Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 218 trang )

HOC VIấN CHINH TRI QUễC GIA Hễ CHI MINH

NGUYN THI THUN

VĂN HóA VIệT NAM
TRONG GIảNG DạY MÔN TIếNG VIệT
CHO HọC VIÊN NƯớC NGOàI ở NHà TRƯờNG QUÂN ĐộI

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: VN HểA HOC

H NễI - 2019


HOC VIấN CHINH TRI QUễC GIA Hễ CHI MINH

NGUYN THI THUN

VĂN HóA VIệT NAM
TRONG GIảNG DạY MÔN TIếNG VIệT
CHO HọC VIÊN NƯớC NGOàI ở NHà TRƯờNG QUÂN ĐộI

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: VN HểA HOC
Mó s: 62 31 06 40
NGI HNG DN KHOA HOC
1. PGS. TS. NGUYN DUY BC
2. PGS. TS. V THI PHNG HU

H NễI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Nguyễn Thị Thuần


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa Việt Nam
1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong ngôn ngữ và
trong tiếng Việt giảng dạy cho người nước ngoài
1.3. Những kết quả đã đạt được và khoảng trống trong nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU VĂN HÓA
VIỆT NAM TRONG MÔN TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN
NƯỚC NGOÀI Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI

2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 3: NỘI DUNG GIẢNG DẠY, TIẾP NHẬN VÀ TRẢI NGHIỆM BẢN

SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG MÔN TIẾNG VIỆT Ở NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

3.1. Bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện trong các giáo trình tiếng Việt sử
dụng ở nhà trường quân đội
3.2. Nội dung và phương pháp giảng dạy bản sắc văn hóa Việt Nam qua môn
Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội hiện nay
3.3. Việc tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa qua môn Tiếng Việt của
học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội hiện nay
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC TRUYỀN TẢI BẢN
SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG
VIỆT CHO HỌC VIÊN NƯỚC NGOÀI Ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN
ĐỘI HIỆN NAY

4.1. Về bản sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình
4.2. Về bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
4.3. Về tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa Việt Nam của học viên
nước ngoài ở nhà trường quân đội
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

11
11
17
27

34

34
64

72
72
83
97

110
110
120
134
146
150
151
160


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Khảo sát chủ đề văn hóa Việt Nam trong bài đọc trong giáo

73

trình tiếng Việt cơ sở
Bảng 3.2. Khảo sát chủ điểm giao tiếp trong bài đọc trong giáo trình

75

tiếng Việt cơ sở

Bảng 3.3. Khảo sát cụm từ cố định trong giáo trình tiếng Việt cơ sở

79

Bảng 3.4. Khảo sát mục tiêu truyền tải nội dung văn hóa trong các giáo

160

trình giảng dạy tiếng Việt trong quân đội (thời gian từ năm
2008 đến năm 2018)
Bảng 4. Triển khai hoạt động lớp học hướng đến phát triển năng lực
giao tiếp đa văn hóa

163


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HVNN:

Học viên nước ngoài

MTQS:

Môi trường quân sự

NCS :

Nghiên cứu sinh


NTQĐ:

Nhà trường quân đội

Nxb :

Nhà xuất bản


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển với
những điều kiện tự nhiên, xã hội khác nhau đều tạo ra nền văn hóa mang đặc
trưng của quốc gia, dân tộc ấy. Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, người
Việt đã sáng tạo ra một nền văn hóa có bản sắc không lẫn với văn hóa của các
dân tộc khác trên thế giới. Văn hóa Việt Nam được lưu truyền trong các thế hệ
cộng đồng người Việt và cộng đồng dân tộc, quốc gia khác bằng tiếng Việt.
Theo quan điểm của Deborah Peck (1998): “Không có giảng dạy văn hóa
thì việc giảng dạy ngôn ngữ là không chính xác, không đầy đủ và nặng nề”
[81]. Một người nước ngoài dù nắm rất chắc ngữ pháp và có vốn từ phong phú
nhưng thiếu hiểu biết về văn hóa thì khi giao tiếp bằng tiếng Việt cũng chỉ dừng
ở mức độ biết diễn đạt ý nghĩ của mình một cách vụng về bằng cách áp đặt
những quy tắc của tiếng mẹ đẻ. Văn hóa định hình quan điểm, cách nhìn và chi
phối sinh hoạt, ứng xử, giao tiếp của mỗi người, đồng thời cũng là những chuẩn
mực để đánh giá bản thân và người khác sống có phù hợp với văn hóa của cộng
đồng không? Và ngôn ngữ là yếu tố tiêu biểu nhất trong bất kỳ nền văn hóa
nào. Với mọi ngôn ngữ, việc sử dụng lời nói hay văn bản cũng là để truyền tải
một thông điệp văn hóa được hiểu theo ý nghĩa của người thực hành nó. Vì thế,
văn hóa Việt Nam được truyền dạy một cách tự nhiên thông qua quá trình dạy

và học ngôn ngữ sẽ giúp người nước ngoài sử dụng thành thạo tiếng Việt trong
bối cảnh xã hội và văn hóa Việt Nam.
Tuy nhiên, chuẩn mực trong nguyên tắc ứng xử của một nền văn hóa này
lại không phải là chuẩn mực của một nền văn hóa khác, các quan điểm được
một cộng đồng chấp nhận có thể không được đồng thuận ở một cộng đồng khác.
Người nước ngoài đến Việt Nam học tiếng Việt thời gian đầu thường ngạc
nhiên và bối rối trước những câu hỏi như: “Anh có gia đình chưa?”, “Anh đi


