Đề bài: Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ
Bài làm
Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. Ông là người học rộng tài cao,
nhưng sống ẩn dật, thanh khiết. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những truyện hay nhất
của tập “ Truyền kì mạn lục” . Trong truyện nhân vật Vũ Nương hiện lên là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến
có vẻ đẹp toàn diện nhưng cuộc đời bi kịch đắng cay.
Nguyễn Dữ viết tác phẩm này vào thế kỉ XVI khi nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê
- Trịnh - Mạc tranh giành quyền bính gây ra các cuộc nội chiến kéo dài. Lúc này đời sống nhân dân vô cùng bi
thảm, đáng thương hơn cả là những người phụ nữ. Tập “ Truyền kì mạn lục” được coi là một áng "thiên cổ kì bút",
nhằm khẳng định vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ và bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc với số phận oan nghiệt
của họ dưới chế độ xã hội phong kiến xưa.
Trong truyện Vũ Nương hiện lên là người phụ nữ có vẻ đẹp tồn diện, đẹp người đẹp nết. Trước hết nàng
đẹp ở tư dung. Nguyễn Dữ chỉ nhận xét Vũ Nương rằng “ tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Cách
nói gợi hình dung về nhan sắc mặn mà đằm thắm của Vũ Nương. Khơng chỉ có vẻ đẹp nhan sắc, Vũ Nương còn
đẹp ở nhân cách phẩm giá. Khi đi lấy chồng, với chồng , Vũ Nương là người vợ thương yêu, thủy chung tình nghĩa
và có tấm lịng nhân hậu vị tha. Biết chồng có tính hay ghen, nàng cư xử dịu dàng, nhường nhịn, “ ln giữ gìn
khn phép” để gia đình trong ấm ngồi êm. Trương Sinh phải tịng quân đi lính ở xa, nàng chỉ thiết tha với mong
ước nhỏ nhoi trong lời dặn dị đầy tình nghĩa: “thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu...chỉ mong ngày về mang
theo hai chữ bình yên”. Với nàng sự bình yên của chồng là quan trọng nhất, vinh hoa bổng lộc nào có nghĩa lý gì.
Nàng cịn cảm thơng cho nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng “ chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn
lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao”. Vũ Nương cũng bày tỏ nỗi nhớ nhung khắc khoải của
mình “ nhìn trăng soi thành cũ, trơng liễu rủ bãi hoang lại thổn thức tâm tình nhớ người đẩt thú”. Chồng đi xa,
nàng đã thay chồng báo hiếu mẹ, ăn ở khơng để ai chê trách gièm pha. Vì thủy chung ,tình nghĩa nên cách biệt ba
năm vẫn “ giữ gìn một tiết”, “tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng”, “ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nàng
chỉ bóng mình trên vách là để ngi lịng cả nỗi nhớ cha của con, cả nỗi nhớ vợ chồng. Khi Trương Sinh trở về
nghi oan vợ,Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ nỗi lịng mình, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung trong
trắng và tha thiết xin chàng đừng nghi oan. Nàng đã hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.
Trong gia đình Vũ Nương là người con dâu rất hiếu thảo, lễ nghĩa. Chồng chinh chiến xa nhà, Vũ
Nương thay chồng phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi con nhỏ chu đáo vẹn tồn. Vũ Nương q mẹ chồng chẳng khác
gì mẹ đẻ. Mẹ chồng ốm bệnh. Vũ Nương thay chồng hết sức thuốc thang , lễ bái thần phật, chăm sóc miếng cơm
miếng cháo”, ngọt ngào khôn khéo để khuyên lơn. Khi mẹ mất việc tang chay tế lễ nàng lo liệu chu toàn. Như thế
nàng đối với mẹ chồng đâu chỉ bằng trách nhiệm mà cịn bằng tình thương. Lời trăng trối của mẹ chồng trước khi
nhắm mắt “ xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ” là cách đánh giá thật chính xác và khách
quan. Bà đã khẳng định công lao, đức hạnh và phẩm chất hiếu thảo của con dâu mình. Để hiếu thảo với mẹ chồng
nếu chỉ giàu lòng yêu thương và trách nhiệm thơi chưa đủ, Vũ Nương cịn phải đảm đang tháo vát lắm, Trương Sinh
ra trận gánh nặng gia đình đặt cả lên vai Vũ Nương. Nàng vừa phải làm vợ, làm mẹ, làm dâu vừa phải gánh vác
giang sơn nhà chồng, Tất cả những công việc lớn bé ấy, một tay nàng sắp đặt. đảm đang tháo vát đến vô cùng. Sự
hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chồng khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
– một cô gái sẵ sang bán thân mình để cứu cha và em. Có thể nói rằng tấm lòng thủy chung hiếu thảo là nét phẩm
chất chung của những người phụ nữ trong XHPK. Họ đáng để chúng ta trân trọng và yêu thương.
