Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH NHẬT TRƢỜNG

THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐINH NHẬT TRƢỜNG

THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự & Tố tụng Hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. VÕ THỊ KIM OANH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN



Đề tài “Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình do
chính tác giả tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện. Những nội dung, ý tưởng của các
tác giả khác trong tài liệu tham khảo đều được trích dẫn theo đúng quy định. Nội
dung luận văn này không sao chép từ bất kỳ tài liệu hay luận văn nào khác.
Học viên thực hiện luận văn

Đinh Nhật Trƣờng


Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..............................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................3
3.1. Mục đích nghiên cứu ..........................................................................3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................4
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ...............................................4
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu .....................................5
6. Ý nghĩa luận văn ........................................................................................5
7. Bố cục luận văn ..........................................................................................5

CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...................................................................................... 6
1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự .................................6
1.1.1 Định nghĩa thủ tục rút gọn ...............................................................6
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn ..........................................................7
1.1.3 Ý nghĩa của thủ tục rút gọn ............................................................11
1.2. Cơ sở hình thành quy định thủ tục rút gọn trong pháp luật Tố tụng
Hình sự Việt Nam ....................................................................................................13

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Tố tụng
Hình sự về thủ tục rút gọn từ năm 1945 đến trƣớc năm 2003 ............................17

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN
HÀNH VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.............. 24
2.1. Quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục rút gọn ...24
2.1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn ...................................................24
2.1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn .................................................26


2.1.3. Thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn ............................................34
2.1.4. Thời hạn trong thủ tục rút gọn ......................................................38
2.1.5. Quyền bào chữa và quy định về áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong thủ tục rút gọn ...........................................................................................41
2.1.6. Một số quy định khác về thủ tục rút gọn .......................................43
2.2. Thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn ......................................................44

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THỦ
TỤC RÚT GỌN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ....................................... 52
3.1. Nhu cầu hồn thiện thủ tục rút gọn trong Tố tụng Hình sự .............52
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn ...............55
3.2.1. Giải pháp về lập pháp ...................................................................55
3.2.2. Giải pháp về hoạt động áp dụng pháp luật ...................................66

KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết vụ án hình sự chính xác, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí tố tụng
đồng thời khơng bỏ lọt tội và tránh làm oan người vô tội luôn là mục tiêu hàng đầu
trong q trình xây dựng, hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Chính vì đạt mục
đích này mà nhiều biện pháp hỗ trợ trong tố tụng hình sự và thủ tục tố tụng hình sự
đặc biệt được ra đời. Một trong những thủ tục đặc biệt đó là thủ tục rút gọn.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam kể từ lần pháp điển hóa đầu tiên bằng Bộ
luật Tố tụng Hình sự năm 1985, tuy khơng quy định về thủ tục rút gọn nhưng thủ
tục này đã được hướng dẫn trong các Thông tư liên ngành số 11/TTLN ngày
20/10/1990 và Thông tư liên ngành số 12/TTLN ngày 31/12/1990 hướng dẫn điều
tra, truy tố, xét xử một số loại tội phạm theo thủ tục đặc biệt. Nhận thấy được tính
ưu việt của thủ tục này nên Bộ chính trị cũng đã quán triệt “nghiên cứu để quy định
và thực hiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang,
chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng…” trong Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị và lần đầu tiên thủ tục rút gọn được quy định
trong một văn bản luật đó là Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Bên cạnh đó, để
hồn thiện thủ tục rút gọn, tạo điều kiện để thủ tục rút gọn có thể phát huy hiệu quả
tối ưu, tất yếu cần phải được tiếp tục nghiên cứu do vậy nhiệm vụ này tiếp tục được
xác định rõ trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút
gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”.
Thủ tục rút gọn là thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự được áp dụng để giải
quyết những vụ án hình sự đối với tội phạm ít nghiêm trọng, có tính chất quả tang,
đơn giản, chứng cứ rõ ràng, người thực hiện hành vi phạm tội có căn cước, lai lịch
rõ ràng. Thủ tục này rút ngắn về thời gian, đơn giản về thủ tục nhằm giải quyết
nhanh chóng vụ án hình sự, góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm nhanh
chóng, hiệu quả; tiết kiệm chi phí; giảm bớt thực trạng án tồn đọng; đồng thời đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong tố tụng hình sự.
Thủ tục rút gọn là một quy định tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển

chung, tuy nhiên thực trạng áp dụng thủ tục này trong thời gian qua không mang lại
hiệu quả như mong muốn “Việc áp dụng thủ tục rút gọn chưa được chú trọng, tỷ lệ


2

vụ án áp dụng thủ tục rút gọn trên tổng số vụ án khởi tố điều tra chiếm tỷ lệ quá
thấp, mặc dù có nhiều vụ án có đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn”1. Thực trạng
trên do nhiều nguyên nhân như: Hiến pháp năm 1992 chưa có quy định về thủ tục
rút gọn; các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa chặt chẽ, mang
tính tùy nghi; thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành; bất cập về thời hạn điều tra,
truy tố, xét xử dẫn đến việc các cơ quan, người tiến hành tố tụng lúng túng trong
việc áp dụng hoặc áp dụng khơng thống nhất… với những bất cập trên địi hỏi các
vấn đề về thủ tục rút gọn cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Việc Hiến pháp
năm 2013 lần đầu tiên ghi nhận thủ tục rút gọn tại Khoản 1 và Khoản 4 Điều 103 đã
tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc cho việc nghiên cứu, hồn thiện các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn nhằm đưa những quy định tiến
bộ này vào cuộc sống, được áp dụng rộng rãi và phát huy hiệu quả cao nhất. Đây
chính là lý do mà tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Thủ tục rút gọn trong Tố tụng Hình
sự Việt Nam” làm luận văn cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là một quy định tiến bộ, góp phần giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự
đồng thời bảo vệ quyền con người, thủ tục rút gọn được các nhà nghiên cứu, các
nhà hoạt động thực tiễn quan tâm và nghiên cứu. Có thể kể tên một số cơng trình,
bài viết sau:
- Bùi Quang Huy (2007), Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. Luận văn đã nghiên cứu, phân tích sự cần thiết
và những nội dung cụ thể của thủ tục rút gọn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
như phạm vi áp dụng, điều kiện áp dụng, về thời hạn, vấn đề bảo đảm quyền bào
chữa cho bị can, bị cáo...Và so sánh với quy định của pháp luật tố tụng hình sự một

số nước trên thế giới để thấy rõ những bất cập trong quy định về thủ tục rút gọn ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, một số quan điểm trong luận văn cần phải làm rõ thêm
như: kiến nghị không cần thiết phải quy định điều kiện “phạm tội quả tang” vì tác
giả cho rằng điều kiện này trùng lắp với điều kiện “sự việc phạm tội đơn giản,
chứng cứ rõ ràng” đây là quan điểm chưa toàn diện; tác giả khơng nhất trí tăng thêm