2
đâu đấy?”, “Anh bao nhiêu tuổi?”... Sự khác biệt về văn hóa khiến họ có những
đánh giá và cảm xúc khác nhau trước ngôn ngữ và môi trường văn hóa mới.
Chỉ những hiểu biết sâu sắc về văn hóa mới có thể giúp học viên nước ngoài
(HVNN) có điểm nhìn văn hóa từ bên trong, cho họ thấy sự tương đồng và khác
biệt trong môi trường đa văn hóa để từ đó có sự đồng cảm, yêu mến và tôn
trọng nền văn hóa họ đang theo học. “Văn hóa trong việc học ngôn ngữ không
phải là một kỹ năng thứ năm không cần thiết, gắn tạm vào việc dạy nói, nghe,
đọc và viết. Nó luôn luôn nằm trong nền tảng, ngay từ những ngày đầu, sẵn
sàng gây bối rối người giỏi ngôn ngữ vào lúc bất ngờ nhất, cho thấy hạn chế về
năng lực giao tiếp của họ, thách thức khả năng hiểu thế giới xung quanh của
họ” [80, tr.1].
Và như thế, văn hóa là phần không thể thiếu trong năng lực giao tiếp
ngôn ngữ và cũng chính là trọng tâm của giảng dạy tiếng Việt.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc giới thiệu văn
hóa trong ngôn ngữ là cơ hội để chúng ta quảng bá văn hóa Việt Nam phục vụ
công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng. Trước đây,
việc dạy tiếng Việt ở nhà trường quân đội (NTQĐ) chỉ tập trung chủ yếu cho
học viên Lào và Campuchia trong điều kiện giảng dạy còn nhiều hạn chế thì
ngày nay, đã có khoảng 30 nước cử quân nhân sang Việt Nam học tập theo hình
thức hiệp định và đối đẳng. Số lượng học viên tăng hàng năm đòi hỏi phải có

chiến lược giới thiệu văn hóa một cách chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, văn hóa
trong giảng dạy ngôn ngữ không chỉ là vấn đề nội sinh xuất phát từ mối quan
hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và văn hóa mà còn là đòi hỏi khách quan xuất phát từ
nhu cầu và sự chủ động, tích cực của người học. Những HVNN đến Việt Nam
học tập với mục đích tìm hiểu, cảm nhận, trải nghiệm giá trị, chuẩn mực của
văn hóa Việt Nam để vận dụng những kiến thức và tình cảm văn hóa vào việc
thi hành chính sách ngoại giao của đất nước mà họ đại diện với Đảng, Nhà nước


3
và Quân đội Việt Nam. Vì vậy, bên cạnh những mục tiêu chung cần có cái nhìn
đặc thù với đối tượng là HVNN trong nhà trường quân đội.
Nhận thức đúng đắn vai trò to lớn của văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng
Việt trong đào tạo đối ngoại, những năm qua, các NTQĐ đang từng bước mở
rộng đối tượng và nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Nhưng văn hóa là một phạm trù rộng lớn, việc định hướng nội dung văn hóa
trong giảng dạy tiếng Việt vẫn chưa được thống nhất trong đội ngũ giảng viên
và trong các trường. Giáo trình, tài liệu giảng dạy tiếng Việt trong NTQĐ hiện
nay chưa mang tính đặc thù dành cho đối tượng đào tạo; các phương pháp giảng
dạy hiện đại chưa được cập nhật. Nhu cầu được tiếp nhận, trải nghiệm văn hóa
Việt Nam trong môi trường quân sự (MTQS) của HVNN chưa được đáp ứng
một cách tổng thể và thống nhất. Các hoạt động trải nghiệm và thực hành văn
hóa chưa đi vào chiều sâu, chưa được nhìn nhận và đầu tư thích đáng...
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu cơ bản, hệ thống về
“Văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài
ở nhà trường quân đội” dưới góc nhìn Văn hóa học là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là thông qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt để bàn về bản sắc
văn hóa Việt Nam trong giáo trình, nội dung giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm
hướng đến việc nâng cao hiệu quả truyền tải văn hóa Việt Nam cho HVNN ở
nhà trường quân đội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện vấn đề văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ, đó là bản sắc văn hóa Việt Nam thể hiện ở các chủ điểm
văn hóa và giao tiếp ngôn ngữ trong giảng dạy tiếng Việt.


4
- Chỉ ra những biểu hiện của bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy
môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài.
- Làm rõ thực trạng vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam trong giáo trình,
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ hiện nay.
- Bàn luận những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bản
sắc văn hóa Việt Nam cho HVNN một cách hiệu quả trong môi trường giao
tiếp đa văn hóa ở NTQĐ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, có thể xác định đối tượng nghiên
cứu của luận án là bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Văn hóa Việt Nam là một phạm trù rộng lớn bao gồm nhiều
lĩnh vực, bản thân khái niệm văn hóa cũng mang tính động, phụ thuộc vào góc
nhìn của lĩnh vực nghiên cứu. Vì vậy, trong khuôn khổ của một luận án, nghiên
cứu sinh (NCS) đã giới hạn phạm vi nghiên cứu là bản sắc văn hóa Việt Nam.
Việc giới hạn phạm vi nghiên cứu xuất phát từ lý do lựa chọn đề tài, văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy ngôn ngữ là những yếu tố phản ánh quan điểm và tư

duy của dân tộc Việt Nam trong so sánh sự tương đồng và khác biệt với dân tộc
khác; từ nội dung văn hóa Việt Nam trong chương trình đào tạo; từ đối tượng
nghiên cứu; từ thực tế kinh nghiệm giảng dạy, từ trải nghiệm của NCS khi khảo
sát ở các NTQĐ. Như vậy, việc giới hạn nội dung văn hóa Việt Nam trong
phạm vi bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho người
nước ngoài là có cơ sở và phù hợp với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Không gian: Các học viện, nhà trường trong quân đội có nhiệm vụ đào
tạo tiếng Việt và chuyên ngành quân sự cho HVNN: Đoàn 871 (Long Biên, Hà