Nàng còn là người mẹ đảm đang tháo vát đó cịn hết lịng u thương con. Một mình ni con thơ
khi vắng chồng nên nàng muốn dành trọn cho con tình yêu thương của người mẹ và của cả người cha. Nàng muốn
con lớn lên có cả tình mẹ và nghĩa cha, muốn khỏa lấp nỗi trống vắng bóng hình người cha trong lịng con trẻ nên
mới chỉ bóng mình trên vách và bảo rằng đó là cha.
Con người thủy chung tình nghĩa ấy dù sau khi tự vẫn, khơng cịn ở cõi nhân gian, sống ở thủy
cung sung sướng vẫn hướng lòng về chồng con, gia đình, quê hương, xứ sở . Vũ Nương khơng một lời hờn
trách, ốn giận chồng. Nghe Phan Lang nhắc đến chàng Trương tình cảnh sầu thảm, nàng đã ứa nước mắt khóc và
nói “tơi tất phải tìm về có ngày”. Tấm lịng vị tha bao dung ấy chỉ có ở người phụ nữ Việt Nam. Nàng khát khao
được phục hồi danh dự. Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng cảm kích nhưng đã thề sống chết cũng không bỏ
Linh Phi. Vũ Nương là người sống ân nghĩa, trước sau như một. Tóm lại, trong câu chuyện Vũ Nương là người phụ
nữ xinh đẹp nết na hiền thục đảm đang tháo vát, rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, vị tha bao dung
và sống có tình nghĩa. Nàng đã hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của người phụ nữ xưa và nay “ công, dung, ngôn, hạnh”.
Một thiếu phụ đẹp người đẹp nết như thế trong xã hội bình thường phải được hưởng hạnh phúc
nhưng sống dưới xã hội phong kiến xưa, cuộc đời Vũ Nương vô cùng bất hạnh đắng cay.Trước hết nàng là
nạn nhân của chế độ hôn nhân phong kiến. Cuộc hơn nhân của nàng đâu có xuất phát từ tình yêu mà “ Trương
Sinh xin với mẹ trăm lạng vàng để cưới về...”. Chính vì vậy nàng lấy phải người chồng không tương xứng. Vũ
Nương là người phụ nữ đẹp người đẹp nết, chỉ vì nhà nghèo mà phải chấp nhận lấy một người chồng đa nghi vơ
học và hay ghen. Nàng cịn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Đời làm vợ “ sum họp chưa
thỏa”, “đã chia phơi vì động việc lửa binh”. Trương Sinh ra trận Vũ Nương phải sống cảnh vợ trẻ xa chồng. Những
ngày ở nhà Vũ Nương chờ đợi ngóng trơng chồng như nàng Vọng Phu. Cuộc sống của Vũ Nương đầy những lo
toan vất vả phiền muộn. Ở nhà nàng vừa khắc khoải nhớ thương vừa lo làm lụng sớm khuya nuôi con nuôi mẹ.
Gánh nặng gia đình cùng bao nhiêu nỗi gian nan vất vả trút cả lên đôi vai bé nhỏ yếu đuối của nàng. Mẹ già đau
yếu rồi mất. Con thơ ngây bé dại. Vũ Nương một thân một mình chẳng ai đỡ đần sẻ chia trăm cơng nghìn việc.
Hơn nữa người đọc càng thương cảm hơn khi thấy nàng chính là nạn nhân của tư tưởng nam quyền độc đoán
trong xã hội phong kiến. Nỗi đau khổ lớn nhất của nàng là bị nghi oan thất tiết. Mong mỏi của cả đời nàng chỉ là
thú vui “nghi gia nghi thất”. Nàng gắng sức đi qua nhọc nhằn vất vả để đợi mong một ngày hội ngộ, gia đình đồn
tụ ấm êm. Sau ba năm đợi chờ. Trương Sinh trở về bình n đúng như ước nguyện . Nhưng ối oăm thay lúc chàng
Trương trở về cũng chính là lúc nàng bị kết tội mà khơng được giải thích lí do, oan ức mà không thể thanh minh.
