Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Vấn đề tự học môn tư tưởng hồ chí minh của sinh viên trường cao đẳng sư phạm vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.3 KB, 56 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập và phát triển, chúng ta đang đứng
trước thời cơ và vận hội lớn, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức. Điều đó yêu cầu đất nước phải có nguồn nhân lực với trình độ cao, với
chất lượng tốt, từ đó địi hỏi nền giáo dục phải được cải thiện đáng kể nhằm
đáp ứng yêu cầu đào tạo con người đủ năng lực và bản lĩnh theo kịp thời đại.
Tuy nhiên, theo đánh giá khách quan, những yếu kém và bất cập của giáo dục
nước ta cả về quy mô, cơ cấu, nhất là về chất lượng, hiệu quả còn thấp, “Chất
lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo cịn thấp. Trình độ kỹ thuật, kỹ năng
thực hành, phương pháp tư duy khoa học, trình độ ngoại ngữ và thể lực của đa
số học sinh còn yếu. Ở nhiều học sinh, sinh viên ra trường, khả năng vận dụng
kỹ thuật vào sản xuất và đời sống cịn hạn chế, số đơng sinh viên tốt nghiệp
chưa có khả năng thích ứng với những biến đổi nhanh chóng trong ngành
nghề và cơng nghệ”.
Trong những năm qua, ngành giáo dục đã có những thay đổi tích cực đáng
kể, từ phong trào thi đua “bốn không” đến sự đổi mới trang thiết bị dạy học và
phương pháp dạy học. Thay đổi phương pháp dạy học là một trong những yếu tố
tác động trực tiếp nhất đến chất lượng giáo dục. Hiện nay, đã có những biện pháp
đổi mới phương pháp dạy học khác nhau, các tư tưởng tập trung vào việc phát huy
năng lực tự học, tự rèn luyện của người học, chuyển dần từ hệ phương pháp “lấy
người dạy làm trung tâm” sang hệ phương pháp “lấy người học làm trung tâm”,
chuyển dần từ phương pháp dạy học sang nghiên cứu.
Vấn đề tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên đang trở thành nội dung
đổi mới cho các trường đại học, cao đẳng nói chung, các trường đại học, cao
đẳng sư phạm nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Việc tự học không
chỉ có tác dụng nâng cao hiệu quả học tập ở hiện tại mà hiệu quả của nó cịn
được khẳng định lâu dài trong tương lai. Mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh là một
mơn khoa học lý luận giữ vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách
1



người thầy. Đối với trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc, vấn đề tự học của
sinh viên được quan tâm ở tất cả các mơn, trong đó có mơn Tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tuy nhiên, việc dạy - học mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Cao
đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc hiện nay còn nhiều điểm tồn tại, chưa đáp ứng được
yêu cầu dạy học đặt ra. Vì vậy việc nghiên cứu thực trạng và đưa ra các giải
pháp để nâng cao chất lượng tự học là hết sức rất cần thiết.
Xuất phát từ những lý do trên mà chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề tự
học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên trường Cao đẳng Sư Phạm
Vĩnh Phúc” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã từ lâu trong lịch sử lý luận dạy học, vấn đề tổ chức hoạt động tự học
của sinh viên đã được nhiều nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Các tác giả đã
đề cập đến vấn đề tổ chức hoạt động tự học của sinh viên ở nhiều góc độ khác
nhau, với những đối tượng nghiên cứu khác nhau. Việc tổ chức hoạt động tự
học của sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ngày càng được quan
tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học như:
GS. Lê Khánh Bằng: “Tổ chức phương pháp tự học cho sinh viên” .
PGS. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức: “Hoạt động tự học của sinh viên ở đại học”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là mơn học mới được ban hành theo quyết định
số 35/2003/QĐ-BGD&ĐT ngày 31/07/2003 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và
đào tạo, là mơn học có hệ thống tri thức rộng lớn, đa dạng, phong phú, yêu
cầu phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động tự học của sinh viên vẫn là mối quan
tâm lớn đối với các trường đại học, cao đẳng, và chưa được nghiên cứu nhiều,
hoặc chỉ được nghiên cứu ở nhiều giác độ khác nhau. Từ các cơng trình
nghiên cứu nói trên, chúng tơi lấy đó làm cơ sở nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động tự học mơn Tư tưởng

Hồ Chí Minh của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc, để từ đó
2


đưa ra biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tự học mơn Tư tưởng Hồ
Chí Minh trong q trình đào tạo, góp phần đổi mới phương pháp dạy học bộ
mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề tự học
- Tìm hiểu cơ sở thực tiễn của hoạt động tự học của sinh viên trường Cao
đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hoạt động tự học mơn Tư tưởng Hồ
Chí Minh ở trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề tự học mơn tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên
trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu vấn đề tự học môn tư tưởng Hồ Chí Minh của
sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc và đưa ra một số biện pháp
nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên trong q trình học tập mơn Tư
tưởng Hồ Chí Minh.
5. Những đóng góp của đề tài
- Về lý luận: đề tài làm sáng tỏ lý luận tự học môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh của sinh viên, phân tích sự cần thiết phải nâng cao năng lực tự học ở
môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên.
- Về thực tiễn: đề tài làm sáng tỏ thực trạng dạy và học môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Phúc, chỉ rõ nguyên
nhân của thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tự
học mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên. Hơn nữa, nếu thực hiện được

các biện pháp đưa ra, đề tài sẽ góp phần vào việc nâng cao ý thức tự học cho
sinh viên không chỉ ở mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh mà cịn ở các mơn học
khác, đồng thời sẽ góp phần trau dồi, rèn luyện, tri thức môn Tư tưởng Hồ