5
Nội), Học viện Khoa học quân sự (Hoài Đức, Hà Nội), Trường Sĩ quan Kỹ
thuật quân sự Vinhempich (Trường Đại học Trần Đại Nghĩa; Gò Vấp, Thành
phố Hồ Chí Minh), Trường Sĩ quan Lục quân 1 (Trường Đại học Trần Quốc
Tuấn; Sơn Tây, Hà Nội) và Trường Sĩ quan Lục quân 2 (Trường Đại học
Nguyễn Huệ; Biên Hòa, Đồng Nai).
- Thời gian: 10 năm (từ 2008 đến 2018). Đây là khoảng thời gian việc
giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ở NTQĐ trở thành nhiệm vụ chính
trị trung tâm của đào tạo đối ngoại quốc phòng. Văn hóa Việt Nam nói chung
và bản sắc văn hóa Việt Nam nói riêng được đặt ra như một yêu cầu khách quan
và chủ quan trong giảng dạy tiếng Việt cho đối tượng sẽ là “đại sứ” đưa văn
hóa Việt Nam đến với thế giới. Đó cũng là khoảng thời gian cần thiết để nhìn
lại chất lượng những giáo trình đã được lựa chọn, những phương pháp truyền
tải cần được đổi mới để từ đó bàn luận những vấn đề hướng đến nâng cao chất
lượng giảng dạy văn hóa Việt Nam cho HVNN ở NTQĐ hiện nay.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và bản

sắc văn hóa dân tộc để giới thuyết khái niệm, khảo sát bản chất của văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở nhà trường quân đội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Nghiên cứu văn hóa trong giảng
dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều
đối tượng. Vì vậy NCS sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành nhằm tiếp
cận ở các góc nhìn văn hóa học, ngôn ngữ học, phương pháp dạy học để giải
quyết vấn đề bản sắc văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.


6
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp: Luận án tập trung
nghiên cứu, phân tích các nguồn tài liệu, các kết quả nghiên cứu đã được công
bố về bản sắc văn hóa Việt Nam, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, các
chỉ thị, nghị quyết, các kết quả điều tra, nghiên cứu về văn hóa trong môn Tiếng
Việt cho HVNN ở NTQĐ từ năm 2008 đến nay; tiếp thu những kinh nghiệm,
nhận diện những bất cập từ đó tổng hợp, khái quát hóa, đưa ra những nhận định
có tính khoa học về văn hóa Việt Nam trong giảng dạy tiếng Việt cho HVNN
ở NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp này giúp tìm hiểu nhận thức
về bản sắc văn hóa, bản sắc văn hóa trong ngôn ngữ và biểu hiện của nó trong
môn Tiếng Việt đồng thời chỉ ra nội dung cốt lõi của văn hóa Việt Nam trong
môn Tiếng Việt giảng dạy cho HVNN ở nhà trường quân đội.
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Luận án sử dụng phương pháp này
giúp nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ một cách
toàn diện, trong mối tương quan với mục tiêu, chương trình đào tạo, giáo trình,
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm của HVNN, từ đó đưa ra những bàn luận
nhằm nâng cao chất lượng truyền tải văn hóa Việt Nam trong NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này giúp tham khảo ý kiến của
các chuyên gia có trình độ, những kinh nghiệm thực tế và trải nghiệm là cơ sở

làm rõ hơn phạm vi nghiên cứu, bàn luận những yếu tố đảm bảo và quyết định
trong việc nâng cao chất lượng truyền tải bản sắc văn hóa Việt Nam trong giảng
dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp điền dã: Sử dụng phương pháp này để có được những dữ
liệu trung thực, khách quan qua quan sát thực tế, ghi âm, ghi hình thực tiễn văn
hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ; qua đó nhận
thức sâu sắc, đầy đủ hơn về bản sắc văn hóa trong môn Tiếng Việt và đưa ra
những nhận xét, đánh giá mang tính khách quan, khoa học, có sức thuyết phục.


7
Trong quá trình điền dã, quan sát và tham dự trực tiếp vào quá trình giảng
dạy trong 5 học viện, nhà trường được giao nhiệm vụ hợp tác đào tạo HVNN ở
miền Bắc và miền Nam, NCS đã tiến hành 6 cuộc phỏng vấn (3 cuộc với 6
giảng viên và 3 cuộc với 12 học viên) nhằm xác định mục đích cốt lõi của văn
hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ; đánh giá bản sắc văn
hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở NTQĐ một cách
chân thực và khách quan; những mong muốn chủ quan và kết quả khách quan…
Kết quả điều tra là cơ sở xác định nội dung cốt lõi của văn hóa Việt Nam trong
môn Tiếng Việt là bản sắc văn hóa. Đó cũng là cơ sở khoa học để bàn luận về
yếu tố đảm bảo và yếu tố quyết định nâng cao hiệu quả bản sắc văn hóa trong
môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để xác định bản sắc văn hóa Việt
Nam đã được giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm trong NTQĐ như thế nào thì
việc trưng cầu đánh giá của hai đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình dạy,
học là giảng viên và học viên về bản sắc văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng
Việt ở NTQĐ là rất quan trọng. Do vậy, NCS xây dựng nội dung chi tiết cho
việc điều tra xã hội học như sau:
Về thành phần điều tra
Cán bộ, giảng viên tham gia khảo sát có 50 người. Trong đó theo cấp bậc