Trương Sinh lạnh lùng tàn nhẫn: mắng nhiếc, đánh đập, xua đuổi bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ , không
tin ai, cũng khơng nói ra dun cớ để vợ có cơ hội được minh oan. Bị bôi nhọ danh dự, nàng phải chọn cái chết để
chứng minh sự trong sạch của mình . Nàng chỉ biết than kêu thống thiết: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu,
chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, xin thần sơng chứng giám cho nỗi oan khuất. Vũ Nương
chết vì tuyệt vọng uất ức và tủi hổ. Cái chết của nàng đã nói lên số phận oan nghiệt và bất hạnh của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến.
Chưa hết cuộc đời Vũ Nương bi kịch lại càng thêm bi kịch. Trương Sinh đã lập đàn giải oan đúng
ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang . Vậy mà Vũ Nương chỉ hiện về và nói vọng vào từ giữa sơng những lời nghẹn
ngào, chua xót, ngậm ngùi: “ Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa...”.Rồi trong chốc lát,
bóng nàng loang lống mờ nhạt dần rồi biến mất làm cho bi kịch càng thêm bi kịch. Tính bi kịch của truyện tiềm
ẩn ngay trong cái lung linh kì ảo này. Lễ giáo phong kiến khắt khe hẹp hịi khơng chấp nhận nàng. Ước ao trở về
mà không thể trở về, khát khao hạnh phúc mà khơng thể nào có được hạnh phúc – đấy phải chăng là bi kịch của Vũ
Nương cũng là bi kịch đau đớn nhất của kiếp người. Điều đó tố cáo xã hội phong kiến sâu sắc. Xã hội ấy không có
chỗ cho những người thủy chung trong trắng như nàng để dung thân.
Bi kịch ấy có nguyên nhân từ đâu? Ttừ người chồng vũ phu vô học ghen tuông mù quáng, độc đoán
chuyên quyền, từ tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến xưa . Vì trọng nam nên xã hội phong kiến
xưa đã tiếp tay cho hành động tăm tối mù quáng của Trương Sinh, dồn dẩy vợ đến chỗ chết mà vẫn vơ can.. Vì
khinh nữ nên người phụ nữ dù xinh đẹp đức hạnh như Vũ Nương cũng không được bảo vệ . Chiến tranh phong kiến
là nguyên nhân sâu xa dẫn đến bi kịch của Vũ Nương. Bởi lẽ khơng có chiến tranh thì làm gì có chia li đau đớn.
Tóm lại Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh nhưng cuộc đời thật bất hạnh. Sống trong xã hội phong kiến bất công,
Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trơi nước”, Thúy Kiều, Đạm
Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trơi dạt, phải tìm đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi
cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ
bằng tiếng kêu đầy ai oán:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Nhân vật Vũ Nương hiện lên sinh động nhờ đặc sắc nghệ thuật . Đó là nghệ thuật dựng truyện giàu
kịch tính với những chỗ thắt nút mở nút bất ngờ mà vẫn hợp lí, cách dẫn dắt tình tiết hợp lí. Truyện thành cơng với
nghệ thuật miêu tả nhân vật thơng qua lời nói đối thoại, lời tự bạch. Ngơn ngữ đối thoại góp phần quan trọng vào
việc khắc họa tính cách nhân vật. Kết hợp yếu tố hiện thực và hoang đường kì ảo, tự sự và tữ tình đã hồn thiện
thêm phẩm chất và số phận của Vũ Nương. Nhà văn với tấm lòng đồng cảm và sự thấu hiểu sâu sắc đã ngợi ca
phẩm giá của người phụ nữ, lên án chế độ nam quyền và chiến tranh phong kiến phi nghĩa, bênh vực và kêu cứu
cho quyền sống hạnh phúc của con người. Những yếu tố đó góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc cho tác phẩm.
“Chuyện người con gái nam xương”là một áng văn hay thành công về mặt dựng truyện ,khắc hoạ nhân vật ,kết
hợp tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn . Truyện đã khơi gợi trong lịng người đọc khơng ít những tình cảm
đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến những người phụ nữ trong
XHPK. Từ một chiếc bóng oan khiên tác phẩm đã gợi ra biết bao điều chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng,về
cách hành xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người. Và có lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng
trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Đề 2: Trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương trong đoạn trích sau:
“...Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng
có chàng Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính đa
nghi, đối với vợ phịng ngừa q sức. Nàng cũng giữ gìn khn phép, khơng từng để lúc nào vợ chồng phải đến
thất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy
con nhà hào phú nhưng khơng có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Buổi ra đi mẹ chàng có
dặn rằng:
-Nay con phải tạm ra tịng qn, xa lìa dưới gối. Tuy hội cơng danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh
cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ
mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.
Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:
-Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin
ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường, giặc
cuồng cịn lẫn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến cho tiện
thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu tàn
rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ khơng có cánh
hồng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước
mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình mn dặm quan san.”
(Chuyện người con gái Nam Xương – SGK Ngữ văn 9 tập 1)
Tham khảo
Tất cả mọi thứ trên thế gian này theo thời gian đều sẽ bị bào mịn và băng hoại chỉ có duy nhất nghệ thuật,
mình nó khơng thừa nhận cái chết. Có những tác phẩm dù trải qua bao nhiêu thế kỉ, qua sự thách thức của dịng
đời, nó vẫn cịn nguyên sức sống của mình. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm như thế. Qua
câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận đau
thương của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến . Đọc tác phẩm này và nhất là phần đầu của tác phẩm,
người đọc sẽ cảm nhận được một cách rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Vũ Nương – nhân vật chính của
truyện.
Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. Ông là người học
rộng tài cao, nhưng sống ẩn dật, thanh khiết. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong
những truyện hay nhất của tập “ Truyền kì mạn lục” , được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì
diệu truyền tới ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngịi bút tài
năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý
nghĩa. . Đoạn trích trên thuộc phần đầu tác phẩm, giới thiệu chung về Vũ Nương, cuộc hôn nhân của nàng và
kể lại việc Vũ Nương tiễn chồng đi lính với lời dặn dị thiết tha tình nghĩa, từ đó thể hiện nổi bật phẩm chất của
nàng.
Trước hết Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, khéo léo, tế nhị, biết
nhún nhường. Điều đó được thể hiện trong lời giới thiệu của của tác giả và trong chính cuộc sống của nàng
với Trương Sinh Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương,
tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Như vậy, chỉ với một câu nói ngắn gọn, Nguyễn Du đã khái
quát một cách đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, nàng không chỉ đẹp về hình thức bên ngồi
mà cịn có một tâm hồn đẹp, ở nàng hội tụ đầy đủ cả công – dung – ngơn – hạnh.Và cũng bởi mến vì dung
hạnh của nàng nên Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới về. Chi tiết này càng tô đậm thêm vẻ đẹp của
Vũ Nương. Nhưng điều đó có nghĩa là ngay ở phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã xây dựng giữa hai nhân
vật này là một sự cách bức. Nếu như Vũ Nương xinh đẹp nết na đức hạnh thì Trương Sinh lại có tính đa nghi.
Trương Sinh lại có cái quyền của một người đàn ơng trong xã hội phong kiến Nam quyền, có quyền của nhà
giàu đã phải bỏ trăm lạng vàng để cưới vợ. Với sự cách bức như thế thì hẳn là cuộc sống của Vũ Nương sẽ gặp
rất nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, Trương Sinh với vợi lại ln phịng ngừa q sức nhưng Vũ Nương ln giữa
gìn khn phép, khơng từng để vợ chồng phải đến thất hịa. Nếu khơng phải là một người phụ nữ khéo léo, tế
nhị thì hẳn là nàng sẽ khơng giữ được hịa khí trong gia đình như vậy.
Khơng chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh , Vũ Nương còn là một người vợ
yêu thồng, một người mẹ thương con và ln khao khát hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp ấy của nàng được
Nguyễn Du làm nổi bật khi Trương Sinh ra trận. Trương Sinh và Vũ Nương cưới nhau chưa được bao lâu thì
Trương Sinh phải ra trận bởi Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng thất học nên phải đi lính vào buổi đầu.
