xếp lại xản suất, bố trí lại xây dựng
cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu t, nhằm ổn định tình hình kinh tế xã hội, ổn
định đời sống nhân dân tạo tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hoá.
Nhng chúng ta đã không thự hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội lần thứ
V . Nông nghiệp vẫn cha thực sự đợc coi là mặt trận hàng đầu, không đợc đảm
bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật t, tiền vốn và các chính
sách khuyến khích. Công nghiệp sản suất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp
thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về khâu tổ chức, đầu t chính sách. Công nghiệp
nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm
lớn là hầu nh không sắp xếp lại cơ sở sản suất để khắc phục sự chồng chéo, bất
hợp lí, không tập trung đợc nguồn năng lợng, nguyên liệu vật t có hạn vào những
cơ sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản suất hiện có. Mặt khác,
trong xây dựng cơ bản tuy đã đình hoãn một số công trình lớn tập trung vào một
số trọng điểm, nhng về căn bản vẫn ch điều chỉnh hợp lí, không kiên quyết hoãn

những công trình cha thật cấp bách và kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều
công trình quy mô lớn. Khối lợng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị
đọng quá lâu. các địa phơng các nghành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế
hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn và vật t.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc xây dựng những cơ sở và
lực lợng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực l-
ợng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bớc đi thích hợp. Nhng chúng ta cha
xác định rõ ràng nhất quán quan điểm chủ chơng và chính sách cải tạo công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Đã có những
biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế t bản t nhân thành quốc doanh. đối với kinh tế
tiểu sản xuất hàng hoá ít chú ý những đặc điểm về tính chất của từng nghành,
từng nghề, để lựa chon hình thức tổ chức thích hợp, có xu hớng muốn tổ chức
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngay các hợp tác xã qua mô lớn không tính đến khả năng trang bị kĩ thuât, trình
độ quản lí và năng lực của cán bộ. Về nội dung cải tạo, thờng nhấn mạnh việc
thay đổi quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết những
vấn đề tổ chức quản lí và chế độ phân phối làm thờng theo kiểu chiến dịch, gò
ép, chạy theo số lợng, coi nhẹ chất lợng và hiệu quả; sau những đợt làm nóng vội
lại buông lỏng. Do đó không ít tổ chức kinh tế đợc gọi là công t hợp doanh, hợp
tác xã, tổ chức sản xuất chỉ là hình thức, không có thực chất của quan hệ sản
xuất mới.
Việc cha xắp xếp lại các nghành và các cơ sở sản xuất, chậm thay đổi cơ chế
quản lí kinh tế đã dẫn tới làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh,
làm cho kinh tế tập thể chậm đợc củng cố, hạn chế việc sử dụng và caỉ tạo các
thành phần kinh tế khác. Thơng nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán ch đ-
ợc mở rộng , ít tiến bộ về tổ chứcvà phơng thức kinh doanh để làm chủ thị tr-
ờng ;một bộ phận bị lôI cuốn vào những hoạt động tiêu cực, tuồn hàng cho t th-
ơng. Thơng nghiệp t nhân chậm đợc cải tạo. Chúng ta cũng cha đánh trúng và

nghiêm trị bon đầu cơ, buôn lậu, bọn địch phá hoại thị trờng.
Trong nhận thức cũng nh trong hành động, chúng ta cha thật sự thừa nhận cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta còn tồn tảitong một thời gian tơng đối dài,
ch nắm vẵng và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Về cơ chế quản lí cho tới trớc công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986, cơ chế tập
trung quan liêu, bao cấp về căn bản cha bị xoá bỏ. Cơ chế mới cha đợc thiết lập
đồng bộ. Nhiều chính sách,thể chế đã lỗi thời cha đợc thay đổi, một số thể chế
mới còn chắp vá, không ăn khớp thậm chí tráI ngợc nhau. Tình trạng tập trung
quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tợng vô tổ chức vô kỉ luật cũng khá
phổ biến.
Việc chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lí, việc điều hành không nhạy bén,
là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
xuống dới. Một số ngời và cơ sở đã lợi dụng những sơ hở của cơ chế quản lí để
mu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ.
Chúng ta mới nêu ra đợc phơng hớng chủ yếu của cơ chế mới, còn nội dung ,
hình thức, bớc đi, cách làm cụ thể, thì còn nhiều vấn đề cha giảI đáp đợc thoả
đáng cả về lí luận và thực tiễn.
Rõ ràng chúng ta còn thiếu nhiều hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lí, lại cha
chú trọng tổng kết kinh nghiệm. Cho nên lúc bấy giờ phải khắc phục ngay cả hai
khuynh hớng: bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới; và nóng vội, giản đơn, muốn
giảI quyết mọi vấn đề trong một thời gian ngắn.
Suốt những năm trớc đổi mới lĩnh vực phân phối, lu thông luôn căng thẳng rối
ren. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc đã dành nhiều thời giờ vào công
việc này, nhng các giải pháp đa ra chya thực sự có hiêu quả. Tình hình nh vậy là
hậu quả tổng hợp của nhiều yếu tố cùng tác động trong nền kinh tế và đời sống
xã hội.
Trớc hết, đó là những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, và trong cảI tạo xã