3


Chí Minh, giúp sinh viên khơng ngừng học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh để trở thành những nhà giáo ưu tú, những công dân tốt.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, một số nguyên tắc có tính
chất phương pháp luận Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp Lịch sử - logic, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê…
7. Kết cấu của đề tài
Gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự họcng 1: Cơng 1: Cơ sở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự học sở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự học khoa học của việc nâng cao hoạt động tự họcc của việc nâng cao hoạt động tự họca việc nâng cao hoạt động tự họcc nâng cao hoạt động tự họct động tự họcng tự học học của việc nâng cao hoạt động tự họcc
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự họcng 2: Thự họcc trạt động tự họcng vấn đề tự học mơn Tư tưởng Hồ Chí Minhn đề tự học mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh tự học học của việc nâng cao hoạt động tự họcc môn Tư tưở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự họcng Hồ Chí Minh Chí Minh
của việc nâng cao hoạt động tự họca sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúcng Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúcng sư phạt động tự họcm Vĩnh Phúcnh Phúc
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự họcng 3: Mộng tự họct số biện pháp nâng cao hoạt động tự học môn Tư biệc nâng cao hoạt động tự họcn pháp nâng cao hoạt động tự họct động tự họcng tự học học của việc nâng cao hoạt động tự họcc môn Tư
tưở khoa học của việc nâng cao hoạt động tự họcng Hồ Chí Minh Chí Minh cho sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúcng Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúcng Sư phạt động tự họcm Vĩnh Phúcnh Phúc

4


Chương 1:

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO
HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
a) Một số quan niệm về “tự học”
Ngay từ thời cổ đại, quan niệm tự học đã được các nhà khoa học nhắc
đến, mặc dù ở các mức độ khác nhau.
Phương Tây:
Cách chúng ta 2500 năm Hêraclitus (530 - 475 TCN) nhà hiền triết
Hi Lạp cổ đại đã nhận định rằng: "Giáo dục, dạy học khơng phải là rót kiến
thức vào đầu người học như người ta rót chất lỏng vào chai thông qua cái
phễu. Thực chất giáo dục là thắp lên ngọn đuốc để soi sáng, để người học
nhận ra những con đường, tự mình chọn lấy cho mình một con đường rồi tự
bước đi trên con đường đã chọn, dưới ánh sáng của ngọn đuốc ấy".
Nghĩa là người học phải năng động, tích cực tự học. Giáo dục chỉ là soi
sáng để người học tự chọn rồi tự bước đi. Chứ người dạy không áp đặt con
đường và cũng không bước đi thay cho người học. Nghĩa là người học phải biết
tự học, tự học một cách tự chủ, tự lực, tự giác dưới sự soi sáng của người dạy.
Nhà hiền triết Hi Lạp cổ đại Platon (427 - 348 TCN) đặc biệt coi trọng sự
học. Theo Platon mọi người đều phải học và học đến nơi đến chốn. Ngay thời
đại của ông cách chúng ta hơn 2300 năm, Platon khẳng định: "Ngay tầng lớp
nông dân và binh sĩ cũng phải học ít nhất là 30 năm trước khi hành nghề. Còn
quan lại để cai trị dân cần được học thêm 15 năm nữa. Vị chi 45 năm học tập
thì mới cai trị được người khác". Đặc biệt là người thầy, để dạy người anh ta
phải được giáo dục đến nơi đến chốn. Bởi "người thợ giày tồi thì khách hàng
có người phải xỏ chân vào chiếc giầy khơng vừa vặn chút ít. Cịn người thầy
giáo tồi thì hại cả bao thế hệ".
5


Để học hành đến nơi đến chốn như vậy vào thời cổ đại thì con đường chủ
yếu vẫn là tự học, học thường xuyên và lâu dài.

Nhà hiền triết Aristote (384 - 322 TCN) đặc biệt nhấn mạnh tính độc lập
ở người học. Sau 20 năm trời ăn học ở Viện Platon, Aristote đã chịu ảnh
hưởng sâu nặng tư tưởng của Platon. Platon đặt hi vọng vào người học trò của
mình, nhưng sau khi Platon tạ thế Aristote đã đi theo con đường riêng của
mình. Câu nói quan trọng đó là: "Platon là người thầy quan trọng, rất quan
trọng đối với tơi. Song chân lí cịn quan trọng hơn Platon".
Phải có một tư tưởng độc lập suy nghĩ, một ý thức tự tin, tự khẳng định
và tự bộc lộ cao độ mới có thể tự mình tìm một lối đi riêng như vậy. Hệ quả
ấy khơng thể có được nếu thiếu ý thức tự học.
Phương Đông
Khổng Tử (551 - 479 TCN) người thầy tiêu biểu của muôn đời và không
riêng của Trung Hoa đã hết sức coi trọng sự học và đặc biệt coi trọng người
học. Khổng Tử luôn nhấn mạnh tính chủ động, tích cực, độc lập ở người học.
Ơng nói: "Ai khơng biết tức giận vì tri thức hạn hẹp của mình, ta khơng gợi
mở cho. Ai khơng biết tự mình nỗ lực bộc bạch tâm tư, ta khơng giúp phát
biểu tư tưởng được. Vật có bốn góc, ta vén cho một góc, ai khơng tự mình
vén cho ba góc cịn lại thì...là người khơng thể giáo dục lại được".
Nghĩa là Khổng Tử địi hỏi mơn sinh phải biết tự học - tự hành. Học trò
phải chủ động, tích cực học gấp ba lần người dạy. Đặc biệt Khổng Tử địi hỏi
người học phải tích cực suy nghĩ, suy nghĩ độc lập để phát hiện vấn đề và tự
đặt câu hỏi nêu vấn đề ra trước để người dạy giải đáp. Khơng những vậy
Khổng Tử cịn u cầu người học phải học bằng cả tâm hồn - học một cách
vui thú, ơng nói: "Biết mà học khơng bằng thích mà học, thích mà họct mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học học khơng bằng thích mà học, thích mà họcc khơng bằng thích mà học, thích mà họcng thích mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học học khơng bằng thích mà học, thích mà họcc, thích mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học h ọc khơng bằng thích mà học, thích mà họcc
khơng bằng thích mà học, thích mà họcng vui mà học khơng bằng thích mà học, thích mà học học khơng bằng thích mà học, thích mà họcc".- Luận ngữ.n ngữ..
Mặc Tử (475 - 390 TCN), với sự phân biệt ba loại tri thức: Thân tri, văn
tri, trí tri, thì ngồi văn tri: nghe mà biết, cịn thân tri: tự thân nhận biết, và trí
tri: tự suy luận mà biết, đều do tự chiêm nghiệm, tức là do tự học mà biết vậy.