1

Theo báo cáo số 205/TANDTC-KHXX ngày 02/10/2012 của Tòa án nhân dân tối cao về Tổng kết
việc thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, có xấp xỉ 0,5 % số vụ án được xét xử theo thủ tục
rút gọn.


3

thời hạn tố tụng cho thủ tục rút gọn tuy nhiên thực tiễn đến nay vẫn cho thấy cần
phải tăng thêm thời hạn cho thủ tục rút gọn…
- Hoàng Anh Trí (2006), Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, Luận văn cử
nhân. Đề tài góp phần làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu của chế định thủ tục rút
gọn theo quy định của pháp luật tố tụng, phân tích, nhận xét những quy định của thủ
tục rút gọn nhưng chỉ tập trung nhiều vào lý luận, phân tích luật thực định chứ chưa
có đúc kết thực tiễn thi hành và những đề xuất sửa đổi, bổ sung.
- Nguyễn Minh Quang (2001), Thủ tục rút gọn trong pháp luật hình sự Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội. Đề tài đề cập
tới các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của thủ tục rút gọn và sự cần thiết phải quy
định thủ tục này trong tố tụng hình sự để giải quyết một số loại tội phạm nhất định.
Và một số bài viết như: Khuất Văn Nga-Trần Đại Thắng (2004), Thủ tục rút
gọn trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 – Tạp chí Kiểm sát.- 7/2004; Nguyễn
Đức Lương, Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi bổ sung cần có thủ tục rút gọn - Kiểm
sát.- 5/2003; Lương Thanh Hải (2005), Những vấn đề cơ bản về thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự, Tạp chí TAND số 9 (05/2005); Lê Quốc Thể (2007), Về thủ

tục rút gọn và những bất cập trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, Tạp chí TAND
số 13 (7/2007); Bùi Đức Hòa (2013), Một số bất cập của các quy định về thủ tục rút
gọn trong điều tra vụ án hình sự của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và hướng
hồn thiện; Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam, 2013, Số 6(302)… Các cơng trình nghiên cứu này được thể hiện ở nhiều góc
độ: sự cần thiết phải xây dựng chế định thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam, các vấn đề cơ bản của thủ tục rút gọn; nêu lên được những bất cập,
hạn chế và đề xuất kiến nghị hoàn thiện… Tuy nhiên, các cơng trình này chủ yếu
vẫn mang nặng tính lý luận chung, cùng với việc Hiến pháp năm 1992 chưa có quy
định về thủ tục rút gọn nên những kiến nghị hồn thiện của các cơng trình nghiên
cứu trên vẫn mang tính tham khảo nhiều, khó khả thi trên thực tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nêu lên ý nghĩa, nhu cầu cần thiết; phân tích những quy định của
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 về thủ tục rút gọn; tổng kết thực tiễn áp dụng thủ
tục rút gọn. Qua đó, luận văn chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp


4

luật và trong thực tiễn áp dụng kể từ khi Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 có hiệu
lực đến nay. Từ những lý luận, phân tích, tham khảo quy định của một số quốc gia
về chế định thủ tục rút gọn và đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, luận văn đề xuất một
số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003
về thủ tục rút gọn, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả áp dụng của thủ tục rút
gọn và để thủ tục rút gọn thật sự đi vào cuộc sống.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Xây dựng khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự; phân tích các đặc

điểm, ý nghĩa của thủ tục rút gọn.
- Hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự.
- Phân tích các quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự hiện hành về thủ tục
rút gọn.
- Chỉ ra những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật về thủ tục rút gọn.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về thủ tục rút gọn từ đó đề xuất
các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn trong pháp luật
Tố tụng Hình sự.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dụng: luận văn nghiên cứu thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt
Nam.
- Về khơng gian: luận văn khảo sát thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn trên
phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: luận văn khảo sát thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn từ năm
2004 đến nay.


5

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là phương pháp duy vật
biện chứng của triết học Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và Nhà nước về đấu tranh chống tội phạm.
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, so

sánh, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa luận văn
Luận văn hệ thống, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn
trong tố tụng hình sự.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng áp
dụng pháp luật về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, luận văn đề xuất kiến nghị
giải pháp nhằm hoàn thiện chế định về thủ tục rút gọn trong TTHS và giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn trong TTHS Việt Nam.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc học tập và nghiên
cứu về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung luận
văn được bố cục thành 03 chương:
Chương 1: Nhận thức chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục rút
gọn và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự


6

CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
1.1.1 Định nghĩa thủ tục rút gọn
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình
sự bao gồm tồn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án), người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án), người tham giam tố tụng (bị can, bị cáo,
người bào chữa,…) của cá nhân, cơ quan, tổ chức xã hội góp phần vào việc giải
quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự2. Tuy quá trình giải quyết vụ án
hình sự thơng qua từng bước, từng giai đoạn khác nhau nhưng đều hướng đến mục
đích chung là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Hiện nay, trong nghiên cứu khoa học pháp lý có rất nhiều quan điểm về thế
nào là thủ tục rút gọn và vẫn chưa có tài liệu nào được chính thức ghi nhận như là
định nghĩa của thủ tục rút gọn. Sau đây là một số quan điểm về thế nào là thủ tục rút
gọn của một số nhà nghiên cứu:
Quan điểm thứ nhất: Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được tiến hành
trên cơ sở vẫn tuân theo những nguyên tắc cơ bản và các giai đoạn của tố tụng hình
sự nhưng một số thủ tục được giản lược và thời hạn của các giai đoạn tố tụng được
rút ngắn để việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng, kịp thời đối với các loại
vụ án đơn giản, rõ ràng, đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội phạm được kịp thời
và sắc bén, góp phần bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân khi tham gia
các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự3.
Quan điểm thứ hai: Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng hình sự được rút
ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Cơng an
nhân dân, Hà Nội, tr.10.
3
Nguyễn Duy Giảng (2002), Xây dựng thủ tục rút gọn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn Thạc sỹ Luật, Khoa Luật Đại học quốc gia, tr.7.
2


