Tải bản đầy đủ (.docx) (152 trang)

Văn hóa việt nam trong giảng dạy môn tiếng việt cho học viên nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.06 KB, 152 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển với
những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau đều tạo ra nền văn hóa mang đặc
trưng của quốc gia, dân tộc ấy. Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước,
người Việt đã sáng tạo ra một nền văn hóa có bản sắc không lẫn với văn hóa
của các dân tộc khác trên thế giới. Văn hóa Việt Nam được lưu truyền trong
các thế hệ cộng đồng người Việt và cộng đồng dân tộc, quốc gia khác bằng
tiếng Việt.
Theo quan điểm của Deborah Peck (1998): “Không có giảng dạy văn
hóa thì việc giảng dạy ngơn ngữ là khơng chính xác, không đầy đủ và nặng
nề” [81]. Một người nước ngoài dù nắm rất chắc ngữ pháp và có vốn từ phong
phú nhưng thiếu hiểu biết về văn hóa thì khi giao tiếp bằng tiếng Việt cũng
chỉ dừng ở mức độ biết diễn đạt ý nghĩ của mình một cách vụng về bằng cách
áp đặt những quy tắc của tiếng mẹ đẻ. Văn hóa định hình quan điểm, cách
nhìn và chi phối sinh hoạt, ứng xử, giao tiếp của mỗi người, đồng thời cũng là
những chuẩn mực để đánh giá bản thân và người khác sống có phù hợp với
văn hóa của cộng đồng không? Và ngôn ngữ là yếu tố tiêu biểu nhất trong bất
kỳ nền văn hóa nào. Với mọi ngôn ngữ, việc sử dụng lời nói hay văn bản cũng
là để truyền tải một thông điệp văn hóa được hiểu theo ý nghĩa của người thực
hành nó. Vì thế, văn hóa Việt Nam được truyền dạy một cách tự nhiên thơng
qua q trình dạy và học ngơn ngữ sẽ giúp người nước ngoài sử dụng thành
thạo tiếng Việt trong bối cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, chuẩn mực trong nguyên tắc ứng xử của một nền văn hóa
này lại không phải là chuẩn mực của một nền văn hóa khác, các quan điểm
được một cộng đồng chấp nhận có thể không được đồng thuận ở một cộng
đồng khác. Người nước ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt thời gian đầu
thường ngạc nhiên và bối rối trước những câu hỏi như: “Anh có gia đình
chưa?”, “Anh đi



đâu đấy?”, “Anh bao nhiêu tuổi?”... Sự khác biệt về văn hóa khiến họ có
những đánh giá và cảm xúc khác nhau trước ngôn ngữ và môi trường văn hóa
mới. Chỉ những hiểu biết sâu sắc về văn hóa mới có thể giúp học viên nước
ngoài (HVNN) có điểm nhìn văn hóa từ bên trong, cho họ thấy sự tương đồng
và khác biệt trong môi trường đa văn hóa để từ đó có sự đồng cảm, yêu mến
và tôn trọng nền văn hóa họ đang theo học. “Văn hóa trong việc học ngôn ngữ
không phải là một kỹ năng thứ năm không cần thiết, gắn tạm vào việc dạy
nói, nghe, đọc và viết. Nó luôn luôn nằm trong nền tảng, ngay từ những ngày
đầu, sẵn sàng gây bối rối người giỏi ngôn ngữ vào lúc bất ngờ nhất, cho thấy
hạn chế về năng lực giao tiếp của họ, thách thức khả năng hiểu thế giới xung
quanh của họ” [80, tr.1].
Và như thế, văn hóa là phần không thể thiếu trong năng lực giao tiếp
ngôn ngữ và cũng chính là trọng tâm của giảng dạy tiếng Việt.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc giới thiệu văn
hóa trong ngôn ngữ là cơ hội để chúng ta quảng bá văn hóa Việt Nam phục vụ
công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng. Trước đây,
việc dạy tiếng Việt ở nhà trường quân đội (NTQĐ) chỉ tập trung chủ yếu cho
học viên Lào và Campuchia trong điều kiện giảng dạy cịn nhiều hạn chế thì
ngày nay, đã có khoảng 30 nước cử quân nhân sang Việt Nam học tập theo
hình thức hiệp định và đối đẳng. Số lượng học viên tăng hàng năm đòi hỏi
phải có chiến lược giới thiệu văn hóa một cách chuyên nghiệp. Bên cạnh đó,
văn hóa trong giảng dạy ngôn ngữ không chỉ là vấn đề nội sinh xuất phát từ
mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và văn hóa mà còn là đòi hỏi khách quan
xuất phát từ nhu cầu và sự chủ động, tích cực của người học. Những HVNN
đến Việt Nam học tập với mục đích tìm hiểu, cảm nhận, trải nghiệm giá trị,
chuẩn mực của văn hóa Việt Nam để vận dụng những kiến thức và tình cảm
văn hóa vào việc thi hành chính sách ngoại giao của đất nước mà họ đại diện
với Đảng, Nhà nước