6



Mạnh Tử (372 - 289 TCN) cũng khẳng định: "Đọc sách mà tin ở sách thì
thà đừng đọc sách cịn hơn, độc lập phê phán và tiếp thu có chọn lọc, đề cao
tính tự chủ, tự lực trong học tập - yếu tố cốt lõi của tự học vậy".
Tóm lại, quan điểm tự học của phương Đông và phương Tây thời cổ đại
đều cho rằng tự học nghĩa là người học phải năng động tích cực, phải có tư
tưởng độc lập suy nghĩ, một ý thức tự tin, tự khẳng định mình tìm lối đi riêng.
Quan niệc nâng cao hoạt động tự họcm tự học học của việc nâng cao hoạt động tự họcc của việc nâng cao hoạt động tự họca Hồ Chí Minh Chí Minh
Hồ Chí Minh, với tư cách là một nhà văn hoá kiệt xuất, nhà giáo dục
thực thụ, nhà sư phạm thiên tài, đã trực tiếp đào tạo ra nhiều thế hệ học trò
xuất sắc, những chiến sĩ cách mạng kiên cường, và để lại trong kho tàng văn
hố dân tộc một hệ thống lí luận giáo dục vô cùng uyên bác. Cuộc đời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là một tấm gương sáng về tự học - thực hiện
tự học trong suốt cuộc đời của mình, mà cịn để lại cả một quan niệm và hệ
thống lí luận đầy đủ về tự học. Về cách học "phải lấy tự học làm cốt, do thảo
luận giúp vào".
+ Bằng thái độ kiên trì tự học suốt đời, người học có thể tự học mọi nơi,
khai thác mọi nguồn kiến thức có thể có.
+ Trước hết, người học phải biết “học ở sách vở”. Phải biết đọc sách đọc
nhanh và có ghi nhớ. Hồ Chủ tịch dạy “ngồi cách học ở trường, ở lớp” cịn
có thể “học trên sách báo”.
+ Kế đến là học trong cuộc sống. Bản thân cuộc sống là quyển sách lớn
nhất mà người học phải siêng “đọc” – nghĩa là tự nghiên cứu, chiêm nghiệm.
Hồ Chủ tịch dạy: “có một cách học rất tốt người học ai cũng có thể tham gia
hàng ngày, đó là cách học tập ngay trong sản xuất, học tập những người,
những tổ, những đơn vị tiên tiến…”.
+ Tiếp theo là học ở bạn bè, ở đồng nghiệp. “Học lẫn nhau” là lời dạy
của Hồ Chủ tịch, đồng thời cũng là phương châm hành động của thanh niên,
học sinh nước ta từ lâu nay. Ông cha ta đã từng đúc kết “học thầy không tày


7


học bạn”, Hồ Chủ tịch dạy: “từ trên đến dưới, các cấp bậc đều tự phải nghiên
cứu, học tập luôn luôn cầu tiến bộ”.
+ Cuối cùng người học phải biết học ở nhân dân. Nếu đời sống là một
quyển sách vĩ đại thì nhân dân là người thầy lớn. Hồ Chủ tịch đặc biệt quý
trọng nhân dân và khuyên mọi người phải biết học nhân dân... “Dân rất thông
minh, quần chúng hay kinh nghiệm, sáng kiến rất nhiều. Chỉ cần mình biết
học Người kết luận “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân
dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn” và cùng nhân dân tự học:
phải lấy thực tế hành động đấu tranh hằng ngày để giáo dục, làm cho quần
chúng thấy lực lượng của họ, phát huy sáng kiến, tự họ giải quyết, tự họ nâng
cao địa vị kinh tế, chính trị, văn hoá của họ.
- Tự học tất cả mọi mơn học
+ Người nhấn mạnh:
• “Phải chăm lo học tập văn hố, học tập kỹ thuật, học tập nghiệp vụ…”
• “Muốn xây dựng CNXH thì nhất định phải có học thức. Cần học văn
hố, chính trị, kỹ thuật”.
• “Học làm tính, học chính trị, học lịch sử, học khoa học thường thức.
Rồi gắng học cao hơn nữa!”.
+ Hồ Chủ tịch thường xuyên nhắc đến sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hố,
khoa học với chính trị. Nếu khơng học tập văn hố thì khơng thể tiếp thu khoa
học kỹ thuật và nghiệp vụ chun mơn. Mà khơng có văn hố, khoa học kỹ
thuật thì làm sao đạt đến đỉnh cao của chính trị? Nhưng nếu chỉ là học văn
hố và khoa học kỹ thuật mà khơng học chính trị thì “như người nhắm mắt
mà đi”, làm sao biết đi đâu về đâu. Trong khi tự học, người học cần có ý chí
và học cả phương pháp học nữa. Người đã từng dạy: “Muốn học tập có kết
quả tốt thì phải có thái độ đúng và phương pháp đúng ”.
+ Và cuộc đời của Hồ Chí Minh là một dẫn chứng điển hình: tự học

