Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.31 KB, 70 trang )

- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 08 – NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nêu rõ: “ Nghiên cứu để quy
định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả
tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng…”.
Thể chế hoá Nghị quyết của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2003 đã xây dựng một chương mới (chương XXXIV) gồm 7 điều, từ Điều 318 đến
Điều 324 quy định về thủ tục rút gọn, đánh dấu bước phát triển mới của tố tụng hình
sự Việt Nam. Tuy nhiên, những quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút gọn
(TTRG) lại có nhiều điểm chưa hợp lý, một số quy định còn chung chung, chưa cụ
thể, rõ ràng trong khi hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn áp dụng các quy
định này, do đó hiệu quả áp dụng trong thực tế không cao, chưa đạt được mục đích
mà BLTTHS đề ra khi quy định áp dụng thủ tục này.
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, Nghị quyết số 48 –
NQ/TW ngày 25/5/2005 về Chiến lược xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày
02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ việc cần phải tiếp
tục sửa đổi, bổ sung nhằm tiếp tục hoàn thiện BLTTHS, nâng cao chất lượng công
tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Những quy định của BLTTHS về TTRG cần phải được nghiên cứu, sửa đổi bổ sung
để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm được nhanh chóng, kịp thời,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Mặt khác, Bộ luật hình sự
(BLHS) năm 1999 đã phân hóa tội phạm thành bốn loại tội khác nhau, tính chất phức
tạp của các vụ án hình sự cũng khác nhau, do đó việc BLTTHS năm 2003 quy định
các hình thức tố tụng khác nhau để giải quyết là hoàn toàn hợp lý và có cơ sở khoa
học.
Một chế định về TTRG trong pháp luật tố tụng hình sự đầy đủ, hoàn thiện và
hợp lý hiện nay vẫn là một yêu cầu với các nhà lập pháp nước ta. Tuy nhiên những


nghiên cứu toàn diện về TTRG trong tố tụng hình sự Việt Nam lại chưa nhiều. Các
- 2 -
quan điểm khoa học về TTRG trong tố tụng hình sự chưa thống nhất. Ý kiến hoàn
thiện pháp luật về TTRG còn theo nhiều chiều hướng khác nhau do xuất phát từ các
phương diện nghiên cứu khác nhau.
Với những lý do trên, luận văn thạc sỹ với đề tài: “ Thủ tục rút gọn trong tố
tụng hình sự Việt Nam” mong muốn đưa ra một cái nhìn cơ bản và toàn diện về thủ
tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Là một thủ tục tố tụng tiến bộ với nhiều ưu điểm được BLTTHS năm 2003 quy
định trên cơ sở kế thừa và phát huy những quy định trước đây, TTRG được các nhà
nghiên cứu, các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm và nghiên cứu. Có thể chia các
công trình nghiên cứu về TTRG thành ba nhóm lớn sau:
Nhóm luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học: trong nhóm các công trình
nghiên cứu này phải kể đến Luận văn thạc sỹ Luật học “ Thủ tục rút gọn trong pháp
luật tố tụng hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Hà Nội, 2001 của Nguyễn
Minh Quang; Luận văn thạc sỹ Luật học “ Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Hà Nội, 2004 của Nguyễn Văn Hiển; Trường Đại học Luật Hà Nội “ Thủ tục
đặc biệt trong tố tụng hình sự” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2008...
Các công trình nghiên cứu này đã đề cập đến sự cần thiết phải xây chế định TTRG
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các vấn đề cơ bản của TTRG. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở các vấn đề mang tính lý
luận mà chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng thủ tục này.
Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên khảo về vấn đề này gồm có cuốn sách “
Thủ tục rút gọn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, NXB Tư pháp, Hà Nội
2004 của tác giả Nguyễn Văn Hiển. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đại
học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2009; Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2003, PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nhà xuất bản Công an nhân
dân, 2004… Các công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, bình luận các quy
định của BLTTHS năm 2003 về TTRG và cũng chưa đề cập đến thực tiễn áp dụng

các quy định này.
Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật: trong nhóm này có thể kể đến các
bài viết như: “Thủ tục rút gọn trong Bộ luật tố tụng hình sự ” của TS. Khuất Văn
- 3 -
Nga và ThS. Trần Đại Thắng (Tạp chí Kiểm sát số 7/2004); “Thủ tục rút gọn” của tác
giả Đỗ Văn Chỉnh (Tạp chí Toà án nhân dân (TAND) số 11 tháng 6/2004); “Thủ tục
rút gọn trong tố tụng hình sự từ sự quy định của pháp luật tới thực tiễn áp dụng” của
PGS.TS Phạm Hồng Hải (Tạp chí Kiểm sát số 4/2006); “Về thủ tục rút gọn và những
bất cập trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử” của tác giả Lê Quốc Thể (Tạp chí
TAND số 13 tháng 7/2007); “Bàn về phạm vi, điều kiện và thẩm quyền áp dụng thủ
tục rút gọn theo quy định BLTTHS năm 2003” của ThS. Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí
Nhà nước và pháp luật số 5/2008); “Giải quyết án hình sự theo thủ tục rút gọn - Thực
trạng và những kiến nghị đề xuất” của tác giả Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Nhà nước
và pháp luật số 7/2008); “ Hoàn thiện thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” của TS. Nguyễn Đức Mai (Tạp chí TAND số 15 tháng 8/2008), “Hoàn thiện
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục rút gọn đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp” của ThS. Nguyễn Văn Quảng (Tạp chí Kiểm sát số 18&20 tháng 9&10
/2008); “Một số ý kiến về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần
Quốc Văn (Tạp chí Kiểm sát số 13 tháng 7/2009); “ Những vướng mắc khi áp dụng
thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự và một số kiến nghị” của TS. Phạm Minh Tuyên
(Tạp chí TAND số 1 tháng 1/2011)…Các bài viết kể trên đã đề cập đến các vấn đề cơ
bản của TTRG, một số ít bài viết đề cập đến thực tiễn áp dụng cũng như những bất
cập, vướng mắc khi giải quyết án hình sự theo thủ tục này tuy nhiên cũng chỉ mới
dừng lại ở phạm vi một số địa phương.
Như vậy, hiện nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về TTRG trên cả hai phương diện lý
luận và thực tiễn. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về TTRG, thực tiễn thi hành ít được quan tâm nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực

tiễn về TTRG trong pháp luật tố tụng hình sự, tìm ra những bất cập trong quy định về
TTRG của BLTTHS năm 2003 nhằm đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định
của BLTTHS về TTRG và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục này
trong tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định như sau:
- 4 -
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về thủ tục rút gọn như: khái niệm thủ
tục rút gọn, ý nghĩa của thủ tục rút gọn…
- Nghiên cứu và đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG;
- Đánh giá thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục rút
gọn; xác định nguyên nhân của thực trạng đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu và hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra trong
đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm:
- Những vấn đề lý luận về TTRG trong tố tụng hình sự.
- Những quy định về TTRG theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số
nước trên thế giới.
- Thực tiễn áp dụng TTRG trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Với những đối tượng nghiên cứu nêu trên, phạm vi nghiên cứu đề tài được xác
định như sau:
- Những quy định về TTRG trong BLTTHS năm 2003 của Việt Nam và một số
nước trên thế giới.
- Thực tiễn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về TTRG từ năm 2006
đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận, quan điểm duy vật lịch sử,
duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về cải cách tư pháp.