Lúc tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy mà rằng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám
mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi. Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ
tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến thiếp ơm nỗi quan hồi, mẹ già triền miên lo lắng.Nhìn trăng soi
thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất
thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng.”Rõ ràng là trong lời nói của Vũ Nương
ta nhận ra tình cảm tha thiêt mà nàng dành cho chồng. Nàng mong chồng trở về bình n chứ khơng cần công
danh hiển hách. Nàng lo cho nỗi vất vả của chồng nơi chiến trận và dự cảm cả nỗi cô đơn trong những ngày
vắng bóng chồng. Nàng khơng một lời than vãn về những vất vả mà mình sẽ phải gánh vác. Những lời nói của
Vũ Nương cảm động đến mức khiến cho những người xung quanh ai nấy đều ứa hai hàng lệ và có lẽ người đọc
cũng khơng khỏi động lòng. Rồi Trương Sinh ra trận ra trận, Vũ Nương ở nhà nhớ chồng da diết. Nguyễn Dữ
cũng viết về nỗi nhớ ấy của nàng “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn,
mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Bằng một vài hình ảnh ước lệ tượng
trưng, Nguyễn Du đã diễn tả trọn vẹn nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, ngày qua ngày, tháng qua tháng của Vũ
Nương với người chồng nơi chiến trận của nàng. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho
chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cơ đơn vị võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương
cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy
chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.Tấm lịng, tình u thương chồng của Vũ Nương khiến ta nhớ đến
nhân vật chị Dậu trong tiểu thuyết “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố. Dù chỉ là một người phụ nữ nông dân
thấp cổ bé họng nhưng chị đã liều mạng để bảo vệ chồng. Có thể nói rằng tấm lịng thủy chung son sắt, tình
u thương dành cho chồng con chính là những nét chung đẹp đẽ trong tâm hồn của những người phụ nữ Việt
Nam. Vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng.
Nhân vật Vũ Nương hiện lên sinh động nhờ nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Dữ.
Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật thơng qua hành động lời nói kết hợp tài tình giữa tự sự và tữ tình ,cách
kể chuyện tự nhiên, chân thực, đoạn trích đã giúp người đọc cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn ở nhân vật
Vũ Nương. Nàng hiện lên không chỉ là là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, khéo léo tế nhị biết
nhún nhường mà còn là một người vợ thương chồng và thủy chung hết mực. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn
Dữ muốn gửi vào đó lời ngợi ca, trân trọng đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa. Và phải thực sự là
một người luôn trân trọng và cảm thong với số phận và cuộc đời của họ, Nguyễn Dữ mới có được một tác
phẩm độc đáo đến như vậy.
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Chuyện người con gái nam xương” nói chung là một áng văn hay thành
công về mặt dựng truyện ,khắc hoạ nhân vật ,kết hợp tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn . Truyện đã khơi gợi
trong lịng người đọc khơng ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân
trọng, yêu mến những người phụ nữ trong XHPK. Từ một chiếc bóng oan khiên tác phẩm đã gợi ra biết bao điều
chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng,về cách hành xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người. Và có
lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn
còn mãi trong lòng bạn đọc.
Đề 4: Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương qua đoạn trích sau:
“... Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:
- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin
ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thể là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khơn lường. Giặc
cuồng cịn lẩn lút, qn triều cịn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến cho tiện
thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trồng liễu rủ
bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ khơng có cảnh
khơng bay bổng.
Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt
cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lịng người đã nhuộm mối tình mn dặm quan san!
Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đẩy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là
Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn
góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được, bà mẹ cũng vì nhớ con mà dân sinh ổm. Nàng hết sức thuốc thang
lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, song bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết
khơng sống được, bèn trối lại với nàng rằng:
- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. (...) Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt,
con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ..
Bà cụ nói xong thì mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc và cay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ
mình."
Bài làm
Tất cả mọi thứ trên thế gian này theo thời gian đều sẽ bị bào mòn và băng hoại chỉ có duy nhất nghệ thuật,
mình nó khơng thừa nhận cái chết. Có những tác phẩm dù trải qua bao nhiêu thế kỉ, qua sự thách thức của dịng
đời, nó vẫn cịn ngun sức sống của mình. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm như thế. Đọc
tác phẩm này và nhất là phần đầu của tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được một cách rõ nét vẻ đẹp tâm hồn
của nhân vật Vũ Nương – nhân vật chính của truyện. Vẻ đẹp của nàng được hiện lên rõ nét khi nàng khi tiễn
chồng ra trận và trong những ngày Trương Sinh khơng có ở nhà
Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVI. Ông là người
học rộng tài cao, nhưng sống ẩn dật, thanh khiết. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong
những truyện hay nhất của tập “ Truyền kì mạn lục” , được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì
diệu truyền tới ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngịi bút tài năng
của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. .
Đoạn trích trên kể lại việc Vũ Nương tiễn chồng đi lính với lời dặn dị thiết tha tình nghĩa và những ngày đằng
đằng chờ chồng, chăm mẹ ốm đau, từ đó thể hiện nổi bật phẩm chất của nàng.
