Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "VẤN ĐỀ GIẢM ĐÓI NGHÈO VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM − TẦM NHÌN, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.67 KB, 4 trang )

VẤN ĐỀ GIẢM ĐÓI NGHÈO VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Ở NƠNG THƠN VIỆT NAM − TẦM NHÌN, THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP
THE PROBLEM OF HUNGER AND POVERTY REDUCTION
AND SOCIAL DEVELOPMENT IN VIETNAM’S RURAL AREAS –
VIEWPOINT, CURRENT SITUATION, AND SOLUTIONS

TRẦN THỊ NGUYỆT
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội

TÓM TẮT
Việt Nam được nhân loại biết đến như một điển hình của sự ổn định chính trị, xã hội; như là
tấm gương cho các nước đang phát triển về sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Trải qua
bốn năm kể từ năm thực hiện chiến lược phát triển thập niên đầu thế kỷ 21, đã đến lúc chúng
ta cần nghiên cứu, đánh giá lại tình hình, đặc biệt là đối với khu vực nông thôn.
Trên cơ sở các luận thuyết khoa học về tăng trưởng và về các vấn đề xã hội, đồng thời dựa
vào các kết quả khảo sát thực tiễn, phân tích thực trạng, tác giả đưa ra các kinh nghiệm, giải
pháp tích cực cho nỗ lực giảm mạnh tình trạng đói, nghèo; xố bỏ bất bình đẳng và nguy cơ
phân hố ở khu vực nơng thơn Việt Nam.
ABSTRACT
Vietnam is known as a typical country of political and social stability. It is also a good example
for the developing countries in terms of stable growth and development. Four years have
passed since the implementation of the development strategy at the beginning of the 21st
century, and it is time to study and re-evaluate the situation, especially in the rural areas.
Based on the scientific theories about the growth and social issues, the results of practical
surveys, and the analysis of the current situation, the author presents experience and positive
solutions to increase the reduction of hunger and poverty, to eradicate the inequality and
disintegration in Vietnam’s rural areas.

1. Tầm chiến lược và cách tiếp cận
Chính phủ Việt Nam hiện nay đang nỗ lực thực hiện "Chiến lược phát triển kinh tế - xÃ


hội thời kỳ 2001 - 2010 ". Thể theo yêu cầu của chính phủ Việt Nam, Chương trình phát triển
của Liên hợp quốc (UNDP) đà tuyển dụng một nhóm các chuyên gia tư vấn quốc tế và trong
nước nhằm hoàn thiện bản chiến lược này. Trong đó chứa đựng một nội dung cơ bản là phần
"phát triển xà hội ở nông thôn". Tất nhiên, "phát triển xà hội" là một thuật ngữ có khái niệm
rộng, ở đây chúng tôi chỉ tập trung phân tích những nội dung cơ bản của chiến lược giảm đói
nghèo mà Đảng và Nhà nước đà dày công xây dựng nhiều năm qua. Thực chất, đây là một lĩnh
vực có tầm quan trọng chiến lược, đầy tế nhị và phức tạp, bao gồm những vấn đề nhạy cảm
như sau:
- XÃ hội Việt Nam có phân cực "người giàu" và "người nghèo" không? Việt Nam có
thể làm gì để thúc đẩy việc giảm đói nghèo ở những vùng tăng trưởng chậm và nhờ đó giảm
bớt sự bất công bằng về kinh tế - xà hội đang gia tăng.
- Mạng lưới bảo trợ xà hội có đem lại sự ổn định xà hội trong quá trình chuyển đổi
kinh tế nhanh chóng hay không? ở đó mức sống của những người nghèo, người có trình độ
học vấn và nhận thức xà hội thấp, người yếu thế được bảo trợ sẽ giúp chúng ta xác định được


mô hình xà hội Việt Nam nói chung và bộ mặt của khu vực nông thôn Việt Nam nói riêng vào
năm 2010.
- Thực chất những chỉ tiêu xà hội khá cao so víi ph¸t triĨn kinh tÕ ë ViƯt Nam có tiếp
tục đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xà hội công bằng hay không?
Đối mặt với những vấn đề trên, Việt Nam đà phải huy động nhiều nguồn lực và biến
chiến lược vĩ đại này là công việc của toàn dân, thu hút mối quan tâm ở phạm vi toàn quốc gia
từ vĩ mô đến vi mô và sự quan tâm của cộng đồng tài trợ.
2. Phân tích tình hình chung
1. Theo đánh giá của nhiều học giả và các chuyên gia của Liên Hợp Quốc và tiếp cận
từ thực tiễn cũng như những thông tin công bố từ phía nhà nước, chúng ta thấy được những
thành tùu nỉi bËt cđa ViƯt Nam trong viƯc gi¶i qut đói nghèo và phát triển xà hội ở nông
thôn thời gian qua. Việt Nam đà có những bước tiến đầy ấn tượng trong các lĩnh vực xà hội.
Tỷ lệ xoá đói giảm nghèo đà đưa Việt Nam vào số những nước đứng đầu về giảm đói nghèo ở
bất cứ thời kỳ nào. Việt Nam cũng đạt được chỉ số phát triển con người ở mức trung bình mặc