và Quân đội Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh những mục tiêu chung cần có cái
nhìn đặc thù với đối tượng là HVNN trong nhà trường quân đội.
Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của văn hóa Việt Nam trong môn
Tiếng Việt trong đào tạo đối ngoại, những năm qua, các NTQĐ đang từng
bước mở rộng đối tượng và nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ. Nhưng văn hóa là một phạm trù rộng lớn, việc định hướng nội
dung văn hóa trong giảng dạy tiếng Việt vẫn chưa được thống nhất trong đội
ngũ giảng viên và trong các trường. Giáo trình, tài liệu giảng dạy tiếng Việt
trong NTQĐ hiện nay chưa mang tính đặc thù dành cho đối tượng đào tạo;
các phương pháp giảng dạy hiện đại chưa được cập nhật. Nhu cầu được tiếp
nhận, trải nghiệm văn hóa Việt Nam trong môi trường quân sự (MTQS) của
HVNN chưa được đáp ứng một cách tổng thể và thống nhất. Các hoạt động
trải nghiệm và thực hành văn hóa chưa đi vào chiều sâu, chưa được nhìn nhận
và đầu tư thích đáng...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu cơ bản, hệ thống
về “Văn hóa Việt Nam trong giảng dạy mơn Tiếng Việt cho học viên nước
ngoài ở nhà trường quân đội” dưới góc nhìn Văn hóa học là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là thông qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt để bàn về bản
sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình, nội dung giảng dạy, tiếp nhận và trải
nghiệm hướng đến việc nâng cao hiệu quả truyền tải văn hóa Việt Nam cho
HVNN ở nhà trường quân đội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện vấn đề văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ, đó là bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện ở các chủ điểm
văn hóa và giao tiếp ngôn ngữ trong giảng dạy tiếng Việt.



- Chỉ ra những biểu hiện của bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài.
- Làm rõ thực trạng vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình,
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ hiện nay.
- Bàn luận những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy
bản sắc văn hóa Việt Nam cho HVNN một cách hiệu quả trong môi trường
giao tiếp đa văn hóa ở NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, có thể xác định đối tượng nghiên
cứu của luận án là bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Văn hóa Việt Nam là một phạm trù rộng lớn bao gồm
nhiều lĩnh vực, bản thân khái niệm văn hóa cũng mang tính động, phụ thuộc
vào góc nhìn của lĩnh vực nghiên cứu. Vì vậy, trong khuôn khổ của một luận
án, nghiên cứu sinh (NCS) đã giới hạn phạm vi nghiên cứu là bản sắc văn hóa
Việt Nam. Việc giới hạn phạm vi nghiên cứu xuất phát từ lý do lựa chọn đề
tài, văn hóa Việt Nam trong giảng dạy ngôn ngữ là những yếu tố phản ánh
quan điểm và tư duy của dân tộc Việt Nam trong so sánh sự tương đồng và
khác biệt với dân tộc khác; từ nội dung văn hóa Việt Nam trong chương trình
đào tạo; từ đối tượng nghiên cứu; từ thực tế kinh nghiệm giảng dạy, từ trải
nghiệm của NCS khi khảo sát ở các NTQĐ. Như vậy, việc giới hạn nội dung
văn hóa Việt Nam trong phạm vi bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
môn Tiếng Việt cho người nước ngoài là có cơ sở và phù hợp với mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu.
- Không gian: Các học viện, nhà trường trong quân đội có nhiệm vụ
đào tạo tiếng Việt và chuyên ngành quân sự cho HVNN: Đoàn 871 (Long

Biên, Hà


Nội), Học viện Khoa học quân sự (Hoài Đức, Hà Nội), Trường Sĩ quan Kỹ
thuật quân sự Vinhempich (Trường Đại học Trần Đại Nghĩa; Gị Vấp, Thành
phố Hờ Chí Minh), Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Trường Đại học Trần Quốc
Tuấn; Sơn Tây, Hà Nội) và Trường Sĩ quan Lục qn 2 (Trường Đại học
Nguyễn Huệ; Biên Hịa, Đờng Nai).
- Thời gian: 10 năm (từ 2008 đến 2018). Đây là khoảng thời gian việc
giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở NTQĐ trở thành nhiệm vụ chính
trị trung tâm của đào tạo đối ngoại quốc phòng. Văn hóa Việt Nam nói chung
và bản sắc văn hóa Việt Nam nói riêng được đặt ra như một yêu cầu khách
quan và chủ quan trong giảng dạy tiếng Việt cho đối tượng sẽ là “đại sứ” đưa
văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Đó cũng là khoảng thời gian cần thiết để
nhìn lại chất lượng những giáo trình đã được lựa chọn, những phương pháp
truyền tải cần được đổi mới để từ đó bàn luận những vấn đề hướng đến nâng
cao chất lượng giảng dạy văn hóa Việt Nam cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc để giới thuyết khái niệm, khảo sát bản chất của văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở nhà trường quân đội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu văn hóa trong giảng
dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều
đối tượng. Vì vậy NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành nhằm
tiếp cận ở các góc nhìn văn hóa học, ngơn ngữ học, phương pháp dạy học để
giải quyết vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ

hiện nay.


- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp: Luận án tập trung
nghiên cứu, phân tích các nguồn tài liệu, các kết quả nghiên cứu đã được công
bố về bản sắc văn hóa Việt Nam, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, các
chỉ thị, nghị quyết, các kết quả điều tra, nghiên cứu về văn hóa trong môn
Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ từ năm 2008 đến nay; tiếp thu những kinh
nghiệm, nhận diện những bất cập từ đó tổng hợp, khái quát hóa, đưa ra những
nhận định có tính khoa học về văn hóa Việt Nam trong giảng dạy tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp này giúp tìm hiểu nhận
thức về bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa trong ngôn ngữ và biểu hiện của nó
trong môn Tiếng Việt đồng thời chỉ ra nội dung cốt lõi của văn hóa Việt Nam
trong môn Tiếng Việt giảng dạy cho HVNN ở nhà trường quân đội.
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Luận án sử dụng phương pháp này
giúp nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ một cách
toàn diện, trong mối tương quan với mục tiêu, chương trình đào tạo, giáo
trình, giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm của HVNN, từ đó đưa ra những bàn
luận nhằm nâng cao chất lượng truyền tải văn hóa Việt Nam trong NTQĐ
hiện nay.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này giúp tham khảo ý kiến
của các chuyên gia có trình độ, những kinh nghiệm thực tế và trải nghiệm là
cơ sở làm rõ hơn phạm vi nghiên cứu, bàn luận những yếu tố đảm bảo và
quyết định trong việc nâng cao chất lượng truyền tải bản sắc văn hóa Việt
Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp điền dã: Sử dụng phương pháp này để có được những
dữ liệu trung thực, khách quan qua quan sát thực tế, ghi âm, ghi hình thực tiễn
văn hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ; qua đó
nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về bản sắc văn hóa trong môn Tiếng Việt và

đưa ra những nhận xét, đánh giá mang tính khách quan, khoa học, có sức
thuyết phục.


Trong quá trình điền dã, quan sát và tham dự trực tiếp vào quá trình
giảng dạy trong 5 học viện, nhà trường được giao nhiệm vụ hợp tác đào tạo
HVNN ở miền Bắc và miền Nam, NCS đã tiến hành 6 cuộc phỏng vấn (3
cuộc với 6 giảng viên và 3 cuộc với 12 học viên) nhằm xác định mục đích cốt
lõi của văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ; đánh giá
bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ
một cách chân thực và khách quan; những mong muốn chủ quan và kết quả
khách quan… Kết quả điều tra là cơ sở xác định nội dung cốt lõi của văn hóa
Việt Nam trong môn Tiếng Việt là bản sắc văn hóa. Đó cũng là cơ sở khoa
học để bàn luận về yếu tố đảm bảo và yếu tố quyết định nâng cao hiệu quả
bản sắc văn hóa trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để xác định bản sắc văn hóa Việt
Nam đã được giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm trong NTQĐ như thế nào
thì việc trưng cầu đánh giá của hai đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình
dạy, học là giảng viên và học viên về bản sắc văn hóa Việt Nam trong môn
Tiếng Việt ở NTQĐ là rất quan trọng. Do vậy, NCS xây dựng nội dung chi
tiết cho việc điều tra xã hội học như sau:
Về thành phần điều tra
Cán bộ, giảng viên tham gia khảo sát có 50 người. Trong đó theo cấp
bậc có 20% (10/50) viên chức quốc phòng; 28% (14/50) từ thiếu úy đến đại
úy, 46% (23/50) là thiếu tá và trung tá, 6% (3/50) là thượng tá và đại tá. Theo
trình độ học vấn có 26% (13/50) trình độ đại học, 72% (26/50) trình độ thạc sĩ
và 2% (1/50) trình độ tiến sĩ. Theo ngành đào tạo có 80% (40/50) được đào
tạo chuyên ngành văn học và ngôn ngữ học, 20% (10/50) được đào tạo
chuyên ngành ngoại ngữ. Theo thâm niên giảng dạy có 76% (38/50) từ 10
năm trở lên. Thành phần tham gia điều tra là các giảng viên đủ kinh nghiệm

dạy học, có chuyên môn phù hợp với giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường
quân đội.


Học viên tham gia khảo sát với số lượng là 300 người. Có 50%
(150/300) đang học trình độ cơ sở 1 năm; 50% (150/300) đang học chuyên
ngành từ năm thứ hai trở lên. Các học viên đã và đang học gần hết một năm
học trở lên, sử dụng khá thành thạo tiếng Việt, có thể giao tiếp với người bản
ngữ.
Các giảng viên và học viên tham gia điều tra xã hội học ở 5 trung tâm
đào tạo HVNN trong NTQĐ. Đó là: Đoàn 871, Học viện Khoa học quân sự,
Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự Vinhempich, Trường Sĩ quan Lục quân 1,
Trường Sĩ quan Lục quân 2.
Về phương thức tiến hành tổ chức khảo sát
- Về mục đích: khảo sát bản sắc văn hóa Việt Nam trong hệ thống bài
đọc, các chủ điểm giao tiếp, các từ cố định và thành ngữ trong giáo trình tiếng
Việt; tập trung đánh giá thực trạng nội dung, tiếp nhận, trải nghiệm, thực hành
văn hóa Việt Nam; từ đó bàn luận về các yếu tố đảm bảo và quyết định chất
lượng văn hóa trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
- Về thời gian và quy mô: điều tra xã hội học được tiến hành từ tháng 6
năm 2017 đến tháng 6 năm 2018; trong đó tiến hành điều tra xã hội học 50
cán bộ, giảng viên và 300 học viên ở 5 học viện, nhà trường trên cơ sở phiếu
điều tra được thiết kế, xây dựng theo mục đích nghiên cứu.
- Về phương pháp và kỹ thuật điều tra: Để đạt được mục đích nghiên
cứu, NCS đã sử dụng 50 phiếu hỏi anket cho giảng viên (trong tổng số 57
giảng viên của các trường khảo sát) và 300 phiếu hỏi anket cho học viên để
đánh giá tình hình thực tế văn hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải
nghiệm ở NTQĐ hiện nay.
Về tiêu chí khảo sát
Nghiên cứu sinh tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng từng yếu tố

trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm văn hóa Việt Nam trên các phương
diện: khảo sát giáo trình; điều tra xã hội học nội dung, phương pháp giảng
dạy đối


với người dạy và tiếp nhận, trải nghiệm đối với người học, đánh giá trung
thực và khách quan văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở
NTQĐ hiện nay. Cụ thể như sau:
- Khảo sát 12 giáo trình được sử dụng trong các NTQĐ trong 10 năm trở
lại đây (từ 2008 đến 2018), đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố thực có và
những yếu tố cần có để đảm bảo nhu cầu giảng dạy, tiếp nhận bản sắc văn hóa
Việt Nam trong NTQĐ hiện nay.
- Khảo sát nội dung, phương pháp giảng dạy văn hóa Việt Nam để tìm
hiểu thực trạng và những nhu cầu trong NTQĐ hiện nay.
- Khảo sát việc tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa Việt Nam của
HVNN trong NTQĐ hiện nay để đánh giá thực trạng và những yêu cầu từ tình
hình thực tế của đối tượng người học môn Tiếng Việt khá đặc thù trong nhà
trường quân đội.
Kết quả định lượng trong khảo sát là cơ sở đưa ra những kết luận thực
tiễn góp phần xác định nội dung văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt là
bản sắc văn hóa, những điều kiện đảm bảo và quyết định để nâng cao bản sắc
văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt. Sau khi tổng hợp kết quả từ khảo sát
giáo trình và thu thập ý kiến của đối tượng khảo sát, các số liệu được xử lý và
cho ra kết quả định lượng phục vụ mục đích nghiên cứu. Đây là nguồn thông
tin cung cấp luận cứ cho hầu hết các phân tích và lập luận trong luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Về tư liệu: Luận án có những đóng góp trong sưu tầm, thẩm định khối
tư liệu, tài liệu về bản sắc văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ,
văn hóa và ngôn ngữ trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
- Về nội dung, hàm lượng khoa học cũng như phương pháp, luận án là

cơng trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa Việt Nam trong giảng
dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ. Luận án có ý nghĩa tạo ra hướng nghiên cứu
liên


ngành văn hóa, ngôn ngữ và phương pháp giảng dạy dưới góc nhìn văn hóa
học mới cả về học thuật lẫn phương pháp; đóng góp cho cách tiếp cận bản sắc
văn hóa trong ngôn ngữ giảng dạy cho HVNN. Đối với mục tiêu làm đậm bản
sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ,
các kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có tác dụng làm rõ nội dung, cách tiếp
cận phương pháp giảng dạy hiện đại, cách thức tổ chức thực hành và trải
nghiệm văn hóa trong MTQS hướng đến đối tượng HVNN sử dụng tiếng Việt
trong công tác đối ngoại quân sự và hợp tác quốc phòng với Quân đội, Đảng
và Nhà nước Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án
được chia thành 4 chương, 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu văn hóa Việt Nam
trong môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội.
Chương 3: Nội dung giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn
hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở nhà trường quân đội hiện nay.
Chương 4. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền tải bản sắc văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà
trường quân đội hiện nay.


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

Hơn một thế kỷ nay, Văn hóa học đã trở thành một ngành khoa học có
đối tượng và chức năng riêng được các nhà nghiên cứu ở các nước Anh
(Edward Burnett Tylor, 1897), Nga (Nikolay Yakovlevich Danilevsky, 1880),
Đức (Wilhelm Ostwald, 1909), Mỹ (Leslie Alvin White, 1949) và các nhà
khoa học ở nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu thường lấy “Việt Nam văn hóa sử
cương” [2] của tác giả Đào Duy Anh làm mốc cho việc nghiên cứu văn hóa.
Đặc biệt từ tháng 4 năm 1943, Hội Văn hóa cứu quốc ra đời đã tập hợp được
hầu hết các trí thức tiêu biểu của đất nước cho công cuộc xây dựng và phát
triển một nền văn hóa dân tộc và cách mạng.
Văn hóa đã được nhiều tổ chức, nhiều nhà nghiên cứu bàn đến trực tiếp,
tạo ra không khí học thuật sơi nổi trong các cơng trình như: “Bản sắc văn hóa
Việt Nam” của Phan Ngọc [41], “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần
Ngọc Thêm [61], “Văn hóa Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm” của Trần Quốc
Vượng [77], “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc” của Nguyễn Khoa Điềm [19]… những năm cuối thế kỷ XX.
Các cơng trình nghiên cứu cho thấy, văn hóa trở thành một khoa học
thực sự, nội hàm của khái niệm bao quát một phạm vi rất rộng lớn và phụ
thuộc vào đối tượng và mục tiêu của nhà nghiên cứu.
Trong số những tác giả bàn về văn hóa và bản sắc văn hóa, nhà nghiên
cứu Lê Quang Thiêm là người bàn nhiều đến phương pháp luận. Trong cơng
trình “Văn hóa văn minh và yếu tố truyền thống văn hóa Hàn” [63], ông đã đi
từ định vị bản sắc văn hóa để nêu lên các bình diện của bản sắc văn hóa dân


tộc. Lê Quang Thiêm đã phân biệt 3 thuật ngữ: bản sắc dân tộc, bản sắc văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc và ông đi đến kết luận: “Bản sắc văn hóa là hệ
thống giá trị sáng tạo đặc trưng, tinh túy nhất, đặc sắc nhất của nền văn hóa