Trước hết Vũ Nương còn là một người vợ yêu thồng, một người mẹ thương con và ln khao
khát hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp ấy của nàng được Nguyễn Du làm nổi bật khi Trương Sinh ra trận.Trương
Sinh và Vũ Nương cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải ra trận bởi Trương Sinh tuy con nhà hào
phú nhưng thất học nên phải đi lính vào buổi đầu. Lúc tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy mà
rằng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về
mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc qn khó liệu, thế giặc khơn lường.Giặc cuồng còn
lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín q kì, khiến thiếp ơm nỗi quan hồi,
mẹ già triền miên lo lắng.Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang,
lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng.”Rõ
ràng là trong lời nói của Vũ Nương ta nhận ra tình cảm tha thiêt mà nàng dành cho chồng. Nàng mong chồng trở
về bình n chứ khơng cần cơng danh hiển hách. Nàng lo cho nỗi vất vả của chồng nơi chiến trận và dự cảm cả
nỗi cô đơn trong những ngày vắng bóng chồng. Nàng khơng một lời than vãn về những vất vả mà mình sẽ phải
gánh vác. Những lời nói của Vũ Nương cảm động đến mức khiến cho những người xung quanh ai nấy đều ứa
hai hàng lệ và có lẽ người đọc cũng khơng khỏi động lòng. Rồi Trương Sinh ra trận ra trận, Vũ Nương ở nhà
nhớ chồng da diết. Nguyễn Dữ cũng viết về nỗi nhớ ấy của nàng “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi
khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được”. Bằng
một vài hình ảnh ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã diễn tả trọn vẹn nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, ngày qua ngày,
tháng qua tháng của Vũ Nương với người chồng nơi chiến trận của nàng. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ
chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cơ đơn vị võ. Tâm trạng nhớ thương đau
buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy
chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Cùng với tình u thương chồng con, Vũ Nương cịn là một người con dâu hiếu thảo. Xưa nay mối
quan hệ mẹ chồng nàng dâu rất phức tạp. Người xưa thường nói:
Trời mưa ướt lá dai bì
Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu!
Thế nhưng Vũ Nương đã hóa giả được những định kiến ấy. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng
mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà
vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha
mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối
những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng
tươi tốt, con cháu đơng đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lịng con như con đã chẳng phụ mẹ". Những lời nói của
bà cụ hơn hẳn ngàn vạn lời kể của nhà văn. Nó một lần nữa chứng minh rằng Vũ Nương là một người con dâu
hiếu thảo. Sự hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chồng khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều”
của Nguyễn Du – một cơ gái sẵ sang bán thân mình để cứu cha và em. Có thể nói rằng tấm lịng thủy chung hiếu
thảo là nét phẩm chất chung của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đáng để chúng ta trân trọng
và yêu thương.
Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình
gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái.. Tình yêu thương của nàng
dành cho chồng, cho con chính là minh chứng của niềm khát khao hạnh phúc gia đình mà người phụ nữ dù ở
thời nào cũng mong muốn có được.
Tuy có phẩm chất đáng quý như vậy nhưng Vũ Nương có số phận thật đáng thương. Đời làm vợ “
sum họp chưa thỏa”, “đã chia phơi vì động việc lửa binh”. Trương Sinh ra trận Vũ Nương phải sống cảnh vợ
trẻ xa chồng. Những ngày ở nhà Vũ Nương chờ đợi ngóng trơng chồng như nàng Vọng Phu. Cuộc sống của Vũ
Nương đầy những lo toan vất vả phiền muộn. Ở nhà nàng vừa khắc khoải nhớ thương vừa lo làm lụng sớm khuya
nuôi con ni mẹ. Gánh nặng gia đình cùng bao nhiêu nỗi gian nan vất vả trút cả lên đôi vai bé nhỏ yếu đuối của
nàng. Mẹ già đau yếu rồi mất. Con thơ ngây bé dại. Vũ Nương một thân một mình chẳng ai đỡ đần sẻ chia trăm
cơng nghìn việc.
Nhân vật Vũ Nương hiện lên sinh động nhờ nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc. Nghệ thuật
khắc họa tính cách nhân vật thơng qua hành động lời nói kết hợp tài tình giữa tự sự và tữ tình ,cách kể chuyện tự
nhiên, chân thực, đoạn trích đã giúp người đọc cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn ở nhân vật Vũ Nương.
Nàng hiện lên không chỉ là là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, khéo léo tế nhị biết nhún nhường
mà còn là một người vợ thương chồng và thủy chung hết mực. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ muốn gửi
vào đó lời ngợi ca, trân trọng, cảm thông sâu sắc đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa..