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, lịch sử, phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của TTRG trong tố tụng
hình sự, xây dựng khái niệm về TTRG, nêu lên mục đích, ý nghĩa của TTRG góp
phần thống nhất nhận thức về vấn đề này.
- 5 -
- Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về TTRG,
thực tiễn áp dụng TTRG trong thời gian qua, đưa ra những nhận xét, đánh giá, xác
định nguyên nhân của thực trạng áp dụng TTRG, xác định những bất cập trong các
quy định của pháp luật về TTRG cần được hoàn thiện, những vướng mắc trong việc
áp dụng TTRG cần được giải quyết.
- Luận văn đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của
BLTTHS năm 2003 về TTRG và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
thủ tục này trong thực tiễn.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo,
nghiên cứu khoa học và những người quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: phần mở đầu, phần nội dung và kết luận; danh mục tài liệu
tham khảo; danh mục từ viết tắt.
Phần nội dung của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn và một số giải pháp nâng cao hiệu
quả việc áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam.


- 6 -
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC RÚT GỌN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự
Thủ tục tố tụng hình sự được hiểu là cách thức, trình tự được áp dụng để phát
hiện và xử lý tội phạm nhằm mục đích cơ bản là phát hiện chính xác, nhanh chóng và
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội.
Luật tố tụng hình sự nói chung cũng như ở Việt Nam, ngoài thủ tục thông
thường còn có những thủ tục đặc biệt khác để giải quyết vụ án hình sự đáp ứng yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, ngoài hình thức tố tụng thông thường, còn có một số thủ tục đặc biệt được quy
định tại phần thứ 7, trong đó gồm có thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,
thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và thủ tục rút gọn.
Thủ tục rút gọn là một trong những thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự, được
rút ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo
các nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử
được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định [1, tr.728]. Tuy nhiên, hiện nay vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau về thủ tục tố tụng đặc biệt này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng được tiến hành
trên cơ sở vẫn tuân theo những nguyên tắc cơ bản và các giai đoạn của tố tụng hình
sự nhưng một số thủ tục được giản lược và thời hạn của các giai đoạn tố tụng được
rút ngắn để việc điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng, kịp thời đối với các loại
vụ án đơn giản, rõ ràng, đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội phạm được kịp thời
và sắc bén, góp phần bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân khi tham gia các
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự [15, Tr.65].
Quan điểm thứ hai cho rằng: Thủ tục rút gọn là thủ tục tố tụng hình sự được rút
ngắn về thời gian tố tụng, giản lược một số thủ tục nhất định nhưng vẫn đảm bảo
những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự, nhằm giúp việc điều tra, truy tố, xét xử
được nhanh chóng đối với những vụ án nhất định (thường là những vụ án có tính chất
- 7 -

đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ lai lịch của người phạm tội rõ ràng) góp phần
đấu tranh, phòng chống tội phạm kịp thời, có hiệu quả, đảm bảo các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự [6, tr.13].
Hai quan điểm trên đã đưa ra khái niệm về thủ tục rút gọn, phản ánh đầy đủ, cụ
thể các đặc điểm của thủ tục rút gọn nhưng quá dài, các dấu hiệu khác chưa được nêu
bật do quá chú trọng đến mục đích, ở quan điểm thứ hai sử dụng thuật ngữ “ người
phạm tội” là chưa hoàn toàn chính xác.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là một hình
thức tố tụng đặc biệt được áp dụng đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng,
có khung hình phạt thấp, theo đó có sự rút ngắn về thời gian và giản lược về thủ tục
nhằm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo cho hoạt động đấu
tranh phòng chống tội phạm hiệu quả, góp phần bảo vệ các quyền tự do dân chủ của
công dân [7, Tr.7].
Quan điểm thứ tư cho rằng: Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là thủ tục đặc
biệt trong đó thời hạn và các thủ tục tố tụng đã được rút ngắn và giản lược để việc
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm được nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo tính
chính xác và đúng đắn [14].
Quan điểm thứ ba và quan điểm thứ tư đã đưa ra được khái niệm ngắn gọn, súc
tích, thể hiện được bản chất của thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, quan điểm thứ ba vẫn đề
cao yếu tố mục đích so với các yếu tố khác và cả hai quan điểm đều chưa chỉ ra được
nguyên tắc cần tuân thủ khi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ năm cho rằng: Thủ tục rút gọn là một trình tự tố tụng đặc biệt
do Viện kiểm sát quyết định khi có đủ các điều kiện theo quy định của BLTTHS; là
trình tự được rút ngắn về thời gian và giản lược một số thủ tục trong hoạt động điều
tra, truy tố và xét xử sơ thẩm nhưng vẫn tuân thủ theo các nguyên tắc chung của
BLTTHS, nhằm xử lý một số loại vụ án được nhanh chóng và hiệu quả [16, tr.63].
Quan điểm trên cho rằng TTRG do VKS quyết định áp dụng là một đặc điểm
của TTRG là chưa chuẩn xác. BLTTHS Việt Nam quy định chủ thể có thẩm quyền áp
dụng thủ tục đặc biệt này là VKS. BLTTHS của một số nước như: Nhật Bản, Hàn
Quốc, Pháp…cũng quy định, chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Công tố viên (Cơ

quan công tố). Tuy nhiên ở một số nước mà pháp luật tố tụng hình sự có quy định áp
- 8 -
dụng TTRG thì chủ thể có thẩm quyền áp dụng thủ tục này có thể là Tòa án hoặc
Cảnh sát viên giữ quyền công tố nhà nước, ví dụ: BLTTHS Cộng hòa nhân dân
(CHND) Trung Hoa quy định: tòa án nhân dân có thể áp dụng TTRG do một Thẩm
phán xét xử [48, Điều 174]; BLTTHS năm 1995 của Tây Úc quy định: đối với những
vấn đề có thể được xét xử theo trình tự TTRG thì Cảnh sát có toàn quyền quyết định
việc truy tố, nếu cảnh sát quyết định giải quyết vụ việc theo trình tự rút gọn thì vụ án
sẽ được xét xử theo TTRG [48].
Để đưa ra khái niệm về TTRG trong tố tụng hình sự, cần nghiên cứu những đặc
điểm cơ bản của thủ tục này. Dưới góc độ là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình
sự, TTRG có những đặc điểm sau:
+ Rút ngắn về thời gian tố tụng
Một đặc điểm đặc trưng của TTRG là thời hạn tiến hành tố tụng theo thủ tục
này có sự rút ngắn so với thủ tục thông thường. Trong thủ tục thông thường, nhà làm
luật quy định một thời hạn tố tụng tối đa để tiến hành các hoạt động tố tụng ở những
giai đoạn tố tụng nhất định nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án chính xác, kịp thời,
đúng pháp luật. Tuy nhiên, với một số vụ án nhất định có thể cho phép giải quyết
nhanh hơn so với thời hạn thông thường, nếu áp dụng thời hạn chung để giải quyết
thì có thể gây ra sự lãng phí về thời gian, tiền bạc, công sức của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Với những vụ án đó, pháp luật quy định một thời gian tố tụng ngắn hơn
thời hạn thông thường, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng xử lý vụ án nhanh chóng
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Nghiên cứu pháp luật của
một số nước trên thế giới, chúng ta có thể hiểu rõ hơn đặc điểm này. Tại Đức, đối với
những vụ án thích hợp cho việc xét xử trực tiếp (theo thủ tục xét xử nhanh với những
vụ án đơn giản hoặc chứng cứ rõ ràng), khi có đề nghị của Cơ quan công tố, phiên
toà chính sẽ được mở ngay lập tức [44, Điều 418]. Ở Pháp, trong trường hợp phạm
tội quả tang, nếu phạt tù cao nhất theo luật định là từ một năm đến bảy năm và nếu
Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm thấy các yếu tố đòi hỏi phải đưa bị
cáo ra toà ngay thì Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm có thể quyết định