dù là một nước có xuất phát điểm rất thấp, khởi sự từ nền kinh tế còn nghèo. Khác với hầu hết
các nước đang trong quá trình chuyển đổi, Việt Nam có khả năng tránh được sự suy giảm
nhanh về các chỉ tiêu xà hội và phạm vi đối tượng của các dịch vụ mà trái lại, một số chỉ tiêu
chủ yếu - chẳng hạn tỷ lệ học sinh nhập học ở bậc tiểu học - vẫn được duy trì ở mức rất cao so
víi mét sè n­íc cã møc thu nhËp nh­ Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam có một cơ hội tuyệt vời
để phát huy những thành công này. Kết cấu hạ tầng cơ sở đà có ở nhiều nơi để Việt Nam giờ
đây tập trung vào việc nâng cao chất lượng của các dịch vụ cơ bản và sự tiếp cận của người
nghèo với các dịch vụ đó.
2. Bên cạnh đó, một số dấu hiệu đáng ngại đà trở nên ngày càng rõ nét trong vài năm
qua. Sự khác biệt giữa các vùng với sự khác biệt về mặt địa lý tính theo hầu hết các chỉ tiêu
kinh tế đang tăng lên trong khi khoảng cách về các chỉ tiêu x· héi vÉn cßn lín (dï r»ng cã sù
tiÕn bé rõ rệt trong một vài lĩnh vực).
Một vấn đề ngày càng trở nên rõ ràng là cơ chế hiện hành nhằm đảm bảo sự tiếp cận
của người nghèo với các dịch vụ xà hội cơ bản và mạng lưới bảo trợ xà hội hoạt động
chưa/không có hiệu quả. Mạng lưới bảo trợ xà hội chính thức ít nhằm trúng đối tượng và phạm
vi đối tượng (độ phủ) của nó còn hạn hẹp, hạn chế khả năng của chính phủ trong việc dịu bớt
gánh nặng đè lên những người dân nghèo khi nền kinh tế phát triển chậm lại. Và chất lượng
của các dịch vụ cơ bản còn thấp. Ví dụ, tû lƯ bá häc vµ l­u ban ë cÊp tiĨu học rất cao, vì thế
tình trạng tái mù chữ đà xuất hiện và tỷ lệ không phải là nhỏ. Từ một góc độ khác, chúng ta
thấy rằng tỷ lệ trẻ em mới sinh ra còn rất cao lại đi đôi với tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn
tiếp tơc ë møc cao. Mét thùc tÕ phỉ biÕn lµ nhiều hộ gia đình vẫn còn bấp bênh ngay trên
chuẩn đói nghèo và vì vậy có nhiều nguy cơ tái nghèo (nhất là trong điều kiện nền kinh tế suy
giảm hoặc có biến động mạnh).
Chúng ta thấy rằng, những nhược ®iĨm nµy ë mét møc ®é nµo ®ã ®· trë nên trầm trọng
hơn do những chính sách chưa đồng bộ, thậm chí chưa phù hợp do nóng vội. Đầu tư công cộng
đà tập trung không hợp lý cho một số vùng giàu hơn thông qua chiến lược "cực tăng trưởng",
trong khi sự hỗ trợ tiếp tục cho công nghiệp hoá hướng vào các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) lại làm giảm tổng các nguồn lực hiện có cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và
khuyến khích sự phát triển kém hiệu quả dựa vào việc sử dụng nhiều vốn. Trong một số trường
hợp, các dịch vụ xà hội cơ bản không được đầu tư đúng mức so với các dịch vụ không cơ bản.

Năng lực quản lý ở những vùng nghèo hết sức yếu kém. Điều đó thể hiện ở sự phối hợp
rất lỏng lẻo, yếu ớt giữa các ngành, các cấp chính quyền và cơ sở thực thi chính sách không ổn
định ở cấp xÃ. Hệ thống hỗ trợ hành chính và chuyển giao tài chính giữa các cấp chính quyÒn