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm “Chuyện người con gái nam xương” nói chung là một áng văn hay thành
cơng về mặt dựng truyện ,khắc hoạ nhân vật ,kết hợp tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn . Truyện đã khơi
gợi trong lịng người đọc khơng ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn,
thêm trân trọng, yêu mến những người phụ nữ. Từ một chiếc bóng oan khiên tác phẩm đã gợi ra biết bao điều
chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng,về cách hành xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người.
Và có lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong đoạn trích sau:
...Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ qua đời,
con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ khơng chịu, ra đến đồng, nó quấy
khóc. Sinh dỗ dành:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lịng cha buồn khổ lắm rồi.
Đứa con ngây thơ nói:
- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ơng lại biết nói, chứ khơng như cha tơi trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi,
nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra
được.
Về đến nhà, chàng la um cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:
- Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi vì động
việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa
chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong
chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại giấu khơng kể lời con nói; chỉ lấy chuyện
bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng,
cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:
- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa
tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xn cái én lìa đàn, nước thẳm
buồm xa, đâu cịn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sơng
có linh xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mị
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho
cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói xong nàng gieo mình xuống sơng mà chết...”
(“Chuyện người con gái Nam Xương” - Nguyễn Dữ, Ngữ văn 9, tập I, NXB Giáo dục Viết Nam, 2019)
I.MỞ BÀI:
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng khoảng, các tập
đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ơng ra làm quan khơng lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời
gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số
hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác
phẩm vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả. Đọc tác phẩm này người
đọc không khỏi ấn tượng với nhân vật Vũ Nương nhất là qua đoạn trích trên.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng
văn được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. - Truyện được viết từ
cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngịi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên
“Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái
chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận đau thương của những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Truyện có sức hấp dẫn người đọc bởi các chi tiết đắt giá, các yếu tố hoang
đường kì ảo
*Tóm tắt
Chuyện kể về Vũ Nương, q ở Nam Xương đẹp người đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh – con nhà giàu,
ít học, tính đa nghi, cả ghen. Gia đình đang yên ấm hạnh phúc thì chàng Trương phải đi lính. Ở nhà, Vũ
Nương sinh được con trai đặt tên là Đản. Nàng chăm sóc con và mẹ chồng chu đáo, lo thuốc thang, cầu
khấn thần Phật khi mẹ chồng ốm, lo ma chay chu tất khi mẹ chồng mất. Khi trở về, Trương Sinh nghe theo
lời con trẻ nghi ngờ vợ phản bội. Vũ Nương một mực phân trần, giải thích nhưng Trương Sinh khơng nghe,
thậm chí cịn mắng nhiếc đánh đuổi đi. Vũ Nương khơng minh oan được bèn trẫm mình xuống sơng Hồng
Giang tự vẫn. Nàng không chết do được các nàng tiên cứu. Dưới thuỷ cung, tình cờ nàng gặp người cùng
làng là Phan Lang. Nghe kể chuyện nhà, Vũ Nương rơm rớm nước mắt và muốn trở về dương gian. Phan
Lang về nói với Trương Sinh, chàng Trương hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương trở về lộng lẫy,
rực rỡ giữa dịng sơng, nói với chồng vài lời cảm tạ rồi biến mất.
2. Phân tích nhân vật Vũ Nương
a. Ở phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Dữ đã cho người đọc thấy được ở nhân vật Vũ Nương là rất
nhiều những phẩm chât tốt đẹp. Nàng xinh đẹp, nết na, yêu chồng, thương con, hiếu thảo. Với những
phẩm chất đẹp đẽ ấy, nàng xứng đáng có được một cuộc đời hạnh phúc nhưng có ai ngờ nàng lại bị
chính người chồng của mình đẩy vào một nỗi oan nghiệt ngã. Ngày Trương Sinh trở vể cũng là lúc bi
kịch cuộc đời nàng xảy ra. Câu chuyện của bé Đản, đứa con trai vừa lên ba tuổi, về “ một người đàn ông
đêm nào cũng đến” đã làm cho Trương Sinh nghi ngờ. Với bản tính hay ghen cộng thêm tính gia trưởng,
thất học, Trương Sinh đối xử với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “ mắng nhiếc
nàng và đánh đuổi đi” mặc cho Vũ Nương hết sức phân trần, mặc cho “hàng xóm can ngăn cũng chẳng ăn
thua gì”. Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ, Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng
trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận
và tấm lịng của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum
họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son
điểm phấn từng đã ngi lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời
chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.” Lời nói
của nàng thật khiến ta cảm động. Nàng thanh minh, giải thích là để chứng minh cho tấm lịng trong sạch
của mình, để chồng thấu hiểu những tình cảm của nàng bấy lau nay. Nàng muốn níu kéo và hàn gắn hạnh
phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ, nàng ko muốn bé Đản phải sống trong cảnh cha mẹ chia lìa, khơng
muốn vợ chồng mỗi người một ngả Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng
chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Đọc đến
đây, người đọc thấy vơ cùng xót xa phẫn nộ vì vơ cớ Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời, bế tắc không thể
trông dựa vào đâu, phải tự thanh minh để cầu xin sự thấu hiểu của Trương Sinh mà khơng được. Thật khơng
ngờ được rằng một cái bóng vơ hình có thể đẩy nàng vào nỗi oan nghiệt ngã. Từ những lời thanh minh,
giải thích ấy của nàng ta nhận ra Vũ Nương là một người phụ nữ luôn khao khát hạnh phúc gia đình.