đưa bị cáo ra Toà ngay trong cùng ngày [13, Điều 395]. Ở Trung Quốc, đối với vụ án
được xét xử theo TTRG, Toà án nhân dân phải kết thúc trong thời hạn 20 ngày sau
khi thụ lý vụ án [49, Điều 178]. Tại Liên bang Nga, việc giải quyết vụ án theo TTRG
- 9 -
được tiến hành trong thời hạn không quá bốn mươi tư ngày (Cơ quan điều tra ban đầu
trong thời hạn mười ngày phải xác định các tình tiết về tội đã phạm và nhân thân
người phạm tội, thu thập các chứng cứ cần thiết cho việc xét xử vụ án; trong trường
hợp cần điều tra làm rõ các tình tiết của tội phạm thì Cơ quan điều tra ban đầu tiến
hành các thủ tục điều tra không quá hai mươi ngày; thời hạn tối đa cho việc xét xử tại
Toà án là mười bốn ngày [47].
BLTTHS năm 2003 của Việt Nam quy định thời hạn tối đa cho việc giải quyết
vụ án theo TTRG là không quá ba mươi ngày, theo đó thời hạn điều tra là mười hai
ngày, thời hạn truy tố là bốn ngày và thời hạn xét xử là mười bốn ngày. Như vậy, thời
hạn này so với thủ tục thông thường đã được rút ngắn rất nhiều.
+ Giản lược về thủ tục tố tụng
Thủ tục rút gọn chỉ áp dụng với một số vụ án nhất định, do có sự rút ngắn về
thời gian so với thủ tục thông thường nên để phù hợp với sự rút ngắn về thời gian đó
pháp luật cho phép người tiến hành tố tụng không phải tiến hành một số hoạt động tố
tụng nhất định và vì vậy nên lược bớt được một số thủ tục tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án. Tại Đức, Cơ quan công tố sẽ gửi đề nghị bằng văn bản hoặc bằng lời
cho Thẩm phán Toà hình sự và Toà án có thẩm phán không chuyên để có quyết định
áp dụng thủ tục xét xử nhanh. Khi cơ quan công tố gửi đề nghị, phiên toà chính thức
sẽ được mở ngay lập tức với thông báo ngắn gọn mà không cần phải ra quyết định
mở phiên toà chính thức. Cơ quan Công tố cũng không nhất thiết phải gửi cáo trạng
đến Toà án trước khi mở phiên toà chính thức mà có thể đưa ra cáo buộc ngay khi bắt
đầu phiên toà chính thức, nội dung cáo buộc sẽ được ghi lại trong biên bản phiên toà
[44, Điều 417, Điều 418]. Ở Nhật Bản, hệ thống Toà án giản lược giải quyết vụ án
theo trình tự giản lược chỉ có một Thẩm phán tiến hành tố tụng. Đối với những vụ án
giải quyết theo trình tự giản lược thì theo yêu cầu của Công tố viên, một Thẩm phán
của Toà án giản lược xem xét hồ sơ do Công tố viên đệ trình quyết định một khoản

tiền nộp phạt thích hợp cho người phạm tội mà không cần tổ chức xét xử công khai.
Nếu không đồng ý lệnh nộp phạt thì trong thời hạn mười bốn ngày kể từ ngày nhận
được thông báo về lệnh xử phạt theo thủ tục giản lược, người phạm tội có thể đề nghị
xét xử vụ án theo thủ tục thông thường [46, Điều 461, Điều 463]. Tại Trung Quốc,
Toà án nhân dân có thể áp dụng thủ tục rút gọn do một Thẩm phán xét xử [49, điều
- 10 -
174]. Ở Pháp, nếu quyết định áp dụng TTRG thì Viện công tố chuyển hồ sơ truy tố
và các kết luận của mình cho Thẩm phán Toà vi cảnh. Thẩm phán ra quyết định hình
sự tha bổng hoặc phạt tiền bị cáo mà không cần tiến hành xét hỏi trước và Thẩm phán
không phải nêu căn cứ của quyết định. Việc xét xử theo TTRG tại Toà vi cảnh do
một Thẩm phán tiến hành [13, Điều 525, Điều 526]. BLTTHS Hàn Quốc quy định:
“Bản án theo thủ tục rút gọn có thể viết bằng văn bản cùng lúc với việc truy tố của
Phòng Công tố” mà “không cần phải tiến hành thủ tục xét xử thông thường” [45,
Điều 448, Điều 449]. Theo BLTTHS năm 2001 của Nga, TTRG ở cấp sơ thẩm có hai
hình thức: Thủ tục ra bản án mà không cần tiến hành xét xử theo thủ tục chung và thủ
tục xét xử do một Thẩm phán tiến hành [ 47, Điều 314, Điều 318].
Sự giản lược về mặt thủ tục trong TTRG theo BLTTHS năm 2003 của Việt
Nam được thể hiện: Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra (CQĐT) quyết định đề
nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho VKS mà không phải làm bản kết luận điều tra;
việc truy tố bị can trước Toà án cũng chỉ bằng quyết định truy tố thay cho Bản cáo
trạng. Như vậy, ở các nước khác nhau, quy định giản lược về thủ tục tố tụng theo
TTRG cũng khác nhau, nhưng nhìn chung các nước đều quy định việc giải quyết vụ
án giản lược hơn.
+ Nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi áp dụng thủ tục rút gọn
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, việc áp dụng TTRG vẫn
phải đảm bảo tôn trọng nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự quy định tại chương II,
BLTTHS năm 2003 như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc tôn trọng
và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi
chưa có bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp luật; nguyên tắc đảm bảo quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc xét xử công khai; nguyên

tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa
số… Sở dĩ pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng như pháp luật tố tụng hình sự
của các nước trên thế giới không quy định hệ thống nguyên tắc riêng đối với TTRG
vì về bản chất TTRG vẫn là một thủ tục tố tụng trong hệ thống tố tụng hình sự của
một quốc gia. Việc quy định TTRG phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như thủ tục
thông thường hay các hình thức tố tụng đặc biệt khác sẽ đảm bảo tính thống nhất cho
- 11 -
pháp luật tố tụng hình sự quốc gia, đảm bảo sự bình đẳng trước pháp luật cho mọi
công dân, đảm bảo dù áp dụng hình thức tố tụng chung hay hình thức tố tụng đặc biệt
thì quyền và nghĩa vụ của công dân trong quan hệ pháp luật tố tụng về cơ bản là như
nhau.
+ Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Pháp luật tố tụng hình sự quy định việc áp dụng TTRG để giải quyết một số loại
án nhất định. Khi áp dụng TTRG thời gian được rút ngắn, thủ tục tố tụng được giản
lược nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, dù giải quyết vụ án
hình sự theo TTRG hay theo thủ tục chung thì một trong những yêu cầu đặt ra đối với
các cơ quan tiến hành tố tụng là phải đảm bảo vụ án được giải quyết một cách chính
xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế sai sót xảy ra (do thời
gian giải quyết ngắn). Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế
giới cho thấy, pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia quy định điều kiện áp dụng TTRG
có sự khác nhau nhưng về cơ bản chỉ áp dụng thủ tục này với những tội phạm ít
nghiêm trọng, hành vi phạm tội đơn giản, rõ ràng, mức hình phạt áp dụng không cao,
hậu quả pháp lý mà bị can, bị cáo phải gánh chịu không lớn và nếu có xảy ra sai sót
trong việc giải quyết vụ án thì hậu quả cũng dễ khắc phục. Tại Đức, thủ tục xét xử
nhanh được áp dụng đối với những vụ án đơn giản hoặc có chứng cứ rõ ràng (Điều
417). Ở Trung QuốC, TTRG có thể được áp dụng đối với những vụ án: có tình tiết rõ
ràng, chứng cứ đầy đủ, có mức phạt tù không quá ba năm, bị giam, giám sát hoặc
phạt tiền ...(Điều 174). Ở Nhật Bản, các loại tội phạm bị phạt tiền từ 500.000 Yên trở
xuống, người bị tình nghi sẵn sàng chấp nhận bản án phạt tiền và không phản đối thủ

tục giản lược thì Công tố viên quyết định giải quyết vụ án theo trình tự rút gọn (Điều
461). Tại Pháp, mọi hành vi phạm tội vi cảnh, dù là hành vi tái phạm đều có thể được
xét xử theo TTRG (Điều 524). Tại Nga, tội phạm có thể bị xử lý theo TTRG là các
tội phạm ít nghiêm trọng, hình phạt áp dụng không cao, có thể áp dụng các biện pháp
tác động xã hội đối với người phạm tội nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ (Điều 414).
Theo BLTTHS năm 2003 của Việt Nam, TTRG chỉ áp dụng khi có đủ các điều
kiện sau: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; sự việc phạm tội đơn
giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người
phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
- 12 -
+ Mục đích của thủ tục rút gọn
Trong tố tụng hình sự, TTRG được áp dụng nhằm mục đích giải quyết một số
loại án hình sự nhất định nhanh chóng, kịp thời để giảm bớt gánh nặng về số lượng
án cần giải quyết quá lớn cho cơ quan tiến hành tố tụng, hạn chế tình trạng án tồn
đọng để quá hạn luật định. Bên cạnh đó, việc giải quyết một số vụ án theo thủ tục này
cũng giúp tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, TTRG vẫn phải đảm bảo được những mục đích
cơ bản của tố tụng hình sự là không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, giải
quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Từ những dấu hiệu của thủ tục rút gọn đã phân tích trên đây, có thể đưa ra một
khái niệm về thủ tục rút gọn như sau
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là một thủ tục tố tụng đặc biệt có sự rút
ngắn về thời gian, giản lược về thủ tục, áp dụng đối với những vụ án đơn giản,
chứng cứ rõ ràng, có tính chất ít nghiêm trọng nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng,
kịp thời, nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và
quyền lợi hợp pháp của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
1.2. Ý nghĩa của thủ tục rút gọn
Ý nghĩa chính trị
Việc áp dụng TTRG nhằm mục đích giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ
án hình sự nhất định, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội

phạm đồng thời cũng góp phần hoàn thành một trong những mục tiêu quan trọng của
cải cách tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự mà Nghị quyết số 48 – NQ/TW của
Bộ Chính trị ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49–
NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã đặt ra là: tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm các
quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Việc rút ngắn thời gian, giản lược một số thủ tục tố tụng nhất định, tạo điều
kiện giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án hình sự nhưng vẫn đảm bảo được
những mục đích cơ bản của tố tụng hình sự là không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, giải quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật góp
- 13 -
phần thiết thực vào việc thực hiện định hướng mà Nghị quyết số 49– NQ/TW ngày
02/6/2005 Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra là:
“hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Với quy định bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại
quyết định áp dụng TTRG của VKS. Trong trường hợp có khiếu nại, VKS phải giải
quyết khiếu nại này và CQĐT chỉ được áp dụng TTRG khi đã có quyết định giải
quyết khiếu nại của VKS, TTRG trong BLTTHS năm 2003 đã góp phần đề cao vấn
đề bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Ý nghĩa pháp lý
Quy định về TTRG là sự kế thừa và phát triển những quy định về thủ tục rút
ngắn trong các văn bản trước đây của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời
cũng là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp nước ta khi quy định về thủ tục
này không được ghi nhận tại BLTTHS đầu tiên của nước ta năm 1988. Chế định
TTRG trong BLTTHS năm 2003 có sự tiếp thu có chọn lọc các quy định tiến bộ của
pháp luật nước ngoài và phù hợp với nền lập pháp nước ta về thủ tục này, đáp ứng
yêu cầu xu thế quốc tế hoá mọi mặt của đất nước hiện nay.
Quy định về TTRG trong BLTTHS năm 2003 là cơ sở pháp lý để các cơ quan
tiến hành tố tụng áp dụng giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhiều vụ án thuộc loại ít

nghiêm trọng, có tính chất quả tang, đơn giản rõ ràng không cần phải mất nhiều thời
gian, không phải thực hiện nhiều thủ tục tố tụng.
Ý nghĩa xã hội
Việc áp dụng TTRG để giải quyết một số vụ án nhất định một cách nhanh
chóng, sớm đưa tội phạm ra xử lý trước pháp luật, góp phần giải quyết kịp thời tất cả
các vụ án mà cơ quan tiến hành tố tụng đã thụ lý, giảm lượng án tồn đọng, quá hạn ở
các cơ quan này, đồng thời góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có thời gian
xử lý các vụ án khác phức tạp hơn, cần nhiều thời gian hơn cho việc giải quyết.
Thủ tục rút gọn góp phần nhanh chóng khôi phục quan hệ xã hội bị xâm phạm,
tội phạm sớm được xét xử, người bị hại sớm được khôi phục quyền lợi, người phạm
tội sớm phải chịu hình phạt nên cũng sớm trở về hoà nhập cuộc sống, từ đó góp phần
nhanh chóng ổn định trật tự xã hội.
- 14 -
Ngoài ra, TTRG còn là biện pháp tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức cho việc
điều tra, truy tố, xét xử một số tội phạm nhất định; giảm tải gánh nặng công việc cho
các cơ quan tư pháp; nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm; đồng thời
tiết kiệm chi phí và thời gian cho những người tham gia tố tụng vì thời gian giải
quyết vụ án ngắn nên người tham gia tố tụng không phải mất nhiều thời gian cho vụ
án.
Với việc giải quyết nhanh chóng, kịp thời một số vụ án nhất định nhưng vẫn
đảm bảo được những mục đích cơ bản của tố tụng hình sự là không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội, giải quyết vụ án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, TTRG góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào pháp luật, hệ thống cơ
quan tư pháp nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Thủ tục rút gọn trong tố tụng
hình sự góp phần giải quyết nhanh chóng các vụ án hình sự sẽ củng cố thêm lòng tin
của người dân vào sự công bằng của pháp luật, sự công tâm của cán bộ công tác trong
ngành tư pháp, hiệu quả công tác tư pháp sẽ được nâng cao, đảm bảo hiệu quả và
hiệu lực.
1.3. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ tục rút gọn
1.3.1. Quy định về phạm vi, điều kiện và thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn

1.3.1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn
Phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn là giới hạn luật định cho phép thủ tục rút gọn
được áp dụng trong những giai đoạn nhất định của tố tụng hình sự. Điều 318
BLTTHS năm 2003 quy định về phạm vi áp dụng TTRG như sau: thủ tục rút gọn đối
với việc điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của chương
này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy
định của chương này.
Với quy định như trên, TTRG không áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng
mà chỉ được áp dụng trong ba giai đoạn: điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm. Đây là
các giai đoạn trung tâm của trình tự tố tụng, thể hiện rõ nét nhất chức năng của
CQĐT, VKS và Tòa án cũng như mối quan hệ phối hợp và chế ước của ba cơ quan
này. Theo quy định tại Điều 320 BLTTHS năm 2003, các cơ quan tiến hành tố tụng
được áp dụng TTRG để giải quyết vụ án sau khi có quyết định áp dụng TTRG của
VKS, quyết định này được ban hành sau khi khởi tố vụ án, tức là trong giai đoạn điều
- 15 -
tra vụ án. Sở dĩ pháp luật không quy định áp dụng TTRG ở ngay giai đoạn khởi tố vụ
án vì ở giai đoạn này các dấu hiệu của tội phạm mới đang được xác định, cơ quan
tiến hành tố tụng chưa thể xác định được các điều kiện áp dụng TTRG theo quy định
của pháp luật. Thủ tục rút gọn cũng không được áp dụng ở các giai đoạn sau khi xét
xử sơ thẩm như: xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục thi hành án. Nếu vụ án phải xét xử lại theo thủ tục phúc
thẩm thì tính chất “ sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” không còn nữa mà
vụ án đã trở thành phức tạp vì “ khi bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đã bị
kháng cáo, kháng nghị là đã có sự không thống nhất giữa Toà án với VKS hoặc giữa
Toà án với những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo trong việc giải quyết
vụ án” [11] và vụ án được áp dụng thủ tục chung để giải quyết sẽ đảm bảo các tình
tiết của vụ án được xem xét toàn diện, đầy đủ và tỉ mỉ hơn. Do đó, BLTTHS năm
2003 quy định TTRG gọn chỉ được áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
sơ thẩm.

Tuy nhiên, việc BLTTHS năm 2003 quy định không áp dụng TTRG đối với
việc xét xử phúc thẩm là bó hẹp phạm vi áp dụng của thủ tục này. Về mặt lý luận
cũng như thực tiễn xét xử cho phép nhận định có những trường hợp việc kháng cáo
của bị cáo không làm cho tính chất của vụ án trở nên phức tạp. Đa số các bị cáo thực
hiện quyền kháng cáo để xin được khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt với tâm lý cầu
may, nhiều trường hợp người bị hại kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì
họ có quan hệ hôn nhân, huyết thống với bị cáo hoặc vì thông cảm, tha thứ, không
muốn gây thù oán với bị cáo chứ không phải vì phản đối việc giải quyết vụ án của tòa
án cấp sơ thẩm, cũng không phải vì bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm không
đảm bảo tính hợp pháp hay tính không có căn cứ [11]. Với những trường hợp trên thì
thực chất không có vấn đề cần xem xét thêm các tình tiết thuộc nội dung vụ án, cũng
không cần xem xét lại việc áp dụng pháp luật của tòa án cấp sơ thẩm mà chỉ xem xét
có thể giảm hơn nữa mức án cho bị cáo hay không mà thôi. Vì vậy, trong trường hợp
này, nếu như vụ án đã có đủ điều kiện để xét xử sơ thẩm theo TTRG thì những điều
kiện đó vẫn được duy trì sau khi bản án bị kháng cáo, hoàn toàn có thể áp dụng
TTRG để xét xử phúc thẩm những vụ án này mà không ảnh hưởng đến chất lượng
- 16 -
xét xử và vẫn bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của bị cáo. Việc hạn chế áp dụng
TTRG trong xét xử phúc thẩm trong những trường hợp này là không cần thiết. Mặt
khác, nếu sau khi xét xử sơ thẩm có kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc
thẩm thì vẫn phải áp dụng theo thủ tục chung mà theo quy định tại Điều 242 về thời
hạn xét xử phúc thẩm thì “ Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu
phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày…”. Như vậy, tổng số thời hạn
điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm theo TTRG là 30 ngày trong khi thời hạn xét xử phúc
thẩm là 60 ngày, đây là điều không hợp lý làm mất đi ý nghĩa của TTRG [27].
Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới cho thấy
phạm vi áp dụng TTRG trong tố tụng hình sự có sự khác nhau. Một số nước giới hạn
trong một giai đoạn tố tụng nhất định ví dụ: BLTTHS CHND Trung Hoa, BLTTHS
Cộng hòa Pháp, BLTTHS Liên bang Nga quy định TTRG chỉ được áp dụng trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm, không áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố. Một số

nước quy định áp dụng TTRG trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử ví dụ như:
BLTTHS Tây Úc, BLTTHS Việt Nam. Một số nước có quy định mở rộng phạm vi áp
dụng TTRG đối với cả giai đoạn xét xử phúc thẩm, ví dụ: tại khoản 4, khoản 5 Điều
364 BLTTHS Hàn Quốc quy định: khi Tòa án thấy rằng rõ ràng đơn kháng cáo không
có cơ sở, Tòa án có thể bác đơn kháng cáo bằng bản án mà không cần tố tụng miệng,
bằng cách thẩm tra đơn kháng cáo, bản trình bày lý do kháng cáo hoặc bất kỳ tài liệu
nào của vụ án; Điều 408 BLTTHS Nhật Bản quy định: Trường hợp Tòa án phúc thẩm
Jokoku, sau khi xem xét bản trình bày lý do kháng nghị Jokoku đã tìm thấy những tài
liệu khác chứng tỏ rằng việc kháng nghị là không thể chứng minh được, thì Tòa án có
thể bác kháng nghị bằng một bản án mà không cần phải tiến hành thủ tục xét xử bằng
lời nói.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trước đây cũng có quy định về việc áp dụng
TTRG ở cấp phúc thẩm, cụ thể tại Thông tư số 19/TT – TATC ngày 12/10/1974 của
Tòa án nhân dân tối cao đã quy định về điều kiện, trình tự áp dụng TTRG để xét xử ở
giai đoạn phúc thẩm. Các quy định đó vẫn có những điểm hợp lý
cần được tiếp tục kế thừa và phát triển.
- 17 -
Như vậy, xét về lịch sử lập pháp các quy định về phạm vi áp dụng TTRG của
Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản có những điểm tương đồng, đây là vấn đề cần được
xem xét khi sửa đổi bổ sung BLTTHS về thủ tục đặc biệt này.
1.3.1.2. Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn là những căn cứ mà BLTTHS quy định cần
và đủ để có thể áp dụng thủ tục này. Theo quy định tại Điều 319 BLTTHS năm 2003
thì thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều kiện sau đây:
Điều kiện thứ nhất: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang
Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì
bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào
cũng có quyền bắt và giải ngay đến các cơ quan Công an, VKS hoặc Ủy ban nhân
dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến
CQĐT có thẩm quyền. Theo quy định trên thì phạm tội quả tang là trường hợp người