7


những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp việc điều tra, truy tố, xét
xử được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định (thường là những vụ án có tính
chất đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ lai lịch của người phạm tội rõ ràng)
góp phần đấu tranh, phịng chống tội phạm kịp thời, có hiệu quả, đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân trong tố tụng hình sự4.
Nhìn chung, tuy giữa các quan điểm đều có sự khác nhau về cách diễn đạt
nhưng đều thống nhất các vấn đề sau:
- Thủ tục rút gọn là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự với mục đích
giải quyết vụ án hình sự, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí tố tụng.
- Thủ tục rút gọn là thủ tục rút ngắn thời gian tố tụng, giản lược một số hành
vi tố tụng, thành phần Hội đồng xét xử,… so với thủ tục chung. Tuy thời gian tố
tụng được rút ngắn nhưng quyền lợi của bị can, bị cáo vẫn được đảm bảo.
- Chỉ những vụ án có đủ điều kiện như: người thực hiện hành vi phạm tội bị
bắt quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm thực hiện là tội
ít nghiêm trọng,… thì mới có thể áp dụng thủ tục rút gọn.
Như vậy, từ những ưu điểm của các quan điểm, có thể định nghĩa thủ tục rút
gọn như sau: Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là một thủ tục đặc biệt được rút
ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số hành vi tố tụng so với thủ tục thông
thường nhưng vẫn đảm bảo được những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự
nhằm giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, kịp thời, chính xác, tiết kiệm chi phí tố
tụng và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục rút gọn
- Thứ nhất: Thời hạn giải quyết vụ án hình sự được rút ngắn, Bộ luật Tố tụng
Hình sự quy định một thời hạn tố tụng tối đa để tiến hành các hoạt động tố tụng ở
những giai đoạn tố tụng nhất định nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án chính xác,
kịp thời, đúng pháp luật. Tuy nhiên, với một số vụ án có đầy đủ các điều kiện theo
luật định thì có thể cho phép áp dụng thủ tục này để giải quyết, nên sẽ nhanh hơn so
với thời hạn thơng thường, vì nếu áp dụng thời hạn chung để giải quyết thì có thể
gây ra sự lãng phí về thời gian, tiền bạc, cơng sức của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Nguyễn Văn Hiển (2004), Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư

Pháp, tr.13.
4


8

Với những vụ án đó, pháp luật quy định một thời gian tố tụng ngắn hơn thời hạn
thông thường mà theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự là tối đa 30 ngày5, yêu
cầu cơ quan tiến hành tố tụng xử lý vụ án nhanh chóng nhằm đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm. Trên thế giới thủ tục giới thủ tục rút gọn đã được thừa
nhận như một vấn đề tất yếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, một số ví dụ
về quy định của một số quốc gia đối với thời hạn tố tụng trong thủ tục rút gọn như:
theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa thì đối với vụ án được
xét xử theo thủ tục rút gọn, thời hạn tố tụng tối đa mà Toà án phải kết thúc là 20
ngày sau khi thụ lý6; Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức đối với
những vụ án thích hợp cho việc xét xử trực tiếp và khi có đề nghị của Cơ quan cơng
tố, phiên tồ chính sẽ được mở ngay lập tức7; Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa
Pháp quy định đối với các trường hợp phạm tội quả tang, hình phạt tù cao nhất theo
luật định là từ một năm đến bảy năm và có các yếu tố địi hỏi phải đưa bị cáo ra tồ
ngay thì Viện trưởng Viện cơng tố có thể quyết định đưa bị cáo ra Tòa ngay trong
cùng ngày8. Và thời hạn tố tụng trong thủ tục rút gọn sẽ không được gia hạn, nếu vụ
án hình sự được giải quyết theo thủ tục rút gọn mà không đảm bảo thời gian luật
định thì sẽ được giải quyết theo thủ tục chung.
- Thứ hai: Một số hành vi tố tụng và thủ tục tố tụng được giản lược: do đây
là thủ tục đặc biệt chỉ áp dụng đối với các vụ án có đủ điều kiện được áp dụng thủ
tục rút gọn theo quy định của pháp luật nên để đáp ứng được yêu cầu rút ngắn về
mặt thời gian tố tụng thì đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, chủ thể tiến hành tố
tụng phải đơn giản hóa và lược bỏ đi một số hành vi tố tụng cũng như thủ tục tố
tụng không cần thiết. Tùy theo quan điểm của mỗi quốc gia mà Bộ luật Tố tụng
Hình sự của quốc gia có những quy định giản lược một số hành vi và thủ tục tố tụng

nhất định trong thủ tục rút gọn như: khơng cần có cáo trạng; khơng cần ra quyết
định mở phiên tịa; khơng mở phiên tòa xét xử; thủ tục xét xử chỉ do một Thẩm
phán tiến hành… Ví dụ:

Điều 321, 323, 324 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Điều 178 Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa.
7
Điều 418 Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức.
8
Điều 395 Bộ luật Tố tụng Hình sự Pháp.
5
6


9

+ Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên bang Nga quy định 02 hình thức giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn là ra bản án mà không cần tiến hành xét xử hoặc
thủ tục xét xử do một Thẩm phán tiến hành9.
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định thủ tục
rút gọn do một Thẩm phán xét xử10.
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự Hàn Quốc quy định bản án theo thủ tục rút gọn
được ban hành cùng lúc với cáo trạng mà không cần phải tiến hành thủ tục xét xử11.
+ Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản quy định đối với vụ án được giải
quyết theo thủ tục rút gọn thì chỉ có một Thẩm phán tiến hành tố tụng; không cần tổ
chức xét xử công khai12.
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức quy định sau khi có đề
nghị của Cơ quan công tố về việc áp dụng thủ tục rút gọn thì phiên tồ chính thức sẽ
được mở ngay lập tức; khơng cần phải ra quyết định mở phiên tồ chính thức;
khơng cần có cáo trạng, nội dung cáo buộc sẽ được thể hiện trong phiên toà13.

+ Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa Pháp quy định thì việc xét xử theo
thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành; Thẩm phán ra quyết định hình sự giải
quyết vụ án mà không cần tiến hành xét hỏi trước và không phải nêu căn cứ của
quyết định14.
- Thứ ba: Thủ tục rút gọn giúp rút ngắn thời gian giải quyết các vụ án hình
sự, tiết kiệm chi phí tố tụng, giảm áp lực, công sức cho cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên thủ tục rút gọn với thời gian tố tụng được rút
ngắn và giản lược một số hành vi cũng như thủ tục tố tụng cho nên rất dễ xâm phạm
đến một số quyền lợi chính đáng của bị can, bị cáo nhất là quyền bào chữa và nếu
có xảy ra sai xót thì vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục chung. Chính vì vậy mà
thủ tục rút gọn chỉ có thể được áp dụng khi vụ án có đầy đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật như: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm thực hiện là tội ít nghiêm trọng;
Điều 314, 316 Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên bang Nga.
Điều 174 Bộ luật Tố tụng Hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
11
Điều 448, 449 Bộ luật Tố tụng Hàn Quốc.
12
Điều 461, 463 Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản.
13
Điều 417, 418 Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức.
14
Điều 525, 526 Bộ luật Tố tụng Hình sự Pháp.
9

10


10


người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng… Đặc điểm này của thủ tục rút gọn
được ghi nhận trong pháp luật của nhiều quốc gia có quy định thủ tục rút gọn:
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên bang Nga quy định thủ tục rút gọn được áp
dụng đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng không cao15.
+ Theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa nhân dân Trung Hoa thì thủ tục
rút gọn có thể được áp dụng đối với những vụ án có tình tiết rõ ràng, chứng cứ đầy
đủ, có mức phạt tù khơng q ba năm, bị giam, giám sát hoặc phạt tiền16.
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản quy định áp dụng thủ tục rút gọn đối với
các loại tội phạm bị phạt tiền từ 500.000 Yên trở xuống17.
+ Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức quy định thủ tục rút gọn
được áp dụng đối với những vụ án đơn giản hoặc có chứng cứ rõ ràng18.
- Thứ tư: Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng trong một số giai đoạn tố tụng
nhất định: Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam năm 2003 quy định thủ tục rút gọn
được áp dụng trong điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm; theo Bộ luật Tố tụng Hình
sự Hàn Quốc và Nhật Bản thì thủ tục rút gọn có thể được áp dụng trong cả giai đoạn
xét xử phúc thẩm… Hiện nay, vấn đề áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn nào là
mang lại hiệu quả cao nhất được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đưa ra những
quan điểm khác nhau, chưa có sự thống nhất chung, điển hình là hai quan điểm sau
đây:
+ Quan điểm 1: quan điểm này thể hiện sự kế thừa các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự trước đây về áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình
sự, quan điểm này dựa trên nguyên lý căn cứ điều kiện, tính chất loại vụ án khi áp
dụng thủ tục rút gọn, tức nếu một vụ án bị xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm thì tính chất đơn giản của vụ án khơng cịn nữa làm mất đi tính đặc
trưng của thủ tục rút gọn. Do vậy, quan điểm này cho rằng thủ tục rút gọn chỉ được
áp dụng trong giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử sơ thẩm19.

Điều 314 Bộ luật Tố tụng Hình sự Liên bang Nga.
Điều 174 Bộ luật Tố tụng Hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
17

Điều 461 Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản.
18
Điều 417 Bộ luật Tố tụng Hình sự Cộng hịa Liên bang Đức.
19
Nguyễn Văn Hiển (2004), Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, tr.7.
15
16


11

+ Quan điểm 2: quan điểm này xuất phát từ thực tiễn xét xử khi có nhiều bản
án sơ thẩm bị kháng cáo với lý do xin hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước
nên kháng cáo này khơng có u cầu gì liên quan đến việc chứng minh, khơng nêu
lên bất cứ tình tiết giảm nhẹ nào hay khiếu nại về những vấn đề sai phạm trong quá
trình tố tụng, tính chất khách quan của bản án tuy nhiên Tòa án vẫn phải tiến hành
tổ chức phiên tòa phúc thẩm. Điều này sẽ gây mất nhiều thời gian đồng thời tốn
kém kinh phí và thực tế đa số phán quyết của Tòa phúc thẩm trong những trường
hợp kháng cáo này là y án sơ thẩm. Chính vì lẽ đó, nếu áp dụng thủ tục rút gọn
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì sẽ tiết kiệm được thời gian tố tụng, có hiệu quả
và đạt được mục đích giải quyết nhanh chóng, kịp thời những vụ án đơn giản và
giảm chi phí khơng cần thiết cho việc mở phiên tòa. Do vậy, theo quan điểm này,
thủ tục rút gọn vẫn có thể áp dụng trong giai đoạn xét xử phúc thẩm20.
- Thứ năm: mặc dù, vụ án được áp dụng theo thủ tục rút gọn nên một số hành
vi tố tụng và thủ tục tố tụng được giản lược nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ các
nguyên tắc và mục đích chung của pháp luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp
chế, nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân, nguyên tắc đảm
bảo quyền bình đẳng của mọi cơng dân trước pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án, nguyên tắc suy đốn vơ tội, ngun tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, nguyên tắc xét xử công khai,…Tuy pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

cũng như pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới không quy định hệ
thống các nguyên tắc riêng đối với thủ tục rút gọn vì về bản chất thủ tục rút gọn chỉ
là một thủ tục đặc biệt trong pháp luật tố tụng hình sự của quốc gia. Do vậy, thủ tục
rút gọn vẫn phải tuân thủ theo các nguyên tắc chung của pháp luật tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo được tính thống nhất trong quy định của pháp luật về tố tụng hình sự
đồng thời đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân trước pháp
luật dù áp dụng thủ tục chung hay thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự.
1.1.3 Ý nghĩa của thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn góp phần hồn thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm
của quá trình cải cách tư pháp trong tố tụng hình sự là tăng cường đấu tranh, phịng
chống tội phạm, bảo đảm các quyền con người trong tố tụng hình sự, nhiệm vụ này

Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2002), “Góp ý kiến dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003”, Tạp chí khoa học pháp lý.
20


12

đã được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Thủ tục rút gọn với những đặc điểm ưu việt của mình: thời hạn tố tụng được
rút ngắn, giản lược một số thủ tục… đã góp phần đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ
chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử
lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm
200321. Bên cạnh đó, những quy định chặt chẽ về phạm vi và điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn cũng được đặt ra nhằm hạn chế những sai sót có thể xảy ra trong quá
trình giải quyết vụ án hoặc việc lạm dụng tràn lan thủ tục rút gọn dễ dẫn đến bỏ lọt

tội phạm, oan sai.
Áp dụng thủ tục rút gọn sẽ giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án
thuộc loại ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, đơn giản, rõ ràng; đáp ứng yêu cầu
của công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp phần giải quyết tình trạng tồn
đọng án kéo dài; khắc phục tình trạng quá tải trong các trại tạm giam. Vụ án được
giải quyết nhanh chóng sẽ tạo điều kiện để những thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra nhanh chóng được khắc phục, góp phần đảm bảo lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và cơng dân; tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố
tụng tiết kiệm thời gian, tiền bạc công sức trong việc giải quyết những vụ án ít
nghiêm trọng, đơn giản, rõ ràng, để tập trung vào việc giải quyết những vụ án
nghiêm trọng, phức tạp hơn; từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Những vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn sẽ nhanh chóng được đưa ra xét
xử thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; đồng thời phát huy tác dụng tuyên
truyền, phổ biến pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, nâng cao hiệu
quả phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Việc giải quyết vụ án nhanh chóng sẽ tạo điều kiện để những thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra nhanh chóng được khắc phục, đảm bảo lợi ích Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; tiết kiệm được thời gian, cơng
21

Điều 1 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.


13

sức và chi phí cho những người tham gia tố tụng, giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc
sống và tham gia vào các quan hệ pháp luật khác; người thực hiện hành vi phạm tội
sớm được đưa vào môi trường giáo dục, cải tạo…

Thủ tục rút gọn kế thừa và phát huy những ưu điểm từ những quy định về thủ
tục rút gọn trong các văn bản ở các thời kỳ trước và các văn bản hướng dẫn tạo nên
bước đột phá mới trong kỹ thuật lập pháp khi lần đầu tiên thủ tục rút gọn được pháp
điển hóa thành một chế định đặc biệt trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đây
là sự tiếp thu, phát triển có chọn lọc trong pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng
hình sự nói riêng, phù hợp với sự phát triển của xã hội và xu hướng chung của thế
giới. Quy định về thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 là một
nền tảng cơ sở pháp lý cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng thủ
tục rút gọn để giải quyết các vụ án ít nghiêm trọng, đơn giản, rõ ràng mà không phải
tốn nhiều thời gian, công sức, chi phí trong suốt q trình tố tụng.
1.2. Cơ sở hình thành quy định thủ tục rút gọn trong pháp luật Tố tụng Hình
sự Việt Nam
- Cơ sở lý luận
Vận dụng có hiệu quả những nguyên tắc của luật Tố tụng Hình sự. Các
nguyên tắc của luật Tố tụng Hình sự là những phương châm, định hướng, chi phối
mọi hoạt động tố tụng hình sự. Các nguyên tắc này khơng những định hướng cho
hoạt động tố tụng hình sự mà nó cịn định hướng cho các hoạt động xây dựng pháp
luật trong thực tiễn. Chính vì lẽ đó, việc quy định thủ tục rút gọn cũng khơng thể
nằm ngồi những nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng Hình sự mà là sự vận dụng linh
hoạt, sáng tạo những nguyên tắc của Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm đảm bảo cho
quá trình giải quyết vụ án hình sự diễn ra nhanh chóng, chính xác, đạt được mục
đích chung mà các nguyên tắc này đang hướng đến.
Bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự. Thủ tục rút
gọn sẽ làm cho quan hệ xã hội bị xâm hại nhanh chóng khơi phục, tội phạm sớm
được xét xử, người bị hại sớm được khôi phục quyền và lợi ích, người phạm tội
nhanh chóng được xét xử tạo điều kiện sớm trở về hòa nhập với cộng đồng. Bên
cạnh đó, do thời hạn tố tụng được rút ngắn nên một số quyền con người, quyền
công dân sẽ bị hạn chế trong khoảng thời gian ngắn hơn khi áp dụng tố tụng theo
thủ tục chung. Cụ thể như khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị



14

cáo do thời hạn giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn được rút ngắn hơn so
với thủ tục chung vì thế thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng được quy
định ngắn hạn tương ứng, nên quyền con người, quyền công dân nhất là quyền tự do
về thân thể, đi lại của bị can, bị cáo sẽ được đảm bảo hơn.
Quán triệt nguyên tắc nhân đạo. Nguyên tắc nhân đạo được xem là một
trong những nguyên tắc xương sống trong quá trình xây dựng pháp luật hình sự và
tố tụng hình sự. Do đó, mà thủ tục rút gọn cũng không thể thiếu sự hiện diện của
nguyên tắc này. Theo tâm lý chung, một người phạm tội, họ luôn muốn sớm được
biết hậu quả pháp lý mà bản thân phải gánh chịu, nhất là trong trường hợp phạm tội
rõ ràng, bị bắt quả tang. Vì lẽ đó, nên thủ tục rút gọn đã quy định một khoảng thời
gian ngắn đến vừa mức cần thiết để giải quyết vụ án hình sự, điều này đã giải tỏa
phần nào tâm lý tiêu cực, giảm áp lực tinh thần cho người phạm tội; đồng thời thời
hạn tố tụng ngắn nên thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn cũng ngắn, vừa thể
hiện yếu tố bảo vệ quyền con người vừa thể hiện được nội dung của nguyên tắc
nhân đạo khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo.
Đường lối cải cách tư pháp của Đảng, Nhà nước: Thủ tục rút gọn luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm trong các thời kỳ xây dựng pháp luật, được thể chế hóa
đầu tiên vào năm 1946 trong Sắc lệnh số 59/SL ngày 17/4/1946. Quan điểm này vẫn
luôn được đề cập trong các văn kiện đại hội Đảng như: Nghị quyết trung ương 3
khóa VIII có đoạn: “nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gon để xử lý kịp thời một số vụ
án đơn giản, rõ ràng”, tư tưởng này còn được tiếp tục khẳng định tại Nghị quyết số
08-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới cũng đã khẳng định: “nghiên cứu để quy định và thực
hiện thủ tục tố tụng hình sự rút gọn đối với những vụ án hình sự đơn giản, phạm tội
quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng” và gần đây nhất trong Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
cũng đã xác định rõ “xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ

án có đủ một số điều kiện nhất định”.
- Cơ sở thực tiễn: Thủ tục rút gọn là thủ tục được hình thành trên cơ sở đơn
giản hóa thủ tục tố tụng thơng thường nhằm giải quyết một số loại vụ việc cụ thể
nhanh gọn, hiệu quả nên trong quá trình thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, thủ tục
rút gọn đã hình thành trên những cơ sở sau:


15

Nhu cầu nâng cao công tác giáo dục, tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Cùng với những thành tựu của sự nghiệp đổi mới thì đời sống xã
hội nước ta cũng có nhiều thay đổi, mặt trái của cơ chế thị trường đã có nhiều tác
động tiêu cực đến suy nghĩ và hành động của một bộ phận nhân dân. Sự du nhập và
ảnh hưởng của văn hóa phương Tây cùng các trào lưu tư tưởng nước ngồi đã gián
tiếp tạo ra lối sống thực dụng, vơ cảm, chạy theo các giá trị vật chất tầm thường,
điều này thể hiện rõ nhất trong một số thanh thiếu niên. Những năm qua, tội phạm ở
nước ta có chiều hướng gia tăng. Trong lứa tuổi thanh thiếu niên, tình trạng phạm
tội đã và đang gây nhiều nhức nhối, chủ yếu tập trung vào các đối tượng thanh thiếu
niên bỏ học, bỏ nhà, sống lang thang. Nên công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của
cả hệ thống chính trị, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân phát huy cao độ trách nhiệm trong
công tác giữ gìn, bảo đảm trật tự, an tồn xã hội. Do vậy, khi vụ án hình sự được
giải quyết nhanh chóng giúp cho người dân nâng cao nhận thức về tính nghiêm
minh của pháp luật đồng thời đáp ứng được tính thời sự của vấn đề, từ đó tạo nên
dư luận tốt trong quần chúng nhân dân trong chính sách xử lý tội phạm của Đảng và
Nhà nước.
Tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng. Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động
phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nếu nó được thực hiện
trong thời gian ngắn thì các quan hệ xã hội đã bị tội phạm xâm hại nhanh chóng
được khơi phục lại, các quyền và lợi ích của Nhà nước, của cơng dân nhanh chóng

được bồi thường, người phạm tội nhanh chóng được phát hiện và bị xử lý sẽ có điều
kiện giáo dục, cải tạo nhanh chóng trở thành người có ích và trở về cuộc sống bình
thường, những sai phạm có thể đã tồn tại trong q trình tố tụng sẽ nhanh chóng
được phát hiện và khắc phục22. Bên cạnh đó, các giai đoạn tố tụng phải được tiến
hành theo một trình tự và thời gian nhất định khơng được tự ý, tùy tiện. Khi một vụ
án hình sự được giải quyết theo thủ tục chung thì thời gian tố tụng sẽ kéo dài, kèm
theo nhiều hành vi tố tụng và thủ tục tố tụng nên sẽ gây tốn kém về mặt chi phí, mất
nhiều cơng sức. Do đó, xuất phát từ nguyên tắc tính kinh tế hoạt động tố tụng hình
sự thì việc nghiên cứu và thể chế hóa sao cho đảm bảo nguyên tắc thời hạn càng

22

Phạm Hồng Hải (2003), Mơ hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Cơng an nhân
dân, tr.144.


16

ngắn càng tốt là cần thiết, nên khi một vụ án hình sự được giải quyết theo thủ tục rút
gọn thì thời gian tố tụng sẽ được rút ngắn, một số hành vi tố tụng và thủ tục tố tụng
sẽ được giản lược nên sẽ tiết kiệm chi phí tố tụng, công sức của các chủ thể tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Giảm được tình trạng tồn đọng án. Quá trình tố tụng hình sự là một q trình
mất nhiều thời gian, do đó như một thực trạng tất yếu là tình trạng “quá tải” sẽ xảy
ra. Trong khi đó số lượng Điều tra viên thì ln ln ở trong tình trạng thiếu hụt.
Theo khảo sát ở một số địa phương, trung bình một điều tra viên phải thụ lý ít nhất
10 vụ án trong một năm. Mà giai đoạn điều tra chính là cơ sở tạo tiền đề cho các
giai đoạn tiếp theo, do đó tình trạng giải quyết không kịp vẫn thường xảy ra dẫn đến
tình trạng tồn động án. Chính vì vậy, những vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn thì
sẽ được giải quyết nhanh chóng góp phần khắc phục tình trạng tồn động án ở các

giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết những công việc khác. Trên thực tế,
tại các địa phương trên cả nước tỉ lệ án ít nghiêm trọng chiếm khoảng 50% trong
tổng số các loại án. Bên cạnh đó, những điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn như: án
đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, dễ dàng xác định nhân thân của
người phạm tội... đều hướng vào loại tội phạm ít nghiêm trọng. Bên cạnh đó, theo
quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành thì có 148 điều luật trên tổng số 267 điều
luật có chế tài quy định về các loại tội phạm cụ thể có ở các khoản 1, khoản 2 hoặc
khoản 4 có hình phạt là ít nghiêm trọng. Như vậy, đối với những loại tội phạm ít
nghiêm trọng nếu có đủ điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn thì sẽ tiết kiệm được
rất nhiều thời gian, dành thời gian giải quyết những vụ án phức tạp và những vụ án
tiến hành theo thủ tục chung.
- Tuy nhiên, riêng đối với thời hạn của các giai đoạn tố tụng cũng như những
thủ tục khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết các vụ án hình sự thì các văn bản
pháp luật quy định về thủ tục rút gọn từ trước đến hiện nay vẫn chưa thể giải thích
cũng như đưa ra những cơ sở và căn cứ để quy định về thời hạn của các giai đoạn tố
tụng trong thủ tục rút gọn và những thủ tục nào cần giản lược là hợp lý khi áp dụng
thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự. Thời hạn và những thủ tục trong thủ tục
rút gọn hiện nay chủ yếu được xây dựng trên quá trình tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn. Trong những nội dung của thủ tục rút gọn thì thời hạn và các thủ tục tố tụng
giản lược là những vấn đề trọng tâm làm nổi bậc lên đặc điểm của thủ tục rút gọn là


17

giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, do vậy việc xác định thời hạn và những thủ
tục tố tụng cần được lược bỏ trong thủ tục rút gọn là một trong những vấn đề quan
trọng vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn áp dụng. Chính
vì lẽ đó, theo quan điểm cá nhân, thời hạn và các thủ tục tố tụng giản lược trong thủ
tục rút gọn phải xây dựng trên những căn cứ sau đây:

Tổng kết kinh nghiệm áp dụng thủ tục rút gọn trong thời kỳ trước đây, qua
đó so sánh, đối chiếu với thực trạng áp dụng thủ tục rút gọn hiện nay, hiệu quả công
tác đấu tranh, phịng ngừa tội phạm để tính tốn thời gian tố tụng và những thủ tục
tố tụng cần được giản lược hợp lý, mang lại hiệu quả cao nhất.
Tiếp thu những bài học kinh nghiệm, kỹ thuật lập pháp trong quy định của
các nước trên thế giới và xu hướng chung của pháp luật quốc tế về vấn đề thời hạn
cũng như những thủ tục tố tụng cần thiết nhất trong thủ tục rút gọn.
Xác định thời hạn tố tụng và việc giản lược một số thủ tục tố tụng trong thủ
tục rút gọn phải đảm bảo được quyền con người, quyền công dân đặc biệt là quyền
bào chữa của bị can, bị cáo.
Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiền đề, là cơ sở của quá trình giải quyết vụ
án, do đó thời hạn điều tra phải được dành nhiều hơn so với giai đoạn truy tố và giai
đoạn xét xử đồng thời phải tính tốn cả thời gian “chết” (thời gian bắt buộc phải đợi
như: thời gian đợi xác nhận, thời gian đợi giám định,…), có như vậy thì tạo điều
kiện thuận lợi cho việc áp dụng thủ tục rút gọn; hạn chế áp lực về mặt thời gian gây
nên tình trạng tránh né áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án hình sự. Bên
cạnh đó, việc nghiên cứu giản lược một số thủ tục tố tụng là cần thiết, làm tăng hiệu
quả áp dụng và phù hợp với việc quy định thời gian tố tụng trong thủ tục rút gọn
ngắn hợn thời gian tố tụng khi áp dụng thủ tục chung để giải quyết vụ án hình sự.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật Tố tụng Hình
sự về thủ tục rút gọn từ năm 1945 đến trƣớc năm 2003
Ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, là thắng lợi mở
đầu trong công cuộc thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Tuy là những ngày đầu giành độc
lập nhưng vấn đề lập pháp đã rất được chú trọng, đặc biệt là các hoạt động tư pháp.
Có thể nói thủ tục rút gọn đầu tiên được đề cập đến tại Điều 23 của Sắc lệnh số
59/SL ngày 17/4/1946 do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành quy
định như sau:


18


“Để thi hành nhiệm vụ cơng tố của mình, ơng Biện lý có áp dụng một
trong những thể thức sau:
1. Nếu là một vụ tiểu hình và nếu xét ra cuộc điều tra của các ông
Thẩm phán sơ cấp hoặc của các phụ trách cảnh sát đã đem đủ tài liệu để truy tố bị
can mà không cần phải giam cứu. Ơng Biện lý có thể cho trát gọi thẳng bị can ra
xét xử tại một phiên Tịa tiểu hình gần nhất.
2. Nếu là một việc tiểu hình mà lại là một việc phạm pháp quả tang,
ông Biện lý phải hỏi cung ngay bị can và có thể hạ trát tống giam rồi đưa bị can ra
xét xử trong một phiên Tịa tiểu hình gần nhất.”
Tuy những quy định này mang tính chất đơn giản, sơ xài, chưa cụ thể nhưng
về mặt tinh thần đã cho thấy Nhà nước đã có sự quan tâm đến thủ tục đặc biệt này –
thủ tục rút gọn vì mục đích là giải quyết nhanh gọn những vụ án hình sự là loại án
đơn giản, ít nghiêm trọng – án tiểu hình. Đặc điểm của thủ tục rút gọn là phải ngắn
về mặt thời gian, tuy quy định trên chưa cho thấy được thời hạn giải quyết vụ án
hình sự theo quy định trên là bao lâu nhưng nhìn chung tinh thần điều luật này cũng
hướng đến việc giải quyết nhanh chóng khi đề cập đến việc xét xử sẽ diễn ra ở
phiên Tòa tiểu hình gần nhất. Tuy mức độ rút gọn chỉ về mặt thời gian mà hạn chế
về rút gọn hành vi tố tụng nhưng đây cũng là điểm tiến bộ đối với việc lập pháp
trong thời kỳ này.
Khoản 3 Điều 23 của Sắc lệnh số 59/SL ngày 17/4/1946 quy định:
“Ông Biện lý sẽ làm khởi tố trạng chuyển giao sang phòng Dự thẩm
để thẩm cứu trong những trường hợp sau này:
- Nếu là một việc đại hình;
- Nếu bị can là người vị thành niên;
- Nếu bị can vì các tiền án có thể bị phát vãn;
- Nếu xét ra cần phải mở một cuộc thẩm cứu kỹ hơn;
Trong thời kỳ thẩm cứu, các ông bên Biện lý cũng như bên bị can và
bên dân sự nguyên cáo có quyền yêu cầu ông Dự thẩm thi hành tất cả các phương
sách cần thiết để chứng tỏ sự thật…”.