ngoại ngữ, tự học viết văn, viết thơ, tự học cách tổ chức cuộc sống theo khoa
học, tự học lý luận, tự học chính trị, quân sự, tự học triết học, tự học ngoại
8


giao, tự học quan hệ quần chúng… Mà kết quả là lĩnh vực nào cũng thông Tự học là học một cách tự động.
Hồ Chí Minh đã từng căn dặn “phải biết tự động học tập”. Hồ Chí Minh
đã định nghĩa: “tự động không phải là dựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay
sở, tự mình biết thực hành, cơng tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú”.
Vậy “tự động học tập” tức là học tập một cách hồn tồn tự giác, tự chủ
khơng đợi ai nhắc nhở không nhờ ai phải giao nhiệm vụ. Tự học chính là tự
quản lý việc học tập, tự mình chủ động vạch kế hoạch, học tập cho chính
mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình
làm chủ thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình.
Tự học là một hoạt động đòi hỏi chủ thể phải có tính độc lập, tự chủ, tự
giác và kiên trì thì mới đạt kết quả. Do đó tự học gắn bó với q trình tự giáo
dục. Tự giáo dục nhằm củng cố và phát huy năng lực tự giác thực hiện những
trách nhiệm cá nhân. Tự học có hướng dẫn chính là cá nhân tự chủ việc học
của bản thân, được sự giúp đỡ và tăng cường của một số yếu tố như giáo viên,
các nhà chuyên môn… “tự động học tập”chỉ có giá trị khi người học biết tự
giác tiến hành xem xét, đánh giá và điều chỉnh hành vi, hoạt động của bản
thân theo những chuẩn mực của tập thể, xã hội quy định. Tự kiểm tra có ý
nghĩa rất lớn đối với hoạt động học tập và giáo dục vì mọi mục tiêu, kế hoạch
giáo dục có đạt được hay không và đạt đến mức độ nào khơng chỉ dựa vào tác
động từ phía giáo viên và nhà trường, mà cịn dựa vào tính tự giác học, tự
giáo dục, tự kiểm tra. Tự đánh giá là một hoạt động khơng thể tách rời của
q trình tự học và tự giáo dục, vì nó đảm bảo cho các quá trình này tiến triển
đúng hướng và vững chắc theo mục tiêu đã định.
- Lấy tự học làm cốt
Vai trò của tự học đã được Hồ Chí Minh xác định là “làm cốt”. Cốt ở đây

có thể hiểu là cốt yếu, là chủ cốt, là nòng cốt, là cái sườn, là cái cốt lõi. Như
vậy, tự học chính là yếu tố cốt lõi của hoạt động học, là bộ khung, nội lực
quyết định chất lượng học tập. Các yếu tố khác là ngoại lực. Học mà thiếu tự
học chỉ là một cơ thể khơng có xương khó đứng lâu được. Để thực hiện vai
9


trò quan trọng như vậy, tự học phải xuất phát từ một mục đích cao cả, với
những mục tiêu cụ thể rõ ràng.
- “Do chỉ đạo giúp vào”
Nếu quản lý mà khơng phát huy nội lực của người học, thì dù bạn bè có
tích cực mấy cũng chỉ được một cạnh của hình tam giác. Muốn cả ba cạnh để
thành hình tam giác, dạy học trước hết phải phát huy nội lực: tự học làm cốt,
rồi người học tranh thủ tìm kiếm bạn bè và sự lãnh đạo của các cấp giáo dục
nhất là các thầy cô.
Chỉ đạo chỉ là một ngoại lực giúp thêm vào. Tự học mới là nội lực, là
yếu tố quyết định bên trong quá trình học tập.
- “Do thảo luận giúp vào”
Thảo luận với thấy, với bạn, với tổ, với nhóm học tập cũng chỉ là ngoại
lực giúp vào. Tự học vẫn là nội lực, trực tiếp quyết định, vai trò của thảo luận
tập thể, hội thảo, xêmina…ngày càng được đề cao vì nó phát huy trí tuệ tập
thể “ba ơng thợ da bằng Gia Cát Lượng”. Tuy nhiên, muốn đạt kết quả, mỗi
thành viên dự hội thảo, nghĩa là phải cố gắng gia công chuẩn bị của cá nhân.
Ai có nội lực tự học lớn, người đó mới có thể đóng góp tích cực cho thảo luận
được. Vai trò tự học cá nhân vẫn là cốt lõi.
- Tự học phải thường xuyên, mọi lúc, mọi nơi
Hồ Chí Minh khuyên “Trong mọi hoạt động cách mạng, chúng ta đều có
thể và đều phải học tập, tự cải tạo” lúc nào cịn sống, lúc đó cịn phải học”.
Bất kể lúc nào, bất kỳ ở đâu, mỗi người đều phải “tìm đủ mọi cách mà học”
và Hồ Chí Minh đã làm gương” mỗi ngày học từ mới, đều đặn, khơng sót

ngày nào; học ngay lúc lao động, trong sinh hoạt hàng ngày.
Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tự học là một dịng chảy liên tục,
người học khơng được để cho nó gián đoạn, khơng ngắt qng; dù cơng việc
có bề bộn, dù cuộc sống có tất bật đến đâu cũng không ngừng tự học. Thật
vậy, dù bận trăm cơng nghìn việc ở cương vị chủ tịch nước, Hồ Chí Minh vẫn
thường xuyên tự học.