thực hiện hành vi phạm tội bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực
hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Như vậy, phạm tội quả tang gồm các
trường hợp: trường hợp người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ;
trường hợp ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ và trường
hợp đang bị đuổi bắt vì bị phát hiện khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi
thực hiện tội phạm.
- Trường hợp người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ.
Người đang thực hiện tội phạm được hiểu là người đang thực hiện những hành vi
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Đang thực hiện tội phạm có thể là:
đang thực hiện những hành vi làm cơ sở tiền đề liền trước hành vi phạm tội, những
hành vi này không phải là hành vi chuẩn bị phạm tội mà đây là những hành vi rất
gần, không thể tách ra được với hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm nên
được coi là hành vi thực hiện tội phạm. Ví dụ như: hành vi giơ dao để đâm, lắp đạn
vào súng để bắn…[28, tr.156, tr.157, tr.204, tr.205]; đã thực hiện hành vi khách quan
của tội phạm nhưng chưa thực hiện được hết các hành vi mô tả trong cấu thành tội
phạm, hoặc mới thực hiện được một trong số những hành vi quy định trong cấu thành
tội phạm …[28, tr.156, tr.157, tr.204, tr.205], ví dụ như: đang dùng vũ lực với nạn
nhân để giao cấu với nạn nhân, đang uy hiếp tinh thần nạn nhân để chiếm đoạt tài
- 18 -
sản,…hành vi đang thực hiện có thể đã gây ra hậu quả hoặc chưa, có thể diễn ra trong
một thời gian ngắn (như hành vi cướp tài sản) hoặc có thể diễn ra trong một thời gian
dài (như hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng).
- Trường hợp ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ.
Trường hợp này các hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm đã được thực hiện
hết, đã thoã mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội phạm, tội phạm vừa mới được
hoàn thành nhưng người thực hiện hành vi phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất
dấu công cụ, phương tiện phạm tội, đang xoá những dấu vết của tội phạm trước khi
chạy trốn thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Thời điểm bị bắt giữ có sự tiếp liền về mặt
thời gian với thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện, người thực hiện hành vi
phạm tội chưa rời khỏi hiện trường vụ án.

- Trường hợp đang bị đuổi bắt vì bị phát hiện khi đang thực hiện tội phạm hoặc
ngay sau khi thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện
tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị
đuổi bắt. Việc thực hiện tội phạm, chạy trốn và đuổi bắt có sự liên tục, không có sự
gián đoạn về mặt thời gian và diễn biến của sự việc.
Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng, ai trông thấy
cũng có thể biết đó là tội phạm. Các vụ án mà người phạm tội bị bắt quả tang thông
thường là những trường hợp chứng cứ tang vật của vụ án được thu giữ đầy đủ, người
làm chứng, người bị hại cũng được xác định cụ thể nên người phạm tội không thể
chối cãi về hành vi mà mình đã hoặc đang thực hiện, do đó việc xác định tội phạm
được nhanh chóng.
Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết án hình sự cho thấy không phải chỉ có trường
hợp phạm tội quả tang việc xác định tội phạm mới được nhanh chóng, chính xác mà
có nhiều trường hợp vụ án tuy không phải thuộc trường hợp quả tang, song sự việc
phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, căn cước lai
lịch của bị can rõ ràng nhưng không được áp dụng TTRG vì không phải là trường
hợp phạm tội quả tang. Ví dụ: A trộm cắp của B một chiếc xe máy, hai hôm sau trên
đường A đi tiêu thụ thì bị B phát hiện báo công an bắt giữ, A thừa nhận hành vi trộm
cắp xe máy của B, tang vật được thu hồi trả lại ngay cho B. Hoặc có những trường
hợp người phạm tội tự thú, đầu thú về hành vi phạm tội của mình mà hành vi phạm
- 19 -
tội đó cũng rất đơn giản, chứng cứ rõ ràng, việc chứng minh tội phạm vẫn đảm bảo
yếu tố nhanh chóng, chính xác nhưng vì cũng không phải là trường hợp phạm tội quả
tang nên cũng không được áp dụng TTRG [27]. Do vậy, việc BLTTHS năm 2003
quy định điều kiện người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang thực chất chỉ có
ý nghĩa khoanh vùng, hạn chế các vụ án được áp dụng theo TTRG một cách cơ học.
Mặt khác, mục đích của TTRG là làm giảm áp lực, giảm sự quá tải về số lượng án
phải giải quyết theo thủ tục thông thường. Cho nên, việc quy định điều kiện người
thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang là bó hẹp so với thực tiễn, chưa đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Điều kiện thứ hai: sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng
Điều kiện “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” mang tính định tính.
Pháp luật tố tụng hình sự hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là “sự
việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng”. Vấn đề này trước đây đã được đề cập tại
Thông tư số 10 – TATC ngày 8/7/1974 của Toà án nhân dân Tối cao: “Tội phạm đơn
giản, rõ ràng là: vụ án không có các tình tiết phải mất thì giờ điều tra, xác minh, bị
cáo đã nhận tội và trong vụ án chỉ có một hoặc hai bị cáo”. Tuy nhiên, văn bản này
hiện nay đã không còn hiệu lực. Do vậy, không thể dựa vào quy định tại Thông tư số
10 – TATC ngày 8/7/1974 để áp dụng cho vấn đề này. Điều kiện “sự việc phạm tội
đơn giản, rõ ràng” gồm hai dấu hiệu: sự việc phạm tội đơn giản và sự việc phạm tội
có chứng cứ rõ ràng. Căn cứ vào thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, có thể hiểu
điều kiện này như sau:
- Sự việc phạm tội đơn giản là những sự việc mà vấn đề cần chứng minh trong
vụ án không phức tạp và dễ xác định. Điều 63 BLTTHS quy định những vấn đề cần
chứng minh gồm: 1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian địa điểm và
những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội;
có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay do vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay
không; mục đích, động cơ phạm tội; 3. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị cáo; 4. Tính
chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Cụ thể:
+ Hành vi phạm tội thường do một người thực hiện hoặc có thể có nhiều người
thực hiện nhưng là trường hợp đồng phạm giản đơn, việc xác định vai trò, vị trí của
- 20 -
từng đối tượng dễ dàng mà không phải trường hợp phạm tội có tổ chức hoặc đồng
phạm phức tạp, khó xác định vai trò, vị trí của từng đối tượng. Tội phạm được thực
hiện tại một địa điểm nhất định, không liên quan đến nhiều địa bàn khác.
+ Người thực hiện hành vi phạm tội thường là người đã thành niên, có đủ năng
lực trách nhiệm hình sự, không thuộc trường hợp có nghi ngờ về năng lực trách
nhiệm hình sự của họ. Hành vi mà họ thực hiện thường do lỗi cố ý, yếu tố lỗi được
thể hiện rõ ràng và dễ xác định.