hội chủ nghĩa, là tác hại của của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp tồn tại nhiều
năm trong quản lí kinh tế, dãn tới sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung
và cầu ngày càng gay gắt. trong lúc đó lại cha cảnh giác đầy đủ, thiếu những
biện pháp ngăn chặn những phần tử xấu phá hoại. Chúng ta cha có chính sách cơ
bán về tài chính gắn liền với chính sách không đúng đắn về giá cả, tiền tệ tín
dụng, tiền lơng. Nhà nớc không điều tiết đúng mức thu nhập của t thơng, không
tớc đoạt những nguồn thu bất chính, không bảo vệ tốt tài sản quốc gia, cha tập
trung những nguồn thu quan trọng vào ngân sách và phân phối đúng các nguồn
vốn, vật t hàng hoá trong tay. Các khoản chi của ngân sách mang nặng tính bao
cấp và trong một thời gian dài vợt quá nguồn thu. Việc sử dụng các nguồn vốn
vay và viện chợ kém hiệu quả. Chúng ta đã tiêu dùng cả một phần nguồn vốn từ
bên ngoài và quỹ khấu hao cơ bản. tất cả các cái đó gây ra thâm hụt ngân sách,
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lam phát trầm trọng.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Việc giải quyết vấn đề giá, lơng, tiền đã phạm sai lầm . thiếu biện pháp đồng
bộ có hiệu quả để nhà nớc nắm đợc hàng và tiền. Các giải pháp cụ thể về định
mức giá và quản lí giá, về định mức lơng và quản lí quỹ lơng, về đổi tiền và bớc
đi trong việc điều chỉnh giá, lơng, tiền đợc tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo ,
không phù hợp với tình hình thực tế.sai lầm trong lĩnh vực phân phối lu thông là
sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo và quản lí kinh tế trong những năm trớc
đổi mới.
Phát triển kinh tế đi đôi với việc phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội
loài ngời đợc đánh dấu bằng sự thay đổi của các nền văn minh, từ văn minh nông
nghiệp đến văn minh công nghiệp và hiện nay loài ngời đang tiến tới nền văn
minh trí tuệ. Công bằng mà nói, tiếp cận, đánh giá sự phát triển xã hội từ nền văn
minh trí tuệ, từ hoạt động sáng tạo năng động của con ngời, từ sự phát triển của
khoa học, công nghệ điều đó hàm chứa những giá trị nhất định. Song những giá
trị ấy không thể thay thế đợc lí luận về sự vận động sự phát triển của các hình
thái kinh tế - xã hội mà Mác đã xây dựng. Ngợc lại, nó chỉ bổ sung làm sáng tỏ

hơn lí luận của Mác trong thời đại phát triển công nghệ hiện nay. Triết học Mác
nhấn mạnh rằng sự phát triển xã hội, xét đến cùng, bắt nguồn từ sự phát triển của
lực lợng sản xuất, trong đó cơ bản nhất là con ngời đang sống và lao động sản
xuất. Cái khác nhau cơ bản của nền sản xuất không phải không phải ở chỗ ngời
ta sản xuất ra cái gì mà là ngời ta sản xuất bằng cái gì và tiến hành sản xuất nh
thế nào. Lực lợng sản xuất bao giờ cũng là yếu tố động nhất, cách mạng nhất
trong phơng thức sản xuất. Song sự phát triển của lực lợng sản xuất không thể
nằm ngoài quan hệ sẩn xuất. Tuyệt đối hoá lực lợng sản xuất để coi thờng hay
phủ nhận quan hệ sản xuất sai lầm. Cái đảm bảo cho sự phát triển của lực lợng
sản xuất là quan hệ sản xuất, cái kìm hãm, xiềng xích lực lợng sản suất cũng là
quan hệ sản xuất. Bản thân lực lợng sản xuất mới chỉ biểu hiện con ngời với tự
nhiên:thể hiện khả năng và sức mạnh to lớn của con ngời trong cải tạo thế giới
khách quan. Nhng con ngời trong bản tính của mình là con ngời xã hội. Con ngời
10

×