1
0


Hồ Chí Minh ân cần căn dặn cụ thể: “ khơng phải chỉ ở tại nhà trường, có
lên lớp mới học tập, tu dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo được”. Bất cứ ở nơi đâu
người cũng tự học. Tự học như hơi thở của cuộc sống. Đối với mỗi người học,
ở trường chỉ là một phần, phần chủ yếu là phải học trong lao động, trong công
tác, trong hoạt động thực tiễn. Cũng khơng phải chỉ có những người thầy ở
trong các trường lớp mà cịn tìm người thầy ở những người xung quanh, để
rồi lĩnh vực nào Người cũng thành thạo tuyệt vời, trở thành anh hùng, thành
nhà văn hoá kiệt xuất của thế giới.
- Tự học để phát triển người, phát triển nhân cách
Khi xem xét học tập với tư cách là một hoạt động thì người học cần thiết
phải đặt ra câu hỏi: Vì sao phải học và học để làm gì? Ngay từ những năm
1947, Hồ Chủ tịch đã nói: “Học hành là vơ cùng. Học càng nhiều, biết càng
nhiều càng tốt!”. Sang năm 1953, Hồ Chủ tịch lại căn dặn: “Muốn tiến bộ mãi
thì phải học tập, học trong sách báo, trong công tác …, học ở anh em, học hỏi
quần chúng…Học tập để phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm”. Đến
năm 1958, Hồ Chủ tịch nhắc lại: “Phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để
tiến bộ mãi”. Rõ ràng các từ “học”, “học tập” trong các đoạn trích trên đây
đều là “tự học”, “tự đào tạo”.
- Tự học để tự khẳng định mình

Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì mỗi người cần tự học để tự
khẳng định mình. Các mục tiêu về tự học mà người đưa ra hoàn toàn phù hợp
với mục tiêu ở thế kỷ XXI, được xem là 4 trụ cột của giáo dục thế giới: Học để
biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình. Hồ Chí Minh
mong muốn mọi người giải phóng nhân cách để được độc lập, tự do thực sự.
Điều này đòi hỏi giáo dục phải làm phát sinh tính năng lực sẵn có của anh em.
Muốn vậy phải phát huy tiềm năng, nội lực của mỗi người tự bộc lộ, tự khẳng
định mình. Điều này chỉ có thể thực hiện được thơng qua con đường tự học. Chỉ
có tự học mới đánh thức dậy tiềm năng còn đang ngái ngủ ở người học, tự người
học bừng tỉnh dậy mà tự bộc lộ mình. Ai tự bộc lộ hết mình mới làm phát triển

1
1


hồn tồn những năng lực sẵn có của mình, mới xác lập và khằng định vị trí có
thể có của mình trong cuộc đời, trong sự nghiệp tương lai. Chính trong ý nghĩa
này mà tự học mang ý nghĩa giải phóng, ý nghĩa nhân văn cao đẹp nhất.
- Tự học suốt đời
Hồ Chí Minh khẳng định: “cịn sống cịn phải học”. Năm 71 tuổi, Người
cịn nói: “Tơi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học”. Để học suốt đời như
vậy, chủ yếu người học phải tự học, bởi sự tự học là vơ cùng mà thời gian học
là có hạn. Khơng ai có thể cho mình là biết đủ rồi dù ở địa vị nào: “Ai ai
cũng phải tự mình cố gắng học tập”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học khơng
có giới hạn tuổi, cũng khơng phân biệt giới tính, sang hèn, vị trí xã hội… Tự
học khơng chỉ là quyền lợi của mỗi người mà cịn là nghĩa vụ, trách nhiệm
của từng người đối với cộng đồng, xã hội mà mình đang sống; ai ai cũng phải
tự học, “tự cố gắng học tập” và “còn sống thì cịn phải học” bởi “khơng ai có
thể tự cho mình là biết đủ rồi”. Do vậy, mỗi người phải học “không biết chán”
và học, học nữa, học mãi, học suốt đời! Để học suốt đời thì người học phải

biết tự học và tự có phương pháp, có cách thức và có ý thức.
- Tự học có ý thức, có cách thức
+ Hồ Chủ tịch khuyên: phải chú ý tâm thế và môi trường học tập, phải
tạo hứng thú học.
Ngay từ năm 1949, khi cách mạng nước nhà cịn vơ vàn những thử thách,
khó khăn, Người đã khơng qn nhắc nhở ngành Giáo dục tạo hứng thú cho học
sinh: “Trong lúc học cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần cho
chúng học. Ở trong nhà, trong trường, trong xã hội, chúng cũng đều vui, đều học”.
Và Người từng khuyên bảo thanh niên: “Thanh niên phải chuyên tâm học
hành và cơng tác, nhưng cũng cẫn có vui chơi, vui chơi lành mạnh là bộ phận
trong sự sinh hoạt của thanh niên”.
+ Nguyên tắc tự học của Hồ Chí Minh:
• Nguyên tắc thống nhất giữa nội lực và ngoại lực, ngoại lực là quan
trọng, nội lực là quyết định. Hồ Chí Minh thường khun phê bình và tự phê
1
2


bình là vũ khí quan trọng, Hồ Chí Minh khun: “lấy tự học làm cốt, do thảo
luận và chỉ đạo giúp vào”.
• Nguyên tắc “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “thực tiễn khơng có lý luận hướng
dẫn là thực tiễn mù qng; lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
sng, từ tư tưởng lớn đó mà đi đến nguyên lý giáo dục: “học đi đôi với hành;
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội: tự học
cũng khơng thể thốt ly nguyên lý ấy.
• Nguyên tắc thống nhất giữa Đức và Tài
Theo Người, Đức là gốc “có Tài phải có Đức. Có Tài khơng có Đức
tham ơ hủ hố, có hại cho nước. Có Đức khơng có Tài như ơng bụt ngồi trong
chùa, khơng giúp ích được gì cho ai”.