+ Mục đích phạm tội thường là lợi ích vật chất, động cơ vụ lợi mang tính nhất
thời, dễ xác định.
+ Sự việc phạm tội không liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, không liên
quan đến chính sách dân tộc, tôn giáo, phong tục tập quán hay những vấn đề chính
trị, an ninh, kinh tế… phức tạp khác. Việc giải quyết vụ án cũng không đòi hỏi phải
tiến hành những hoạt động điều tra phức tạp khác.
- Sự việc phạm tội có chứng cứ rõ ràng
Chứng cứ rõ ràng có thể được hiểu là những chứng cứ phản ánh đầy đủ, chính
xác và toàn diện những vấn đề phải chứng minh trong vụ án. Vụ án thuộc trường hợp
phạm tội quả tang nên chứng cứ của vụ án được thu thập tương đối đầy đủ ngay sau
khi bắt người thông qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người bị
bắt giữ, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng trực tiếp chứng kiến
sự việc phạm tội, các tang vật thu được tại hiện trường…các chứng cứ cần thiết để
xác định sự thật khách quan của vụ án được thu thập nhanh chóng, đầy đủ. Chứng cứ
của vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định, có giá trị chứng minh trực tiếp, khách quan và hợp pháp. Chứng
cứ rõ ràng là một yếu tố quan trọng để xác định vụ việc phạm tội là đơn giản, đồng
thời rút ngắn quá trình điều tra, xác minh của cơ quan tiến hành tố tụng, tạo điều kiện
để giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác.
Trong thực tiễn áp dụng TTRG để giải quyết vụ án hình sự thì hai yếu tố sự
việc phạm tội đơn giản và chứng cứ rõ ràng có mối liên hệ lôgíc với nhau. Trong khái
niệm sự việc phạm tội đơn giản có bao hàm cả yếu tố chứng cứ rõ ràng và ngược lại.
Tính chất sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng phải luôn tồn tại trong suốt
quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nếu trong quá trình giải
- 21 -
quyết vụ án theo TTRG mà phát hiện có những tình tiết phức tạp, phải điều tra bổ
sung, cần thời gian để xác minh thêm thì TTRG bị huỷ bỏ, vụ án phải giải quyết theo
thủ tục thông thường.
Điều kiện thứ ba: tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng.
BLHS sửa đổi năm 2009 phân hóa tội phạm thành bốn loại tội khác nhau, bao

gồm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
“ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù” (Khoản 3 Điều 8
BLHS năm 2009)
Theo quy định này để xác định tội phạm ít nghiêm trọng phải dựa trên hai dấu
hiệu: dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội và dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý.
Dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm ít
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội. Dấu hiệu về mặt hậu
quả pháp lý là tính chịu hình phạt. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến ba năm tù.
Do hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội và hậu quả pháp lý mà người thực
hiện tội phạm ít nghiêm trọng có thể phải gánh chịu là không lớn nên việc xử lý có
thể nhanh chóng, dễ dàng hơn và nếu trong trường hợp việc xử lý có sai sót thì hậu
quả cũng không đến mức nghiêm trọng so với các trường hợp thực hiện tội phạm
khác và việc khắc phục hậu quả cũng dễ dàng hơn.
BLHS năm 2009 có 149/267 điều luật có quy định về tội phạm ít nghiêm trọng
Tuy nhiên không phải tất cả các tội phạm ít nghiêm trọng đều có thể áp dụng TTRG
vì còn phụ thuộc vào các điều kiện khác, đặc biệt là điều kiện “ sự việc phạm tội đơn
giản, chứng cứ rõ ràng”, nhiều vụ án thuộc loại tội ít nghiêm trọng nhưng lại phức tạp
trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ như các tội gây rối trật tự công cộng, các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp… thì cũng không thể áp dụng TTRG để giải quyết. Do
đó, số lượng án ít nghiêm trọng được áp dụng để giải quyết theo TTRG là rất hạn
chế. Trong khi thực tiễn xét xử lại có nhiều vụ án phạm tội nghiêm trọng, hoàn toàn
thỏa mãn các điều kiện 1,2,4 quy định tại Điều 319 song không thể áp dụng được
- 22 -
TTRG vì không thỏa mãn với điều kiện “ tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm
trọng”.
Việc phân loại tội phạm trong BLHS của nước ta hiện nay chủ yếu dựa vào mức
độ gây nguy hại của hành vi và mức cao nhất của khung hình phạt có thể áp dụng đối

với hành vi phạm tội đó chứ không phân loại tội phạm theo mức độ đơn giản hay
phức tạp của hành vi phạm tội. Do đó, việc xác định điều kiện áp dụng TTRG chỉ với
tội phạm ít nghiêm trọng là không phù hợp về cơ sở lý luận và thực tiễn.
Điều kiện thứ tư: Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng
Vấn đề căn cước, lai lịch của bị can, bị cáo là một trong những vấn đề cần
chứng minh của vụ án hình sự theo quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003, vấn đề
này có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết vụ án: Lý lịch của bị can, bị cáo liên quan
đến năng lực trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, liên quan đến việc quyết định
hình phạt (tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo)…
Căn cước lai lịch của người phạm tội đã rõ ràng thì thời gian điều tra, xác minh có
thể được rút ngắn và từ đó bảo đảm thời gian tố tụng.
Đặc điểm về căn cước, lai lịch của người phạm tội được hiểu một cách chung
nhất là đặc điểm về nhân thân của người phạm tội. Nhân thân của người phạm tội bao
gồm các đặc điểm về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc, thành phần xã hội, trình
độ văn hoá, nghề nghiệp, điều kiện sinh sống, hành cảhn gia đình, quá trình hoạt
động chính trị, xã hội, tiền án, tiền sự…[6, tr.38].
Khi quyết định áp dụng TTRG để giải quyết vụ án, việc xác định căn cước, lai
lịch của bị can rõ ràng hay không có thể dựa vào lời khai ban đầu của bị can về lý
lịch của họ. Đối với vụ án giải quyết theo TTRG thì không những lý lịch bị can, bị
cáo phải rõ ràng, có giấy tờ chứng minh hợp pháp, những thông tin về vấn đề này cụ
thể, độ tin cậy cao mà còn đòi hỏi việc xác minh căn cước, lai lịch của người phạm
tội dễ dàng, nhanh chóng không ảnh hưởng tới thời hạn áp dụng [6, tr.42]
Bốn điều kiện trên đây một mặt độc lập với nhau, mặt khác lại có mối quan hệ
bổ trợ nhau. Ví dụ: không phải mọi tội phạm ít nghiêm trọng đều có thể áp dụng
TTRG, vì có nhiều tội danh tuy là ít nghiêm trọng nhưng lại hết sức phức tạp trong
thu thập và đánh giá chứng cứ như các tội về môi trường, tội phạm chức vụ, tội phạm
xâm phạm các hoạt động tư pháp.. [17]. Điều kiện về người thực hiện hành vi phạm
- 23 -
tội bị bắt quả tang và điều kiện người thực hiện tội phạm có căn cước, lai lịch rõ ràng
là tiền đề xác định điều kiện sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Vì thế khi