có 20% (10/50) viên chức quốc phòng; 28% (14/50) từ thiếu úy đến đại úy,
46% (23/50) là thiếu tá và trung tá, 6% (3/50) là thượng tá và đại tá. Theo trình
độ học vấn có 26% (13/50) trình độ đại học, 72% (26/50) trình độ thạc sĩ và
2% (1/50) trình độ tiến sĩ. Theo ngành đào tạo có 80% (40/50) được đào tạo
chuyên ngành văn học và ngôn ngữ học, 20% (10/50) được đào tạo chuyên
ngành ngoại ngữ. Theo thâm niên giảng dạy có 76% (38/50) từ 10 năm trở lên.
Thành phần tham gia điều tra là các giảng viên đủ kinh nghiệm dạy học, có
chuyên môn phù hợp với giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường quân đội.


8
Học viên tham gia khảo sát với số lượng là 300 người. Có 50% (150/300)
đang học trình độ cơ sở 1 năm; 50% (150/300) đang học chuyên ngành từ năm
thứ hai trở lên. Các học viên đã và đang học gần hết một năm học trở lên, sử
dụng khá thành thạo tiếng Việt, có thể giao tiếp với người bản ngữ.
Các giảng viên và học viên tham gia điều tra xã hội học ở 5 trung tâm
đào tạo HVNN trong NTQĐ. Đó là: Đoàn 871, Học viện Khoa học quân sự,
Trường Sĩ quan Kỹ thuật quân sự Vinhempich, Trường Sĩ quan Lục quân 1,
Trường Sĩ quan Lục quân 2.
Về phương thức tiến hành tổ chức khảo sát
- Về mục đích: khảo sát bản sắc văn hóa Việt Nam trong hệ thống bài
đọc, các chủ điểm giao tiếp, các từ cố định và thành ngữ trong giáo trình tiếng
Việt; tập trung đánh giá thực trạng nội dung, tiếp nhận, trải nghiệm, thực hành
văn hóa Việt Nam; từ đó bàn luận về các yếu tố đảm bảo và quyết định chất
lượng văn hóa trong môn Tiếng Việt ở NTQĐ hiện nay.
- Về thời gian và quy mô: điều tra xã hội học được tiến hành từ tháng 6
năm 2017 đến tháng 6 năm 2018; trong đó tiến hành điều tra xã hội học 50 cán
bộ, giảng viên và 300 học viên ở 5 học viện, nhà trường trên cơ sở phiếu điều
tra được thiết kế, xây dựng theo mục đích nghiên cứu.
- Về phương pháp và kỹ thuật điều tra: Để đạt được mục đích nghiên

cứu, NCS đã sử dụng 50 phiếu hỏi anket cho giảng viên (trong tổng số 57 giảng
viên của các trường khảo sát) và 300 phiếu hỏi anket cho học viên để đánh giá
tình hình thực tế văn hóa Việt Nam trong giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm ở
NTQĐ hiện nay.
Về tiêu chí khảo sát
Nghiên cứu sinh tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng từng yếu tố trong
giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm văn hóa Việt Nam trên các phương diện:
khảo sát giáo trình; điều tra xã hội học nội dung, phương pháp giảng dạy đối


9
với người dạy và tiếp nhận, trải nghiệm đối với người học, đánh giá trung thực
và khách quan văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ
hiện nay. Cụ thể như sau:
- Khảo sát 12 giáo trình được sử dụng trong các NTQĐ trong 10 năm trở lại
đây (từ 2008 đến 2018), đánh giá mối tương quan giữa các yếu tố thực có và những
yếu tố cần có để đảm bảo nhu cầu giảng dạy, tiếp nhận bản sắc văn hóa Việt Nam
trong NTQĐ hiện nay.
- Khảo sát nội dung, phương pháp giảng dạy văn hóa Việt Nam để tìm hiểu
thực trạng và những nhu cầu trong NTQĐ hiện nay.
- Khảo sát việc tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa Việt Nam của
HVNN trong NTQĐ hiện nay để đánh giá thực trạng và những yêu cầu từ tình
hình thực tế của đối tượng người học môn Tiếng Việt khá đặc thù trong nhà
trường quân đội.
Kết quả định lượng trong khảo sát là cơ sở đưa ra những kết luận thực tiễn
góp phần xác định nội dung văn hóa Việt Nam trong môn Tiếng Việt là bản sắc
văn hóa, những điều kiện đảm bảo và quyết định để nâng cao bản sắc văn hóa Việt
Nam trong môn Tiếng Việt. Sau khi tổng hợp kết quả từ khảo sát giáo trình và thu
thập ý kiến của đối tượng khảo sát, các số liệu được xử lý và cho ra kết quả định
lượng phục vụ mục đích nghiên cứu. Đây là nguồn thông tin cung cấp luận cứ cho

hầu hết các phân tích và lập luận trong luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Về tư liệu: Luận án có những đóng góp trong sưu tầm, thẩm định khối
tư liệu, tài liệu về bản sắc văn hóa, mối quan hệ giữa văn hóa và ngôn ngữ, văn
hóa và ngôn ngữ trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
- Về nội dung, hàm lượng khoa học cũng như phương pháp, luận án là
công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về văn hóa Việt Nam trong giảng
dạy môn Tiếng Việt ở NTQĐ. Luận án có ý nghĩa tạo ra hướng nghiên cứu liên