tương ứng hay nói cách khác, bản sắc văn hóa là những giá trị sáng tạo đặc
trưng nhất, tiêu biểu nhất, lâu bền nhất của văn hóa” [63, tr.149].
Trên cơ sở đó, ông xác định các đường hướng chung cho việc tìm hiểu
bản sắc văn hóa Việt Nam. Ơng cho rằng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là
bản sắc văn hóa của quốc gia đa dân tộc, tiếp biến nhuần nhuyễn những yếu
tố văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Âu Mỹ, hịa đờng với tự nhiên, làng bản, đất
nước. Một bản sắc văn hóa đa dạng, đa sắc màu, cởi mở, tiếp xúc, tiếp biến.
Theo ông, bản sắc văn hóa Việt Nam cũng còn biểu hiện ở một số hằng số tự
nhiên. Đó là sự kiên trì, bản lĩnh bám trụ, trách nhiệm đối với dân tộc và cộng
đồng của chủ thể sáng tạo.
Từ góc độ lịch sử để nghiên cứu văn hóa, có thể khẳng định những
nghiên cứu của Trần Quốc Vượng đã thu được nhiều thành cơng. Với cơng
trình “Văn hóa Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm” [77], tác giả đặt văn hóa Việt
Nam trong bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á. Trong khi một số nhà nghiên
cứu trên thế giới phủ nhận sự hiện hữu của văn hóa Việt Nam, coi Việt Nam
là một Trung Hoa thu nhỏ, xếp tiếng Việt vào nhóm Hán - Tạng thì những
nghiên cứu về văn hóa của Trần Quốc Vượng đã có tính cách mạng đối với
văn hóa Việt Nam: “Văn hóa Việt Nam, văn minh sông Hồng và văn hóa
Trung Quốc, văn minh Hoàng Hà, khác nhau từ căn bản, từ cội ng̀n” [77,
tr.35]. Ơng bàn về bản sắc văn hóa Việt Nam từ nhiều góc nhìn khi có cơ hội.
Tuy nhiên những nghiên cứu về bản sắc văn hóa của Trần Quốc Vượng thiên
về những gợi mở về phương pháp luận và các hướng tiếp cận cho các nhà
nghiên cứu.
Không đi sâu vào những vấn đề có tính lịch đại, nhưng những kết quả
nghiên cứu bản sắc văn hóa ở phương diện đồng đại của các tác giả Huỳnh
Khái


Vinh, Hồ Sĩ Vịnh, Nguyễn Khoa Điềm, Đặng Đức Siêu... đã để lại những
đóng góp có giá trị. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí

Minh để nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tác giả Hờ Sĩ Vịnh (1999) trong cơng
trình “Văn hóa văn học, một hướng tiếp cận mới” cho rằng: “Bản sắc dân tộc
là một tổng hòa những đặc điểm của một dân tộc trên nhiều mặt: lịch sử, địa
lý, truyền thống, tâm lý… đã tạo nên diện mạo và dáng vóc riêng của dân tộc
đó” [75, tr.71]. Bên cạnh đó, ông cũng phân biệt hai thuật ngữ bản sắc dân
tộc và bản sắc dân tộc trong văn hóa. Ơng coi văn hóa là “gương mặt của dân
tộc” và “bản sắc dân tộc trong văn hóa có mặt tích cực cũng như mặt phiến
diện, mặt tươi sáng và mặt phức tạp do hoàn cảnh xã hội, chiều dày lịch sử,
môi trường địa lý, truyền thống và tâm lý của cộng đồng trên mảnh đất lâu đời
đó tạo nên” [75, tr.72]. Cũng trong công trình nghiên cứu “Tìm về bản sắc
dân tộc của văn hóa” (Hờ Sĩ Vịnh chủ biên), Quang Đạm, tác giả bài viết
“Thử miêu tả bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa Việt Nam” nhận xét: “Bản sắc
dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt những đặc điểm
của dân tộc, tạo nên diện mạo và hình dạng riêng của dân tộc ấy khơng thể
đờng nhất với dân tộc khác trong cộng đồng khu vực hay cộng đồng loài
người” [45, tr.15].
Đứng ở góc độ khoa học chính trị, cơng trình tập thể “Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [19] do
nhà nghiên cứu Nguyễn Khoa Điềm chủ biên rất cần được lưu ý vì tính chất
phổ quát của nó. Từ quan điểm của Đảng về văn hóa, các nhà nghiên cứu đã
đề cập đến vấn đề bản sắc văn hóa với phương châm bảo vệ quyền lợi chính
trị của quốc gia, dân tộc. Văn hóa và bản sắc văn hóa được đặt ra trong mối
liên hệ nhiều chiều có tính biện chứng. Trong quá trình nghiên cứu năm giai
đoạn phát triển của văn hóa, các tác giả đã khái quát năm đặc điểm của văn
hóa Việt Nam và khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc được xác định là sự
tổng hòa của các khuynh hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân
tộc; có mối liên hệ