xem xét áp dụng TTRG cần phân tích đánh giá từng điều kiện trong mối liên hệ tổng
thể với các điều kiện khác và chỉ quyết định giải quyết vụ án theo TTRG khi cả bốn
tiêu chí trên đều đảm bảo. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án theo
TTRG nếu một trong các điều kiện này mất đi thì vụ án phải chuyển về thủ tục thông
thường để giải quyết.
1.3.1.3 Thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
Thẩm quyền quyết định áp dụng thủ tục rút gọn được quy định tại Điều 320
BLTTHS năm 2003:
1. Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc xét thấy vụ án
có đủ các điều kiện quy định tại điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra
quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
2. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được gửi cho cơ quan điều tra và bị
can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết
định áp dụng thủ tục rút gọn.
3. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị khiếu nại. Bị can hoặc người đại
diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời
hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định. Khiếu nại được gửi đến
Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong
thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Theo quy định này, hiện nay chỉ có VKSND cùng cấp với CQĐT đang thụ lý
vụ án là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất là có thẩm quyền quyết định áp dụng
TTRG. Theo quy định tại khoản 4 Điều 110 BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền điều
tra và khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền xét xử của Toà án các
cấp, vụ án ít nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT cấp huyện. Điều 36
BLTTHS năm 2003 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKS, theo đó Viện trưởng VKSND có quyền “ ra các quyết
định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát”.
Như vậy, người có thẩm quyền ký quyết định áp dụng TTRG là Viện trưởng VKSND
- 24 -
cấp huyện, khi Viện trưởng VKS vắng mặt một Phó viện trưởng được Viện trưởng

uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng.
VKS sẽ ra quyết định áp dụng TTRG trong hai trường hợp: Một là, theo đề nghị
của CQĐT. Trong quá trình thụ lý vụ án, xét thấy có đủ điều kiện áp dụng theo
TTRG theo quy định của BLTTHS năm 2003, CQĐT sẽ đề nghị VKS ra quyết định.
Trên cơ sở đề nghị này và những tài liệu mà cơ quan điều tra chuyển sang, VKS thấy
vụ án có đủ điều kiện quy định tại điều 319 BLTTHS năm 2003 thì ra quyết định áp
dụng TTRG để giải quyết vụ án. Hai là, VKS tự ra quyết định áp dụng TTRG mà
không cần phải có đề nghị của CQĐT. Chức năng của VKS là “ thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”
[18, Điều 137]. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động khởi tố vụ án
của CQĐT, VKS nhận thấy có đủ điều kiện theo luật định thì có thể tự mình ra quyết
định áp dụng TTRG.
Trong cả hai trường hợp trên VKS chỉ có thể áp dụng TTRG “sau khi khởi tố vụ
án” và “ quyết định áp dụng TTRG phải được gửi cho Cơ quan điều tra và bị can
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định án
dụng TTRG”. Quyết định này có thể bị khiếu nại, người có quyền khiếu nại là bị can
hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Thời hạn khiếu nại là 3 ngày kể từ ngày nhận
quyết định. Pháp luật tố tụng hình sự chỉ quy định thẩm quyền, thời hạn giải quyết
khiếu nại, chứ không quy định căn cứ, cách thức giải quyết khiếu nại và hậu quả của
việc giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận định nếu khiếu nại được
chấp nhận thì VKS sẽ ra quyết định huỷ quyết định áp dụng TTRG, vụ án giải quyết
theo thủ tục thông thường, còn nếu VKS nhận thấy khiếu nại không có cơ sở thì
TTRG được áp dụng để giải quyết vụ án.
Việc quy định thẩm quyền quyết định áp dụng TTRG thuộc về VKS, CQĐT chỉ
có quyền đề nghị trong khi CQĐT lại là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong việc thu
thập chứng cứ và tài liệu của vụ án. Mặt khác, lại có thêm một thủ tục là CQĐT phải
làm văn bản đề nghị VKS ra quyết định áp dụng TTRG. Điều này không những
không giản lược thủ tục mà còn phức tạp thêm. Do đó, quy định thẩm quyền ra quyết
định áp dụng TTRG như pháp luật hiện hành là chưa phù hợp.
- 25 -

Thực tiễn giải quyết án hình sự theo TTRG cho thấy các cơ quan tiến hành tố
tụng chưa thực sự quan tâm đến việc áp dụng thủ tục này. Một mặt, do thời hạn giải
quyết vụ án theo TTRG quá ngắn (đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, truy tố), mặt
khác pháp luật cũng không quy định bắt buộc phải áp dụng TTRG khi vụ án có đủ
điều kiện luật định nên việc áp dụng TTRG chưa đi vào ý thức của những người tiến
hành tố tụng, vẫn còn quan niệm áp dụng cũng được không áp dụng cũng được. Cho
nên, ĐTV và CQĐT ở hầu hết các quận huyện chưa chủ động trong việc đề nghị áp
dụng TTRG, KSV và VKS ở một số nơi vẫn không mấy quan tâm đến thủ tục này
[43]. Thực tế trên dẫn đến tình trạng việc áp dụng TTRG để giải quyết các vụ án có
đủ điều kiện luật định còn rất hạn chế.
1.3.2 Quy định về thời hạn và thủ tục điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm
theo thủ tục rút gọn.
1.3.2.1 Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục rút gọn.
Thời hạn trong tố tụng hình sự được hiểu là khoảng thời gian tối đa mà
BLTTHS cho phép tiến hành tố tụng đối với vụ án. Một đặc điểm cơ bản của TTRG
trong tố tụng hình sự là sự rút ngắn về thời hạn tố tụng một cách đáng kể so với thủ
tục thông thường. BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ
thẩm theo TTRG như sau:
Thời hạn điều tra: Do tính chất đơn giản của vụ án, hoạt động điều tra theo
TTRG không quá phức tạp, tốn kém thời gian và công sức của CQĐT. Cho nên thời
hạn điều tra theo thủ tục này được rút ngắn rất nhiều so với thủ tục thông thường.
Thời hạn điều tra theo TTRG là mười hai ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ
án. Thời hạn điều tra được tính dựa theo quy định chung tại khoản 1 Điều 119
BLTTHS năm 2003 là “kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra”. Việc
quy định thời hạn điều tra rút ngắn như vậy là để cho việc điều tra được tiến hành
khẩn trương, nhanh chóng đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của bị can và những
người tham gia tố tụng khác.
Thời hạn truy tố: Theo quy định của BLTTHS hiện hành thì trong thời hạn 4
ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, VKS phải ra một trong những quyết định sau
đây…”. Sau khi nhận được quyết định đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án của CQĐT,

VKS tiến hành xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ án và trong thời hạn không quá bốn ngày

×