19

Điều 53 Sắc lệnh 59/SL còn quy định hướng giải quyết các vụ án đơn giản,
phạm pháp quả tang có thể xử phạt tù từ 05 năm trở xuống thì Viện cơng tố có thể
đưa ngay vụ án đến phiên tịa mà khơng cần cáo trạng. Như vậy hành vi khơng cần
phải ra bản cáo trạng chính là hành vi tố tụng được rút gọn trong quá trình giải
quyết những vụ án theo thủ tục đơn giản. Phạm vi được áp dụng thủ tục đơn giản
này chỉ bao gồm các vụ án: vụ án đơn giản, phạm pháp quả tang, hành vi phạm
pháp có thể xử phạt từ 05 năm tù giam trở xuống. Tuy chưa hoàn chỉnh nhưng
những quy định tại Sắc lệnh số 59/SL chính là nền tảng và kinh nghiệm quý báu cho
việc cho việc hoàn thiện thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, giúp vụ án được giải
quyết nhanh chóng và có hiệu quả.
Năm 1974, Thủ tướng chính phủ ban hành Thơng tư 139-TTg ngày
28/5/2014 hướng dẫn điều tra, truy tố xét xử các vụ án phạm pháp quả tang để đáp
ứng một số yêu cầu trong Nghị quyết số 228-NQTW của Bộ chính trị ngày
18/1/1974 về việc giao nhiệm vụ cho các cơ quan chuyên chính phải trừng trị kịp
thời và nghiêm minh những tội lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, làm ăn phi pháp và
gây rối trật tự chung. Thông tư có đoạn: “Đối với những vụ án phạm tội quả tang,
khơng thuộc loại trọng án, có đủ chứng cứ, bị can nhận tội… thì cơ quan Cơng an
lập biên bản để đưa sang Viện kiểm sát nhân dân để quyết định chuyển thẳng ra
Tòa án xét xử.”. Trên tinh thần này, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Viện
kiểm sát nhân dân lần lượt ban hành các văn bản pháp luật: Thông tư số 10/TATC
ngày 08/7/1974, Chỉ thị 954-CP hướng dẫn thủ tục rút ngắn ngày 17/8/1974 và
Thông tư số 01/TT ngày 28/02/1975 về hoạt động của Kiểm sát viên trong công tác
kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút ngắn. Như vậy, về cơ bản ba cơ quan tố tụng hình
sự đã thống nhất với việc đơn giản hóa trong giải quyết vụ án hình sự đối với những
vụ án có đầy đủ điều kiện được quy định trong các văn bản này. Theo đó, để có thể
áp dụng thủ tục rút ngắn trong tố tụng hình sự cần phải có đầy đủ các yếu tố sau:

 Điều kiện áp dụng:
 Căn cứ vào tình hình phạm pháp hiện nay có thể áp dụng thủ tục về việc
đưa vụ án ra xét xử khơng cần có cáo trạng đối với một số vụ án thuộc về các loại
tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, làm ăn phi pháp, gây rối trật tự chung
như:


20

- Trộm cắp, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản riêng
của công dân, lừa đảo nơi cơng cộng.
- Đầu cơ, tích trữ, chứa chấp trái phép các loại vật tư, lương thực, hàng hóa
do Nhà nước quản lý, buôn bán tem phiếu ở các cửa hàng, các chợ,…
- Nấu rượu lậu, buôn bán rượu lậu, lạm sát lợn, trâu bò,..
- Hành động càn quấy, gây rối trật tự chung.
- Hành hung người khác.
- Lăng mạ, hành hung cán bộ trong khi làm nhiệm vụ.
Ngoài những tội phạm này thì cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát, Tịa án có thể
thống nhất đưa một số vụ án ra xét xử mà không cần cáo trạng. Tuy nhiên không
được áp dụng thủ tục rút gọn đối với những loại tội phạm có tính chất nghiêm trọng,
phức tạp như: phản cách mạng, vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn, hối lội, thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại cho tài sản xã hội chủ nghĩa,…
 Việc phạm pháp có tính chất quả tang, vụ án đơn giản, hành vi phạm tội rõ
ràng
- Việc phạm pháp có tính chất quả tang: là bị cáo (bị can) bị bắt ngay khi
phạm tội hoặc ngay sau khi phạm tội, hoặc bị các nhà chức trách, nhân dân đuổi bắt
được sau khi phạm tội. Nếu bị cáo (bị can) không bị bắt trong trường hợp nói trên
mà sau đó, người bị hại hoặc những người đã chứng kiến nhận được mặt bị cáo (bị
can) thì đó khơng phải là phạm tội quả tang. Việc đó cần được xét xử theo thủ tục
thông thường.

- Tội phạm đơn giản, rõ ràng: những vụ án không mất nhiều thời gian để điều
tra, xác minh, bị cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo.
Nếu là việc phạm pháp quả tang nhưng còn cần điều tra, khai thác thêm hoặc
là việc phạm pháp có tổ chức, có nhiều bị cáo tham gia, có liên quan đến nhiều cán
bộ, nhiều ngành thì phải điều tra, truy tố theo thủ tục thơng thường.
 Bị cáo phải có lý lịch, căn cước phải được xác minh rõ ràng là để đảm bảo
cho việc xem xét chính xác những vấn đề như: bị cáo có phải là kẻ tái phạm hoặc
lưu manh chuyên nghiệp khơng, bị cáo có thể được hưởng án treo không, hoặc bị


×