10
ngành văn hóa, ngôn ngữ và phương pháp giảng dạy dưới góc nhìn văn hóa học
mới cả về học thuật lẫn phương pháp; đóng góp cho cách tiếp cận bản sắc văn
hóa trong ngôn ngữ giảng dạy cho HVNN. Đối với mục tiêu làm đậm bản sắc
văn hóa Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho HVNN ở NTQĐ, các
kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có tác dụng làm rõ nội dung, cách tiếp cận
phương pháp giảng dạy hiện đại, cách thức tổ chức thực hành và trải nghiệm
văn hóa trong MTQS hướng đến đối tượng HVNN sử dụng tiếng Việt trong
công tác đối ngoại quân sự và hợp tác quốc phòng với Quân đội, Đảng và Nhà
nước Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án được
chia thành 4 chương, 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong
môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà trường quân đội.
Chương 3: Nội dung giảng dạy, tiếp nhận và trải nghiệm bản sắc văn hóa
Việt Nam trong môn Tiếng Việt ở nhà trường quân đội hiện nay.
Chương 4. Những vấn đề đặt ra đối với việc truyền tải bản sắc văn hóa
Việt Nam trong giảng dạy môn Tiếng Việt cho học viên nước ngoài ở nhà

trường quân đội hiện nay.


11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA VIỆT NAM

Hơn một thế kỷ nay, Văn hóa học đã trở thành một ngành khoa học có
đối tượng và chức năng riêng được các nhà nghiên cứu ở các nước Anh (Edward
Burnett Tylor, 1897), Nga (Nikolay Yakovlevich Danilevsky, 1880), Đức
(Wilhelm Ostwald, 1909), Mỹ (Leslie Alvin White, 1949) và các nhà khoa học
ở nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm.
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu thường lấy “Việt Nam văn hóa sử
cương” [2] của tác giả Đào Duy Anh làm mốc cho việc nghiên cứu văn hóa.
Đặc biệt từ tháng 4 năm 1943, Hội Văn hóa cứu quốc ra đời đã tập hợp được
hầu hết các trí thức tiêu biểu của đất nước cho công cuộc xây dựng và phát triển
một nền văn hóa dân tộc và cách mạng.
Văn hóa đã được nhiều tổ chức, nhiều nhà nghiên cứu bàn đến trực tiếp, tạo
ra không khí học thuật sôi nổi trong các công trình như: “Bản sắc văn hóa Việt
Nam” của Phan Ngọc [41], “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc
Thêm [61], “Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm” của Trần Quốc Vượng [77],
“Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”
của Nguyễn Khoa Điềm [19]… những năm cuối thế kỷ XX.
Các công trình nghiên cứu cho thấy, văn hóa trở thành một khoa học thực
sự, nội hàm của khái niệm bao quát một phạm vi rất rộng lớn và phụ thuộc vào
đối tượng và mục tiêu của nhà nghiên cứu.
Trong số những tác giả bàn về văn hóa và bản sắc văn hóa, nhà nghiên
cứu Lê Quang Thiêm là người bàn nhiều đến phương pháp luận. Trong công

trình “Văn hóa văn minh và yếu tố truyền thống văn hóa Hàn” [63], ông đã đi
từ định vị bản sắc văn hóa để nêu lên các bình diện của bản sắc văn hóa dân


12
tộc. Lê Quang Thiêm đã phân biệt 3 thuật ngữ: bản sắc dân tộc, bản sắc văn
hóa, bản sắc văn hóa dân tộc và ông đi đến kết luận: “Bản sắc văn hóa là hệ
thống giá trị sáng tạo đặc trưng, tinh túy nhất, đặc sắc nhất của nền văn hóa
tương ứng hay nói cách khác, bản sắc văn hóa là những giá trị sáng tạo đặc
trưng nhất, tiêu biểu nhất, lâu bền nhất của văn hóa” [63, tr.149].
Trên cơ sở đó, ông xác định các đường hướng chung cho việc tìm hiểu
bản sắc văn hóa Việt Nam. Ông cho rằng bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là
bản sắc văn hóa của quốc gia đa dân tộc, tiếp biến nhuần nhuyễn những yếu tố
văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Âu Mỹ, hòa đồng với tự nhiên, làng bản, đất nước.
Một bản sắc văn hóa đa dạng, đa sắc màu, cởi mở, tiếp xúc, tiếp biến. Theo
ông, bản sắc văn hóa Việt Nam cũng còn biểu hiện ở một số hằng số tự nhiên.
Đó là sự kiên trì, bản lĩnh bám trụ, trách nhiệm đối với dân tộc và cộng đồng
của chủ thể sáng tạo.
Từ góc độ lịch sử để nghiên cứu văn hóa, có thể khẳng định những nghiên
cứu của Trần Quốc Vượng đã thu được nhiều thành công. Với công trình “Văn
hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm” [77], tác giả đặt văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á. Trong khi một số nhà nghiên cứu trên thế
giới phủ nhận sự hiện hữu của văn hóa Việt Nam, coi Việt Nam là một Trung
Hoa thu nhỏ, xếp tiếng Việt vào nhóm Hán - Tạng thì những nghiên cứu về văn
hóa của Trần Quốc Vượng đã có tính cách mạng đối với văn hóa Việt Nam:
“Văn hóa Việt Nam, văn minh sông Hồng và văn hóa Trung Quốc, văn minh
Hoàng Hà, khác nhau từ căn bản, từ cội nguồn” [77, tr.35]. Ông bàn về bản sắc
văn hóa Việt Nam từ nhiều góc nhìn khi có cơ hội. Tuy nhiên những nghiên
cứu về bản sắc văn hóa của Trần Quốc Vượng thiên về những gợi mở về
phương pháp luận và các hướng tiếp cận cho các nhà nghiên cứu.