thường xuyên và định hướng của cái riêng (văn hóa dân tộc) với cái chung

(văn hóa khu vực, văn hóa nhân loại); liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững với
lịch sử dân tộc. Những lý giải như vậy có ý nghĩa gợi mở các hướng nghiên
cứu truyền tải và giao lưu văn hóa.
Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là bàn luận của các nhà văn
hóa mà còn là vấn đề của Đảng, vấn đề của cả dân tộc. Trên cơ sở các kết
luận của các nhà khoa học tâm huyết với nền văn hóa dân tộc, kết luận của
các hội nghị khoa học về văn hóa Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết và đưa vào Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương 5 (Khóa VIII) nội dung bản sắc văn hóa Việt Nam:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u
nước nờng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đờng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc; lịng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống… Bản sắc
dân tộc cịn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo [16].
Ở cách tiếp cận văn hóa dưới góc độ triết học, các nhà nghiên cứu
Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý trong cơng trình “Tìm
hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa”
[11] đã đưa ra một cách nhìn mới về bản sắc văn hóa. Trong phần xác định
các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, các nhà triết học đã thống nhất
với nhiều nhà văn hóa lịch sử trong việc khẳng định hằng số văn hóa được
bản sắc hóa dựa trên cơ sở tập hợp các yếu tố: địa - văn hóa nhiệt đới, gió
mùa bán đảo; cư dân sống thành làng xã làm ruộng, làm vườn, có thiết chế gia
đình huyết tộc như nhiều cư dân Nam Á. Các tác giả đã khẳng định những
đặc điểm về địa



chính trị, về tiềm năng thích ứng của người Việt Nam, về chủ nghĩa nhân văn
giàu lòng yêu nước, vị tha, tự lực, tự cường, về văn hóa tâm linh, tục thờ Mẫu,
nghệ thuật dân gian, văn chương bác học… Điều đặc biệt là dưới góc độ triết
học, các nhà nghiên cứu cịn nhấn mạnh những giá trị khơng thuộc về ưu
điểm của văn hóa truyền thống. Trong nền văn hóa ngàn năm của người Việt,
công nghiệp, thương nghiệp, luật pháp không phải đã được chú trọng để nâng
cao năng suất và giữ gìn trật tự xã hội. Sĩ tử đi thi thường nghĩ đến sự giúp
nước, làm quan; không làm quan thì làm thầy... Cách đánh giá những giá trị
văn hóa truyền thống với chủ trương bảo tồn và phát huy những giá trị đó
trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa như vậy rất thiết thực trong thời
đại hiện nay.
Những cách tiếp nhận như đã kể trên có sự đan xen, phối hợp của nhiều
phương pháp khoa học nhưng dấu ấn của một ngành khoa học cụ thể vẫn để
lại đậm nét trong cách lập luận, trong các vấn đề mà các tác giả đưa ra nhận
xét.
Bên cạnh việc tiếp cận bản sắc văn hóa qua cách nhìn của một ngành
khoa học, lại có những nhà nghiên cứu đi từ những yếu tố văn hóa để khẳng
định bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những công trình tiêu biểu về văn hóa và
bản sắc văn hóa của hai nhà nghiên cứu Phan Ngọc và Trần Ngọc Thêm.
Trong cơng trình “Bản sắc văn hóa Việt Nam” (1988) và “Thử xét văn
hóa, văn học bằng ngơn ngữ học” (2000), nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã xây
dựng một hệ thống thuật ngữ, khái niệm về văn hóa. Ông đã “công thức hóa”
văn hóa Việt Nam:
Tôi gọi văn hóa Việt Nam là văn hóa Việt Nam bốn F, bởi vì bốn
thành tố quyết định diện mạo của văn hóa này có thể dịch ra bốn từ
tiếng Anh bắt đầu bằng chữ F. Đó là Tổ quốc (Fatherland), Gia đình
(Family), Thân phận (Fate), và Diện mạo (Face) [42, tr.24].
Ông đã chỉ ra được thực chất và sáng tạo của văn hóa Việt Nam là “lắp
ghép, dung hóa”. Người Việt Nam lấy những yếu tố có sẵn vốn là của mình



hoặc mượn của người, cấu trúc lại, tức cấp cho chúng một kiểu “quan hệ” để
tạo thành một sản phẩm khác phù hợp với mình. Nếu bản sắc văn hóa Việt
Nam được cụ thể hóa trong giao lưu và tiếp biến văn hóa, thích ứng với từng
hoàn cảnh lịch sử xã hội thì cái tạo thành tính bất biến của các ứng xử ấy là
tâm thức con người Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch sử:
Cái tạo thành tính bất biến của hệ thống quan niệm này là nhu cầu
của tâm thức con người Việt Nam. Nhu cầu này về cơ bản là như
nhau ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không liên quan tới tài sản, học
vấn và khá ổn định mặc dầu một tầng lớp người có thể chiếm ưu thế
so với các tầng lớp khác [41, tr.32].
Tuy nhiên, nếu thừa nhận tính thời đại, tính lịch sử của các yếu tố văn
hóa thì ý kiến cho rằng bản sắc văn hóa là cái bất biến trong quá trình phát
triển của lịch sử là vấn đề còn phải bàn luận, nhất là trong bối cảnh giao lưu
mạnh mẽ như hiện nay. Nhưng những đóng góp của nhà nghiên cứu Phan
Ngọc với tư cách người tiên phong trong nghiên cứu văn hóa như một khoa
học độc lập thì khơng ai thể phủ nhận được.
Dưới cái nhìn hệ thống - loại hình, cơng trình “Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam” [61] của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã có nhiều đóng góp
trong nghiên cứu. Theo ông, văn hóa được nghiên cứu một cách khái quát,
tổng thể, vừa mang tính lịch đại vừa mang tính đồng đại, lấy cấu trúc hệ thống
làm hệ quy chiếu với rất nhiều tư liệu của các ngành khoa học như khảo cổ
học, ngôn ngữ học, nhân chủng học, địa lý học, tín ngưỡng, nghệ thuật học...
Ông đã khái quát cấu trúc của văn hóa bao gồm 4 yếu tố:
- Văn hóa nhận thức: trong đó bao gồm nhận thức vũ trụ và con người.
- Văn hóa tổ chức cộng đồng: bao gồm văn hóa tổ chức đời sống tập
thể và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân.
- Văn hóa ứng xử với môi trường thiên nhiên: bao gồm văn hóa tận
dụng môi trường thiên nhiên và văn hóa ứng phó với môi trường thiên nhiên.



- Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội: bao gồm văn hóa tận dụng
môi trường xã hội và văn hóa ứng phó với môi trường xã hội.
Đây là một cơng trình nghiên cứu về văn hóa và bản sắc văn hóa Việt
Nam có quy mô lớn với hệ thống bảng biểu phong phú.
Một cách nhìn khác, từ góc độ lý thuyết, nhà nghiên cứu Đoàn Thị
Tuyến (2014) trong “Bản sắc văn hóa từ góc độ lý thuyết” (đề tài cấp cơ sở,
Viện Nghiên cứu Văn hóa) đã tập trung tìm hiểu các vấn đề liên quan tới bản
sắc văn hóa theo các lý thuyết của nhiều học giả phương Tây. Bản sắc văn
hóa được đề cập với tư cách là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học
xã hội và nhân văn và tiếp cận theo những lý thuyết được coi là hiện đại trong
các xu hướng nghiên cứu về văn hóa hiện nay. Theo tác giả:
Tiếp cận bản sắc chủ yếu theo hai xu hướng chính đó là bản thể
luận và phản bản thể luận, trong đó, xu hướng thứ hai dường như
đang chiếm được ưu thế hơn. Theo quan điểm này, bản sắc văn hóa
được tiếp cận như một quá trình, ở đó các yếu tố cấu thành của bản
sắc luôn luôn vận động và hay thay đổi [73, tr.19].
Các quan điểm này đã cung cấp những cái nhìn đa chiều về bản sắc văn
hóa và cho thấy nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc chưa bao giờ hết mới mẻ
và thiếu sự khám phá. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa các quan niệm về
bản sắc văn hóa trên đây là xem bản sắc văn hóa giống như một “tấm thẻ căn
cước”, là “gương mặt” của mỗi cộng đồng dân tộc. Văn hóa dân tộc có mặt
tĩnh và mặt động.
Dựa vào kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, NCS đã xác định
cách tiếp cận bản sắc văn hóa của luận án và trình bày cụ thể ở những mục
dưới đây.
1.2. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HĨA VIỆT NAM TRONG
NGƠN NGỮ VÀ TRONG TIẾNG VIỆT GIẢNG DẠY CHO NGƯỜI NƯỚC NGỒI


1.2.1. Các cơng trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong ngôn ngữ
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hóa
đã có gần một trăm năm và bao gồm một số khuynh hướng khác nhau, phản
ánh


ảnh hưởng của các khuynh hướng học thuật khác nhau của ngành ngôn ngữ
học Việt Nam.
Kể từ thập niên 1970, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương đã chọn hướng
tiếp cận liên ngành để khảo sát các vấn đề ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử của các
dân tộc Việt Nam và Đơng Nam Á. Những cơng trình liên quan đến hướng
tiếp cận này của ông có thể kể như: “Một số cứ liệu ngôn ngữ về sự thân
thuộc giữa các dân tộc thuộc nhóm Tạng Miến ở miền Bắc Việt Nam” (Thông
báo Dân tộc học, số 3, 1973); “Về ngôn ngữ Tiền - Việt Mường” (cùng với Hà
Văn Tấn, Tạp chí Dân tộc học, số 1, 1978); “Về quan hệ Việt Mường - Tày
Thái qua tư liệu dân tộc ngôn ngữ học” (Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1978);
“Một số vấn đề dân tộc - ngôn ngữ học ở nước ta” (Tạp chí Dân tộc học, số 4,
1978); “Về mối quan hệ nguồn gốc của các ngơn ngữ nhóm Việt Mường”
(Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1979); “Từ vấn đề ngơn ngữ Việt Mường góp phần
tìm hiểu nguồn gốc dân tộc” (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1981); “Vấn
đề Proto - Việt Mường trong lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại”
(Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngơn ngữ phương Đơng, 1986); “Văn
hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á” (2000) [13]; “Bức tranh ngơn
ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á” (2007) [14];...
Đặc biệt, chính nhờ sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành dân tộc ngôn ngữ học, phối hợp với những tư liệu khảo cổ và thư tịch cổ Việt Nam
mà vào năm 1978, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương cùng với nhà sử học Hà
Văn Tấn trong bài “Về ngôn ngữ Tiền - Việt Mường” (Tạp chí Dân tộc học, số
1, 1978) đã xác lập được một giả thiết có tính thuyết phục cao về ng̀n gốc
hình thành dân tộc Việt và tiếng Việt trên địa bàn trung du và đồng bằng Bắc
bộ. Q trình này bắt đầu từ 2000 năm trước Cơng nguyên, tương ứng với giai

đoạn mở đầu của thời đại Hùng Vương trong truyền thuyết của dân tộc Việt.
Phát huy những kết quả đã đạt được, trong các bài giảng về Văn hóa Đơng
Nam Á và Đơng