không thành công trong việc chống chọi lại các rào cản hành chính ở những nơi mà vấn đề này
gặp phải áp lực lớn nhất. Sự tham gia của cộng đồng vào việc cung ứng các dịch vụ, vào các
thể chế ở nông thôn không đồng đều. Còn thiếu một khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện cho mọi
người dân trong xà hội đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu xà hội chung.
Đồng thời, một số thách thức mới càng cho thấy sự cần thiết phải cải tổ cơ cấu sâu sắc
hơn trong các lĩnh vực xà hội. Dịch bệnh và các hiểm hoạ khác (AIDS, thiên tai, v.v...) có thể
gây thêm sức ép đối với năng lực đối phó với tình trạng đói nghèo của các cơ quan nhà nước
trong vài năm tới.
3. Làm thế nào để tăng tối đa tốc độ giảm nghèo đói, đồng thời giảm đáng kể sự bất
bình đẳng đang gia tăng?
* Bất bình đẳng ở Việt Nam (dù là giữa các vùng, giữa thành thị với nông thôn) ở mức
độ trung bình, vừa phải so với chuẩn quốc tế. Điều đáng lo lắng không hẳn là thực trạng mất
công bằng hiện nay mà chính là những căng thẳng xà hội có thể xảy ra do sự bất công bằng
phát sinh tăng lên trong 10 năm tới. Điều này dễ hình dung nhất là khi cải cách kinh tế vĩ mô
và cải cách ở mọi lĩnh vực không triệt để. Kinh nghiệm cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng trong
tầm dài hạn tăng lên cùng với sự bình đẳng xà hội sẽ trực tiếp góp phần ổn định kinh tế - xÃ
hội và tác động tích cực đến tính bền vững của công cuộc cải cách.
Chúng ta mong muốn, trong thập kỷ tới, tỷ lệ đói nghèo ở dân tộc Kinh sẽ giảm đi gần
một nửa vào năm 2010, xuống còn khoảng 15%. Đối với các dân tộc thiểu số, triển vọng giảm
nghèo đói phụ thuộc vào việc thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế và xà hội như các
chính sách đối với nông nghiệp, chính sách về tài chính, các chính sách về y tế, văn hoá, giáo
dục... Cần phải đẩy nhanh tốc độ giảm đói nghèo vốn đà tương đối thấp trong 5 năm vừa qua,
nếu không, đến năm 2010 có nhiều khả năng trên 50% dân số thuộc các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam vẫn sống cuộc sống nghèo khổ.
Chiến lược quan trọng nhất để giảm đói nghèo ở Việt Nam là khôi phục tốc độ cải tổ,

tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế nhằm tạo việc làm. Tuy vậy, chúng ta vẫn cần chú trọng ba vấn
đề cải tổ nữa, đó là:
- Tư duy lại chính sách vùng nhằm tạo điều kiện cho các vùng nghèo nhất phát triển
nhanh, nhanh hơn các vùng khác.
- Các chính sách ngành nhằm xúc tiến các phương thức tăng trưởng mà các hộ tương
đối nghèo có thể tham gia vào.
- Tạo ra một khuôn khổ chính sách, pháp lý vì người nghèo (vốn, công nghệ, khoa học,
kỹ thuật, kỹ năng sản xuất, trợ giúp pháp lý, y tế cộng ®ång, v.v...)
Theo ®ã, chóng ta cÇn tiÕp tơc sù chun hướng chính sách phát triển nông thôn với
những hành động thực tế. Những bước đi quan trọng nhất bao gồm: Cải cách tài chính công bằng cách tăng cường phân bổ đầu tư thông qua chương trình đầu tư công cộng cho phát triển
nông thôn và cải cách tài chính giữa các tỉnh theo hướng tăng cường phân phối lại cho các tỉnh
yếu kém về ngân sách. Ngoài ra, việc giảm vụ lợi kinh tế và tham nhũng sẽ hạn chế thất thoát
trong các quyết định kinh tế - chính trị cho nông thôn đặc biệt là cho nông nghiệp.
* Bên cạnh đó, chúng ta cần tăng cường khuôn khổ chính sách xoá đói giảm nghèo
(XĐGN) và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia đối với các xà nghèo nhất. Vấn đề này
có thể thực hiện được bằng cách:
- Lồng ghép vấn đề XĐGN vào các chính sách kinh tế vĩ mô chung và chính sách
nghành.


- Tăng cường quản lý hành chính mang tính linh hoạt, thích ừngva xúc tiến các mô
hình phát triển khác nhau đối với các vùng cao;
- Thực hiện trợ cấp cã chän läc: chun tõ trỵ cÊp tÝn dơng sang các dịch vụ kinh tế và
xà hội.
- Cân đối các mục tiêu về công bằng, tính bền vững và hiệu quả trong khuôn khổ
XĐGN thay vì chú trọng quá mức vào riêng vấn đề công bằng;
- Chuyển từ chương trình 1715 x· nghÌo trong thêi kú 1999 - 2003 sang chương trình
theo vùng được mở rộng trong những năm còn lại của thập kỷ này;
- Mọi cải cách, kế hoạch đều phải dựa trên hiệu suất công việc, phải tăng cường tính
chịu trách nhiệm kép của chính quyền cấp dưới đối với cử tri và đối với việc nâng cấp nhằm

đáp ứng tiêu chuẩn tối thiểu chung ở những vùng được ưu tiên quốc gia về XĐGN.

TI LIU THAM KHO
[1]
[2]

[3]

Chng trình phát triển của Liên Hợp Quốc, Việt Nam với Chiến lược phát triển kinh
tế xã hội thời kỳ 2001 -2010, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
Đại học Kinh tế quốc dân, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Kinh tế các trường đại học,
Chính sách và các hình thức tổ chức sản xuất trong nơng nghiệp, nông thôn Việt Nam
thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội, 2000.
Đào Cơng Tiến, Nhận thức về cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2004.



×