Không đi sâu vào những vấn đề có tính lịch đại, nhưng những kết quả
nghiên cứu bản sắc văn hóa ở phương diện đồng đại của các tác giả Huỳnh Khái


13
Vinh, Hồ Sĩ Vịnh, Nguyễn Khoa Điềm, Đặng Đức Siêu... đã để lại những đóng
góp có giá trị. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tác giả Hồ Sĩ Vịnh (1999) trong công trình “Văn
hóa văn học, một hướng tiếp cận mới” cho rằng: “Bản sắc dân tộc là một tổng
hòa những đặc điểm của một dân tộc trên nhiều mặt: lịch sử, địa lý, truyền
thống, tâm lý… đã tạo nên diện mạo và dáng vóc riêng của dân tộc đó” [75,
tr.71]. Bên cạnh đó, ông cũng phân biệt hai thuật ngữ bản sắc dân tộc và bản
sắc dân tộc trong văn hóa. Ông coi văn hóa là “gương mặt của dân tộc” và “bản
sắc dân tộc trong văn hóa có mặt tích cực cũng như mặt phiến diện, mặt tươi
sáng và mặt phức tạp do hoàn cảnh xã hội, chiều dày lịch sử, môi trường địa lý,
truyền thống và tâm lý của cộng đồng trên mảnh đất lâu đời đó tạo nên” [75,
tr.72]. Cũng trong công trình nghiên cứu “Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa”
(Hồ Sĩ Vịnh chủ biên), Quang Đạm, tác giả bài viết “Thử miêu tả bản sắc dân
tộc, bản sắc văn hóa Việt Nam” nhận xét: “Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát
một cách uyển chuyển, linh hoạt những đặc điểm của dân tộc, tạo nên diện mạo
và hình dạng riêng của dân tộc ấy không thể đồng nhất với dân tộc khác trong
cộng đồng khu vực hay cộng đồng loài người” [45, tr.15].
Đứng ở góc độ khoa học chính trị, công trình tập thể “Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [19] do nhà
nghiên cứu Nguyễn Khoa Điềm chủ biên rất cần được lưu ý vì tính chất phổ
quát của nó. Từ quan điểm của Đảng về văn hóa, các nhà nghiên cứu đã đề cập
đến vấn đề bản sắc văn hóa với phương châm bảo vệ quyền lợi chính trị của
quốc gia, dân tộc. Văn hóa và bản sắc văn hóa được đặt ra trong mối liên hệ
nhiều chiều có tính biện chứng. Trong quá trình nghiên cứu năm giai đoạn phát
triển của văn hóa, các tác giả đã khái quát năm đặc điểm của văn hóa Việt Nam

và khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc được xác định là sự tổng hòa của các
khuynh hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc; có mối liên hệ


14
thường xuyên và định hướng của cái riêng (văn hóa dân tộc) với cái chung (văn
hóa khu vực, văn hóa nhân loại); liên hệ lâu dài, sâu sắc và bền vững với lịch
sử dân tộc. Những lý giải như vậy có ý nghĩa gợi mở các hướng nghiên cứu
truyền tải và giao lưu văn hóa.
Vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là bàn luận của các nhà văn
hóa mà còn là vấn đề của Đảng, vấn đề của cả dân tộc. Trên cơ sở các kết luận
của các nhà khoa học tâm huyết với nền văn hóa dân tộc, kết luận của các hội
nghị khoa học về văn hóa Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam đã tổng kết và đưa vào Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5
(Khóa VIII) nội dung bản sắc văn hóa Việt Nam:
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân, gia đình, làng xã, tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế
trong ứng xử, giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét
trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo [16].
Ở cách tiếp cận văn hóa dưới góc độ triết học, các nhà nghiên cứu
Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý trong công trình “Tìm hiểu
giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
[11] đã đưa ra một cách nhìn mới về bản sắc văn hóa. Trong phần xác định các
giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, các nhà triết học đã thống nhất với
nhiều nhà văn hóa lịch sử trong việc khẳng định hằng số văn hóa được bản sắc
hóa dựa trên cơ sở tập hợp các yếu tố: địa - văn hóa nhiệt đới, gió mùa bán đảo;

cư dân sống thành làng xã làm ruộng, làm vườn, có thiết chế gia đình huyết tộc
như nhiều cư dân Nam Á. Các tác giả đã khẳng định những đặc điểm về địa


15
chính trị, về tiềm năng thích ứng của người Việt Nam, về chủ nghĩa nhân văn
giàu lòng yêu nước, vị tha, tự lực, tự cường, về văn hóa tâm linh, tục thờ Mẫu,
nghệ thuật dân gian, văn chương bác học… Điều đặc biệt là dưới góc độ triết
học, các nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh những giá trị không thuộc về ưu điểm
của văn hóa truyền thống. Trong nền văn hóa ngàn năm của người Việt, công
nghiệp, thương nghiệp, luật pháp không phải đã được chú trọng để nâng cao
năng suất và giữ gìn trật tự xã hội. Sĩ tử đi thi thường nghĩ đến sự giúp nước,
làm quan; không làm quan thì làm thầy... Cách đánh giá những giá trị văn hóa
truyền thống với chủ trương bảo tồn và phát huy những giá trị đó trong thời đại
công nghiệp hóa, hiện đại hóa như vậy rất thiết thực trong thời đại hiện nay.
Những cách tiếp nhận như đã kể trên có sự đan xen, phối hợp của nhiều
phương pháp khoa học nhưng dấu ấn của một ngành khoa học cụ thể vẫn để lại
đậm nét trong cách lập luận, trong các vấn đề mà các tác giả đưa ra nhận xét.
Bên cạnh việc tiếp cận bản sắc văn hóa qua cách nhìn của một ngành
khoa học, lại có những nhà nghiên cứu đi từ những yếu tố văn hóa để khẳng
định bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những công trình tiêu biểu về văn hóa và
bản sắc văn hóa của hai nhà nghiên cứu Phan Ngọc và Trần Ngọc Thêm.
Trong công trình “Bản sắc văn hóa Việt Nam” (1988) và “Thử xét văn
hóa, văn học bằng ngôn ngữ học” (2000), nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã xây
dựng một hệ thống thuật ngữ, khái niệm về văn hóa. Ông đã “công thức hóa”
văn hóa Việt Nam:
Tôi gọi văn hóa Việt Nam là văn hóa Việt Nam bốn F, bởi vì bốn
thành tố quyết định diện mạo của văn hóa này có thể dịch ra bốn từ
tiếng Anh bắt đầu bằng chữ F. Đó là Tổ quốc (Fatherland), Gia đình
(Family), Thân phận (Fate), và Diện mạo (Face) [42, tr.24].