+ Các phương pháp tự học mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng:
- Phương pháp quan sát, đọc sách, phân tích - tổng hợp, đáng giá, ơn
luyện, tự kiểm tra, hình tượng hố, văn vần hóa, đơn giản hóa.
Như vậy, cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về
tự học, về quá trình tự học: tự học kiên trì, bền bỉ, tự học mọi thứ, mọi lĩnh
vực một cách hiệu quả.
Tư tưởng tự học của Người đã trở thành bài học khả thi cho mỗi người
Việt Nam trong thời đại hiện nay, đó là một hành trang cực kỳ quý báu và còn
nguyên giá trị, ngày càng tỏ rõ giá trị cho các thế hệ người dạy và người học,
hôm nay và cả mai sau.
Quan điểm của các nhà khoa học về tự học:
Các nhà giáo Việt Nam rất quan tâm đến tự học, gần đây nhiều nhà giáo
đã dày công nghiên cứu về tự học như:
GS.TSKH.Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Duy Cần, Bùi Kim
Phượng.
GS.TSKH. Viện sĩ Nguyễn Cảnh Tồn khẳng định: "Tơi ln chủ động
tìm học, tự học nội khố, cũng như ngoại khoá. Học kiến thức, học cách tư
duy, học rèn luyện tính cách, học cách làm việc, học cách tìm tịi và khám phá
1
3


bí mật. Thật tuyệt vời khi tự mình khám phá giới tri thức".
Bằng kinh nghiệm tự học rất thành công qua trải nghiệm bản thân từ bé,
công cuộc thử nghiệm lâu dài từ hệ đào tạo từ xa. GS.TSKH. Viện sĩ Nguyễn
Cảnh Toàn đã định nghĩa: “Tự học là tự mình động não, tự mình sử dụng các
năng lực trí tuệ như (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả
năng lực cơ bắp như (khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất cá nhân
của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan như (trung
thực, khách quan, cầu tiến…), để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó

của nhân loại, biến số thành sở hữu của mình".
Theo Giáo sư, tự học thể hiện ở các dạng:
Tự học khơng có thầy - tự học ở mức độ cao: Người học tự học, tự đọc,
tự nghiên cứu sách vở.
Tự học có hướng dẫn: Người học có sách vở, và có thêm thầy hướng dẫn
từ xa bằng tài liệu hoặc bằng các phương tiện viễn thơng khác.
T học khơng bằng thích mà học, thích mà họcc giáp mặt với thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.t với thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.i thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.y, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy. nhà học khơng bằng thích mà học, thích mà học t học khơng bằng thích mà học, thích mà họcc theo s hưới thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.ng dẫn của thầy.n của thầy.a thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.y.
Tự học có nhiều quan niệm khác nhau nhưng quan niệm chung nhất về tự
học được các nhà khoa học khẳng định: Tự học là một bộ phận không thể tách
rời của quá trình học tập, là quá trình mà người học tự mình hoạt động, lĩnh
hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành khơng có sự hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên, và có sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo.
Đây là phương thức học tập cơ bản của giáo dục khơng chính quy, giáo dục
thường xun, đồng thời cịn là bộ phận khơng thể tách rời của q trình học
tập có hệ thống trong các trường học nhằm đào sâu, mở rộng để nắm vững
kiến thức của học sinh.
Tự học chính là quản lý việc học tập, tự động vạch kế hoạch học tập rồi
tự triển khai thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự làm chủ thời gian để
học và tự kiểm tra, đánh giá việc học của mình bởi tự học là khơng ai bắt
buộc mà tự mình tìm tịi, học hỏi để hiểu biết thêm. Tự học là một hoạt động

1
4


địi hỏi chủ thể phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao thì mới đạt
kết quả, do đó tự học gắn bó với q trình tự giáo dục.
b) Khái niệm phương pháp:
Thuật ngữ "phương pháp" bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là Methodos có
nghĩa là con đường, cách thức để đạt được mục đích nhất định.

Có nhiều quan niệm khác nhau về phương pháp:
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về phương pháp: Đại diện điển hình
cho quan niệm đó là Xơcơrat, Hêghen. Xơcơrat quan niệm: Phương pháp là
cách thức phát hiện mâu thuẫn trong đàm thoại, tranh luận, luận chiến thông
qua một loạt các câu hỏi để người đó thấy được điều ngu dốt của bản thân. Đó
là nghệ thuật tranh luận để đi đến nhận thức chân lí và loại bỏ sai lầm.
Hêghen khi đề cập đến bản chất của phương pháp lại cho rằng: Phương pháp
là ý thức về hình thức của sự vận động nội tại của bản thân nội dung. Phương
pháp là khái niệm thuần tuý, chỉ có quan hệ với bản thân nó. Do đó là quan hệ
đơn giản với bản thân nó.
Như vậy chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng phương pháp chỉ là sản
phẩm thuần tuý của tư duy con người. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho
rằng phương pháp là cách thức thực hiện ý niệm tuyệt đối. Điểm giống nhau
là cả hai quan niệm trên coi phương pháp là vấn đề thuần tuý của tư tưởng, tư
duy, tinh thần.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về phương pháp. Điển hình
cho quan niệm này là quan niệm của hai nhà hiền triết PhanxiBêCơn và
RĐềCáctơ. PhanxiBêCơn là người coi trọng phương pháp, khi đề cập đến bản
chất của phương pháp ông cho rằng: Phương pháp là sợi chỉ cấp thiết dẫn
đường, là ngọn đèn pha soi đường cho người đi trong đêm tối, là con đường
ngắn nhất để đi tới chân lí, đi tới phát minh và sáng tạo. Người có phương
pháp sẽ đi tới đích nhanh hơn người khơng có phương pháp. ĐềCáctơ cho
rằng phương pháp là con đường đạt đến chân lí bằng phương pháp suy lí,
phương pháp nhận thức tuân theo những quy tắc nhất định. Thiếu phương
1
5


pháp thì người tài cũng khơng đạt được kết quả, cũng lỗi thời, có phương
pháp thì người tầm thường cũng làm được những điều phi thường.