Nam Á học cho sinh viên, tác giả Phạm Đức Dương cũng sử dụng cách tiếp
cận liên ngành trên và nhờ đó đã đem lại những kiến giải sâu sắc, thấu đáo về
lịch sử hình thành các dân tộc và các nền văn hóa ở Việt Nam và Đông Nam
Á. Quan điểm của ông đã đóng góp lý luận cho nghiên cứu mối quan hệ giữa
văn hóa và ngôn ngữ: “Ngôn ngữ được xem là đặc trưng của tộc người, ngôn
ngữ được xem là gia tài quý giá nhất và đích thực nhất để nhận diện một dân
tộc” [14, tr.83].
Cách tiếp cận liên ngành ngôn ngữ - dân tộc học cũng là hướng nghiên
cứu của một số nhà ngôn ngữ khác như Nguyễn Văn Lợi với bài “Tộc danh
của một số dân tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên gọi Giao
Chỉ” [44], Nguyễn Đức Tồn với bài “Nghiên cứu đặc trưng văn hóa - dân tộc
qua ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ” [44]), v.v…
Các cơng trình nghiên cứu có tính chất liên ngành của các nhà ngôn ngữ
đã tạo nên nền móng ban đầu cho chuyên ngành dân tộc - ngôn ngữ học Việt
Nam, tạo cơ sở cho nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa, lịch sử của các cộng
đồng dân tộc.
Bên cạnh đó, khuynh hướng văn hóa - ngôn ngữ học hay ngôn ngữ học
văn hóa được hình thành trong thập niên 1990 bước đầu đã tạo lập được một
số cơ sở về mặt phương pháp luận cho sự ra đời một môn học hoặc một
chuyên ngành mà những người đề xuất gọi là “văn hóa - ngôn ngữ học”.
Đề xuất thành lập môn học mới với tên gọi “văn hóa - ngôn ngữ học”
hay “ngôn ngữ học văn hóa” là nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong các bài
viết như: “Đi tìm ngơn ngữ của văn hóa và đặc trưng văn hóa của ngơn ngữ”
[44], “Ngữ dụng học và văn hóa - ngôn ngữ học” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4,
1999). Theo ông, đây là một môn học nằm ở ranh giới giữa ngôn ngữ học với

văn hóa học; có thể chia thành hai bộ phận: văn hóa - ngôn ngữ học trong
phạm vi một dân tộc và văn hóa - ngôn ngữ học trong phạm vi nhiều dân tộc.
Năm 2000, tác giả Đỗ Hữu Châu trong bài “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn
ngữ” cũng vạch ra một “đề cương phương pháp luận” tuy chưa đầy đủ cho
việc


nghiên cứu theo hướng văn hóa - ngôn ngữ học. Theo ơng: “Ngơn ngữ là
cơng cụ của văn hóa vì không có ngôn ngữ, không một hoạt động văn hóa nào
có thể diễn ra được. Văn hóa là một tổng thể gồm những hợp phần, nên ngôn
ngữ phục vụ mỗi hợp phần theo những cách thức khác nhau” [8, tr.849-850]
và “Mỗi từ, ngữ cố định của ngôn ngữ, của tiếng Việt như là một tên gọi của
một yếu tố văn hóa, của văn hóa Việt Nam với ngữ nghĩa là một hiểu biết xã
hội (dĩ nhiên ở mức độ khác nhau). Mỗi từ, mỗi ngữ cố định tự mình là một
yếu tố của văn hóa” [8, tr.825]. Từ đó, tác giả đã phác thảo các phương pháp
giúp phát hiện ra các biểu hiện văn hóa trong ngữ nghĩa của các đơn vị ngôn
ngữ.
Tiếp tục đi theo hướng nghiên cứu này, các nhà ngôn ngữ và văn hóa
học đã khám phá những đặc sắc của văn hóa Việt thông qua tiếng nói hàng
ngày của dân tộc và đã mang lại nhiều kết quả nhất định. Đó là các bài tham
luận, những bài viết của các tác giả Nguyễn Đức Tồn, Lý Toàn Thắng, Cao
Xuân Hạo, Đào Thản… Các tác giả đã chỉ ra rằng, ngôn ngữ Việt và văn hóa
Việt luôn có một mối quan hệ nhất định, đó chính là cách nghĩ, cách tư duy
của riêng người Việt. Mỗi dân tộc sẽ có thiên hướng nổi trội hay “ưa thích”
một kiểu nào đó. Chính điều này là sự biểu hiện đặc trưng tư duy ngôn ngữ ở
một dân tộc.
Nhà nghiên cứu Đào Thản đã thống kê các từ liên quan đến cây lúa và
các sản phẩm của cây lúa trong bài viết “Cây lúa, tiếng Việt và nét đẹp văn
hóa, tâm hồn Việt Nam” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 5, 1999) để khẳng định ngôn
ngữ Việt phản ánh rõ nét nền văn minh lúa nước.

Trong cơng trình “Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt (Nghiên
cứu ngơn ngữ và văn hóa)” [10] có độ dày 352 trang, chia làm sáu chương,
nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Chiến đã khảo sát tương đối toàn diện mối quan
hệ văn hóa và ngôn ngữ và “tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt”. Mỗi
chương sách đều đem lại những phát hiện mới hoặc tổng hợp, hệ thống hóa
những phát hiện đã có mà tác giả thu thập được trong quá trình nghiên cứu về



×