Ông đã chỉ ra được thực chất và sáng tạo của văn hóa Việt Nam là “lắp
ghép, dung hóa”. Người Việt Nam lấy những yếu tố có sẵn vốn là của mình


16
hoặc mượn của người, cấu trúc lại, tức cấp cho chúng một kiểu “quan hệ” để
tạo thành một sản phẩm khác phù hợp với mình. Nếu bản sắc văn hóa Việt Nam
được cụ thể hóa trong giao lưu và tiếp biến văn hóa, thích ứng với từng hoàn
cảnh lịch sử xã hội thì cái tạo thành tính bất biến của các ứng xử ấy là tâm thức
con người Việt Nam trong quá trình phát triển của lịch sử:
Cái tạo thành tính bất biến của hệ thống quan niệm này là nhu cầu
của tâm thức con người Việt Nam. Nhu cầu này về cơ bản là như
nhau ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, không liên quan tới tài sản, học
vấn và khá ổn định mặc dầu một tầng lớp người có thể chiếm ưu thế
so với các tầng lớp khác [41, tr.32].
Tuy nhiên, nếu thừa nhận tính thời đại, tính lịch sử của các yếu tố văn
hóa thì ý kiến cho rằng bản sắc văn hóa là cái bất biến trong quá trình phát triển
của lịch sử là vấn đề còn phải bàn luận, nhất là trong bối cảnh giao lưu mạnh
mẽ như hiện nay. Nhưng những đóng góp của nhà nghiên cứu Phan Ngọc với
tư cách người tiên phong trong nghiên cứu văn hóa như một khoa học độc lập
thì không ai thể phủ nhận được.
Dưới cái nhìn hệ thống - loại hình, công trình “Tìm về bản sắc văn hóa
Việt Nam” [61] của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã có nhiều đóng góp
trong nghiên cứu. Theo ông, văn hóa được nghiên cứu một cách khái quát, tổng
thể, vừa mang tính lịch đại vừa mang tính đồng đại, lấy cấu trúc hệ thống làm
hệ quy chiếu với rất nhiều tư liệu của các ngành khoa học như khảo cổ học,
ngôn ngữ học, nhân chủng học, địa lý học, tín ngưỡng, nghệ thuật học... Ông
đã khái quát cấu trúc của văn hóa bao gồm 4 yếu tố:
- Văn hóa nhận thức: trong đó bao gồm nhận thức vũ trụ và con người.
- Văn hóa tổ chức cộng đồng: bao gồm văn hóa tổ chức đời sống tập thể

và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân.
- Văn hóa ứng xử với môi trường thiên nhiên: bao gồm văn hóa tận dụng
môi trường thiên nhiên và văn hóa ứng phó với môi trường thiên nhiên.


17
- Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội: bao gồm văn hóa tận dụng môi
trường xã hội và văn hóa ứng phó với môi trường xã hội.
Đây là một công trình nghiên cứu về văn hóa và bản sắc văn hóa Việt
Nam có quy mô lớn với hệ thống bảng biểu phong phú.
Một cách nhìn khác, từ góc độ lý thuyết, nhà nghiên cứu Đoàn Thị Tuyến
(2014) trong “Bản sắc văn hóa từ góc độ lý thuyết” (đề tài cấp cơ sở, Viện
Nghiên cứu Văn hóa) đã tập trung tìm hiểu các vấn đề liên quan tới bản sắc văn
hóa theo các lý thuyết của nhiều học giả phương Tây. Bản sắc văn hóa được đề
cập với tư cách là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội và nhân
văn và tiếp cận theo những lý thuyết được coi là hiện đại trong các xu hướng
nghiên cứu về văn hóa hiện nay. Theo tác giả:
Tiếp cận bản sắc chủ yếu theo hai xu hướng chính đó là bản thể luận
và phản bản thể luận, trong đó, xu hướng thứ hai dường như đang
chiếm được ưu thế hơn. Theo quan điểm này, bản sắc văn hóa được
tiếp cận như một quá trình, ở đó các yếu tố cấu thành của bản sắc
luôn luôn vận động và hay thay đổi [73, tr.19].
Các quan điểm này đã cung cấp những cái nhìn đa chiều về bản sắc văn hóa
và cho thấy nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc chưa bao giờ hết mới mẻ và thiếu
sự khám phá. Tuy nhiên, có một điểm chung giữa các quan niệm về bản sắc văn
hóa trên đây là xem bản sắc văn hóa giống như một “tấm thẻ căn cước”, là “gương
mặt” của mỗi cộng đồng dân tộc. Văn hóa dân tộc có mặt tĩnh và mặt động.
Dựa vào kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, NCS đã xác định cách
tiếp cận bản sắc văn hóa của luận án và trình bày cụ thể ở những mục dưới đây.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG

NGÔN NGỮ VÀ TRONG TIẾNG VIỆT GIẢNG DẠY CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa Việt Nam trong ngôn ngữ
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hóa đã
có gần một trăm năm và bao gồm một số khuynh hướng khác nhau, phản ánh


18
ảnh hưởng của các khuynh hướng học thuật khác nhau của ngành ngôn ngữ
học Việt Nam.
Kể từ thập niên 1970, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương đã chọn hướng
tiếp cận liên ngành để khảo sát các vấn đề ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử của các
dân tộc Việt Nam và Đông Nam Á. Những công trình liên quan đến hướng tiếp
cận này của ông có thể kể như: “Một số cứ liệu ngôn ngữ về sự thân thuộc giữa
các dân tộc thuộc nhóm Tạng Miến ở miền Bắc Việt Nam” (Thông báo Dân tộc
học, số 3, 1973); “Về ngôn ngữ Tiền - Việt Mường” (cùng với Hà Văn Tấn, Tạp
chí Dân tộc học, số 1, 1978); “Về quan hệ Việt Mường - Tày Thái qua tư liệu
dân tộc ngôn ngữ học” (Tạp chí Dân tộc học, số 3, 1978); “Một số vấn đề dân
tộc - ngôn ngữ học ở nước ta” (Tạp chí Dân tộc học, số 4, 1978); “Về mối quan
hệ nguồn gốc của các ngôn ngữ nhóm Việt Mường” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1,
1979); “Từ vấn đề ngôn ngữ Việt Mường góp phần tìm hiểu nguồn gốc dân tộc”
(Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1981); “Vấn đề Proto - Việt Mường trong
lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á thời cổ đại” (Những vấn đề ngôn ngữ học về
các ngôn ngữ phương Đông, 1986); “Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đông
Nam Á” (2000) [13]; “Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và
Đông Nam Á” (2007) [14];...
Đặc biệt, chính nhờ sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành dân tộc ngôn ngữ học, phối hợp với những tư liệu khảo cổ và thư tịch cổ Việt Nam mà
vào năm 1978, nhà nghiên cứu Phạm Đức Dương cùng với nhà sử học Hà Văn
Tấn trong bài “Về ngôn ngữ Tiền - Việt Mường” (Tạp chí Dân tộc học, số 1,
1978) đã xác lập được một giả thiết có tính thuyết phục cao về nguồn gốc hình

thành dân tộc Việt và tiếng Việt trên địa bàn trung du và đồng bằng Bắc bộ.
Quá trình này bắt đầu từ 2000 năm trước Công nguyên, tương ứng với giai đoạn
mở đầu của thời đại Hùng Vương trong truyền thuyết của dân tộc Việt. Phát huy
những kết quả đã đạt được, trong các bài giảng về Văn hóa Đông Nam Á và Đông


19
Nam Á học cho sinh viên, tác giả Phạm Đức Dương cũng sử dụng cách tiếp cận
liên ngành trên và nhờ đó đã đem lại những kiến giải sâu sắc, thấu đáo về lịch sử
hình thành các dân tộc và các nền văn hóa ở Việt Nam và Đông Nam Á. Quan
điểm của ông đã đóng góp lý luận cho nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa và
ngôn ngữ: “Ngôn ngữ được xem là đặc trưng của tộc người, ngôn ngữ được xem
là gia tài quý giá nhất và đích thực nhất để nhận diện một dân tộc” [14, tr.83].
Cách tiếp cận liên ngành ngôn ngữ - dân tộc học cũng là hướng nghiên
cứu của một số nhà ngôn ngữ khác như Nguyễn Văn Lợi với bài “Tộc danh của
một số dân tộc ở Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Vấn đề tên gọi Giao Chỉ”
[44], Nguyễn Đức Tồn với bài “Nghiên cứu đặc trưng văn hóa - dân tộc qua
ngôn ngữ và tư duy ngôn ngữ” [44]), v.v…
Các công trình nghiên cứu có tính chất liên ngành của các nhà ngôn ngữ đã
tạo nên nền móng ban đầu cho chuyên ngành dân tộc - ngôn ngữ học Việt Nam,
tạo cơ sở cho nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa, lịch sử của các cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh đó, khuynh hướng văn hóa - ngôn ngữ học hay ngôn ngữ học
văn hóa được hình thành trong thập niên 1990 bước đầu đã tạo lập được một số
cơ sở về mặt phương pháp luận cho sự ra đời một môn học hoặc một chuyên
ngành mà những người đề xuất gọi là “văn hóa - ngôn ngữ học”.
Đề xuất thành lập môn học mới với tên gọi “văn hóa - ngôn ngữ học”
hay “ngôn ngữ học văn hóa” là nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong các bài
viết như: “Đi tìm ngôn ngữ của văn hóa và đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ”
[44], “Ngữ dụng học và văn hóa - ngôn ngữ học” (Tạp chí Ngôn ngữ, số 4,
1999). Theo ông, đây là một môn học nằm ở ranh giới giữa ngôn ngữ học với

văn hóa học; có thể chia thành hai bộ phận: văn hóa - ngôn ngữ học trong phạm
vi một dân tộc và văn hóa - ngôn ngữ học trong phạm vi nhiều dân tộc.
Năm 2000, tác giả Đỗ Hữu Châu trong bài “Tìm hiểu văn hóa qua ngôn
ngữ” cũng vạch ra một “đề cương phương pháp luận” tuy chưa đầy đủ cho việc


×