Thực ra quan niệm của BêCơn và ĐềCáctơ về bản chất của phương pháp
chỉ là hai thái cực của một sai lầm - quan niệm siêu hình về phương pháp,
tách rời hai giai đoạn cảm tính và lí tính của nhận thức khi nhận thức khi nhìn
nhận về vấn đề phương pháp.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất của phương pháp:
Trên cơ sở kế thừa có phê phán những tinh hoa tư tưởng nhân loại về bản chất
của phương pháp, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: "Trong nhận thức đang
tìm tịi phương pháp cũng là cơng cụ, thủ đoạn đứng về mặt chủ quan, qua thủ
đoạn đó nó có quan hệ với khách thể". "Phương pháp khơng phải là hình thức
về bên ngoài mà là linh hồn và khái niệm của nội dung".
Khẳng định đó cho thấy phương pháp vừa có tính chủ quan vừa có tính
khách quan, một mặt mang tính chủ quan vì do con người tìm kiếm, lựa chọn,
sử dụng. Nhưng mặt khác, lại mang tính khách quan vì nó gắn liền với đối
tượng, với khách thể mà con người muốn tác động bằng hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của mình. Sự phù hợp của hai mặt chủ quan và khách
quan là điều kiện tiên quyết để có được phương pháp đúng đắn, khoa học.
Theo Giáo sư Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp là toàn bộ cách thức với tính
chất là một hệ thống nguyên tắc xuất phát từ những quy luật tồn tại và vận
động của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều
chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của con người nhằm
tác động vào đối tượng, khách thể để đạt mục đích đã định.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động tự học
Đặc điểm:
- Hoạt động tự học diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau
+ Tự học ở mức độ cao: Hoạt động học tập hồn tồn độc lập mang tính
chất nghiên cứu, khơng có sự hướng dẫn, điều khiển của thầy. Với hình thức
tự học này người học hoàn toàn độc lập hoàn thành các nhiệm vụ học tập của
1
6



mình, vai trị chủ thể người học là nhân tố trọng yếu nhất trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức.
+ Tự học có sự hướng dẫn: Diễn ra dưới sự hướng dẫn, điều khiển của
thầy nhưng không giáp mặt. Tự học có hướng dẫn, ngồi tính chủ động của
người học, cần có những tác động khách quan mang tính định hướng, chỉ dẫn
để việc học tập đạt kết quả cao (các bài giảng trên đài, truyền hình, bài học
trong các tài liệu hướng dẫn của thầy và trong máy vi tính…). Trong hình
thức tự học này, địi hỏi người học phải có tính tự giác và tính tích cực cao,
phải tn thủ theo những chỉ dẫn của thầy. Hiệu quả của hoạt động ở hình
thức tự học trên phụ thuộc vào vai trị của người hướng dẫn và vai trị tích cực
chủ động hoàn thành các nhiệm vụ học tập của người học.
+ Diễn ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn, chỉ đạo, điều khiển trực tiếp của
thầy.
Với hình thức tự học này, người học có nhiều thuận lợi hơn so với hình
thức tự học ở trên. Đây cũng là hướng chính mà đề tài tập trung nghiên cứu.
Thơng qua biện pháp tổ chức, định hướng, điều khiển, thiết kế, chỉ đạo, của
thầy nhằm giúp người học tự tổ chức, tự thiết kế, tự thi cơng hoạt động học
của mình bằng các hoạt động tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự kiểm tra, tự điều
chỉnh, nhằm hoàn thành các nhiệm vụ học tập. Kết quả tự học của sinh viên
trong hình thức tự học này phụ thuộc vào mối quan hệ thống nhất biện chứng
giữa người dạy và người học, trong đó vai trị hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo
của thầy đóng vai trị quan trọng. Yếu tố đóng vai trị quyết định là tính tích
cực, năng lực tự học này là phải phát huy được tính tích cực, tính tự giác, tính
độc lập hồn thành các nhiệm vụ học tập của sinh viên, hình thành phương
pháp tự học cho sinh viên để họ có khả năng tự học, hồn thành các nhiệm vụ
học tập.
- Các tình huống diễn ra hoạt động tự học

1

7


+ Người học phải thực sự có nhu cầu muốn học: Nhu cầu tự học phải
xuất phát từ mong muốn làm phong phú thêm sự hiểu biết của mình, để hồn
thiện nhân cách của mình.
+ Tự học thơng qua làm việc: Nhiều cơng trình nghiên cứu chỉ ra rằng
sinh viên có thể học bằng nghe, bằng quan sát, và họ sẽ học tốt hơn nhiều nếu
họ được tham gia tích cực và q trình học tập, nếu họ có thể nghiệm những
gì mà họ đã tiếp thu được trước đó.
+ Tự học chỉ diễn ra khi người học tiến hành giải quyết vấn đề, giải
quyết tình huống, giải quyết nhiệm vụ học tập: đứng trước tình huống, đứng
trước vấn đề người học buộc phải tích cực suy nghĩ, phải tích cực hành động
để tìm ra hướng giải quyết vấn đề.
+ Tự học sẽ có hiệu quả cao khi có sự hướng dẫn, tổ chức của thầy: trong
quá trình tự học, người học rất muốn biết họ học để làm gì? học như thế nào?
học những nội dung nào? Và được đánh giá ra sao? Họ cần có sự hướng dẫn,
tổ chức, điề nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.u khiển của giáo viên chứ không phải là sự đọc chép, sự bắtn của thầy.a giáo viên chứ không phải là sự đọc chép, sự bắt không phải là sự đọc chép, sự bắti là học khơng bằng thích mà học, thích mà học s đọc khơng bằng thích mà học, thích mà họcc chép, s bắtt
chưới thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.c một cách mù quáng, thụ động. Tự học của sinh viên là một mặtt cách mù quáng, thụ động. Tự học của sinh viên là một mặt đột cách mù quáng, thụ động. Tự học của sinh viên là một mặtng. T học khơng bằng thích mà học, thích mà họcc của thầy.a sinh viên là học khơng bằng thích mà học, thích mà học m ột cách mù quáng, thụ động. Tự học của sinh viên là một mặtt mặt với thầy, về nhà tự học theo sự hướng dẫn của thầy.t
hoạt động trong q trình dạy học, nó khơng thể tách rời với hoạt động dạy
của giảng viên. Vì vậy tự học chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi nó được diễn ra
trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy của thầy. Để làm
được yêu cầu trên trong hoạt động dạy học, người thầy cần phải giúp sinh
viên xác định rõ các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ cụ thể phải hoàn thành,
hiểu được ý nghĩa hành động học tập, các kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá
cho bản thân. Trong các nhiệm vụ nêu trên, nhiệm vụ hoạt động học tập cho
sinh viên là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, tác giả Phan Trọng Ngọ có viết:
"Hình thành hoạt động học tập cho học sinh là nhiệm vụ cốt tử của giáo viên".
Vấn đề này là chìa khố để dẫn tới thành cơng trong hoạt động dạy học. Nếu
hình thành được hành động học tập sẽ hình thành được hoạt động học tập. Bất

kỳ khái niệm khoa học nào cũng phải được hình thành như hoạt động học tập

1
8


và đều có thể trở thành phương tiện để hình thành khái niệm khoa học tiếp
theo.
+ Tự học sẽ có hiệu quả khi người học được tạo môi trường học tập tốt, khi
người học tự rèn luyện cho mình một hệ thống kỹ năng tự học. Môi trường học
tập gồm có mơi trường vật chất và mơi trường tinh thần do giáo viên tạo ra. Ví
dụ: Giáo viên có thể dung các phương pháp “phá vỡ tảng băng”, “công não”,
“làm nóng” để tạo hứng thú học tập của học sinh, kích thích tính tích cực, tính
tự giác học tập của học sinh nhắm phát huy tới mức cao nhất năng lực sẵn có
của họ vào việc giải quyết các nhiệm vụ học tập đề ra.
1.1.3. Vai trò của hoạt động tự học
Tự học giúp cho sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và nghề
nghiệp trong tương lai. Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho sinh viên hiểu
sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận
dụng tri thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới, là cơ sở vận dụng kiến
thức đã họ vào cuộc sống. Nếu sinh viên chỉ tiếp thu những tri thức trên lớp, ở
thầy cơ thơi thì chưa đủ, mà cần phải tự tìm tịi, mở mang kiến thức của mình
bằng cách tự học mọi lúc, mọi nơi.
Tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng
và hiệu quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà cịn giúp họ có được
hứng thú, thói quen và phương pháp tự học thường xuyên, làm phong phú
thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của mình. Để trở thành một nhà giáo
trong lai có kiến thức chun mơn vững vàng, sinh viên không chỉ phải tự
trau dồi tri thức cho mình trong q trình học tập mà cịn phải khơng ngừng
tự học hỏi những tri thức mới trong cuộc sống, từ đó vận dụng vào trong bài

giảng, làm phong phú thêm bài giảng của mình. Vì vậy, việc tự học phải được
thực hiện thường xuyên, tiến hành mọi lúc, mọi nơi.
Tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh viên
mở rộng, đào sâu kiến thức mà cịn giúp sinh viên hình thành được những
phẩm chất, trí tuệ và rèn luyện nhân cách của mình. Tự giác trong mọi công
1
9


việc sẽ đem lại hiệu quả cao. Tự giác trong học tập dần trở thành thói quen,
thói quen ấy sẽ được vận dụng trong việc rèn luyện nhân cách, giúp hình
thành nhân cách tốt, tự giác điều chỉnh hành vi của cá nhân cho phù hợp với
chuẩn mực của xã hội.
Nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực tự học cần thiết sẽ khơi dậy được
ở sinh viên tiềm năng to lớn vốn có của họ, tạo nên động lực nội sinh của quá
trình học tập vượt lên mọi khó khăn và trở ngại bên ngồi. Khả năng tự học
chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định cht lng o to.
1.2. C s thc tin
1.2.1. Đặc điểm m«n T tëng Hå ChÝ Minh
Đặc điểm mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh được tiếp cận từ các nội dung:
mục tiêu chương trình, đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp
nghiên cứu.
- Mục tiêu môn học: Giúp cho sinh viên nắm được nội dung cơ bản của
môn tư tưởng Hồ Chính Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam được thể hiện
trong đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Từ đó củng
cố lịng tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nâng cao lòng tự
hào dân tộc về Đảng, về Bác và ý thức trách nhiệm cống hiến, góp phần tham
gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên cương vị nhiệm vụ được phân cơng.
- Chương trình mơn học: Gồm 7 chương về các nội dung cơ bản Tư

tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó được chia ra làm hai cụm kiến thức cơ bản:
Những kiến thức nền tảng của môn học gồm: Đối tượng nghiên cứu, chức
năng, nhiệm vụ…; nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về từng mặt, từng lĩnh
vực cụ thể… Môn học được thực hiện trong thời gian 45 tiết, trong đó 22 tiết
giảng, 23 tiết xêmina.
- Giáo trình mơn học: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh được các tác giả
viết trên cơ sở quán triệt nội dung cơ bản của giáo trình quốc gia mơn học Tư
tưởng Hồ Chí Minh, đề cương mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh ban hành theo

2
0



×