Điều đó thật đáng trân trọng.
b. Giải thích, minh oan ko được, nàng đành tìm đến cái chết để tự giải thốt cho chính mình. Trước
khi chết, Vũ Nương đã tắm gội chay sạch rồi mới ra bến sơng Hồng Giang. Chi tiết này tưởng như ko
có gì đáng chú ý. Nhg nó đã cho thấy Vũ Nương không hề vội vã với quyết định của mình. Nàng vì quá
phẫn uất, quá tuyệt vọng nên mới phải tìm đến cái chết để tự giải thốt cho mình. Và dù có phải chết , nàng
muốn rửa gột tất cả những oan ức, những nhuốc nhơ mà người chồng đã phủ lên danh dự của nàng. Chỉ
một chi tiết ấy thôi nhưng cũng đủ cho thấy Vũ Nương là một người phụ nữ rất trọng danh dự, trọng nhân
phẩm. Và trước khi trẫm mình xuống sơng, nàng đã ngửa mặt lên trời mà than rằng: “ Kẻ bạc mệnh
này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin
ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương,
xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá
tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ. Lời nói của nàng chẳng khác nào
một lời thề, một lời khẳng định sống cũng như chết nàng sẽ luôn là một người trinh trắng, trong sạch, luôn
là một người vợ đoan trang chung thuỷ. Lời thề của nàng trước dòng sơng chính là lời nguyền của những
người phụ nữ bị oan khuất trong xã hội phong kiến. Sau lời thề đó là hành động tự vẫn của nàng. Hành
động của nàng thật quyết liệt đã đẩy câu chuyện đến độ cao trào và kịch tính.Vũ Nương đã tìm đên cái chết
để bảo toàn danh dự. Cái chết thể hiện sự bế tắc về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nam
quyền. Nàng đã chọn cái “chết vinh” thay vì “sống nhục”, chọn cái chết để tự chứng minh cho tấm lịng
trong sạch của mình, để tự giải thốt cho mình khỏi nỗi oan nghiệt ngã. Quyết định ấy chính là minh chứng
cho một con người trọng danh dự, trọng nhân phẩm.
Vậy nguyên nhân nào đã đẩy Vũ Nương đến cái chết? Phải chăng mầm mống của bi kịch chính là
cuộc hơn nhân của nàng là gả bán, khơng bình đẳng? Trong cuộc hơn nhân ấy, nàng như một cánh bèo trơi
giữa dịng đời. Nàng bơ vơ bế tắc, khơng thể về với bố mẹ đẻ vì nếu về với tội danh như vậy làm nhơ nhuốc
bố mẹ, là bất hiếu. Hơn nữa, nàng lại là một người phụ nữ trọng danh dự, nàng không muốn dựa dẫm vào
ai, lại càng khơng muốn bản thân mình và con trai chịu tiếng nhuốc nhơ cả đời. Nàng bị chính người chồng
của mình nghi oan là phản bội nên mối quan hệ vợ chồng không thể hàn gắn. Nàng vì quá oan ức nên phải
tìm đến cái chết. Nhưng có lẽ nguyên nhân sâu xa hơn cả khiến nàng phải chết là bởi cái xã hội phong kiến
nam quyền với Tư tưởng trọng nam khinh nữ, với thói gia trưởng, sự đơc đốn chun quyền của người
đàn ơng. Cái xã hội thối nát, bất công ấy đã không cho nàng được cất lên tiếng nói của mình và cái chết
đến với nàng là một kết cục tất yếu. Qua cái chết của VN, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm rất nhiều điều
Cái chết của nàng chính là lời tố cáo xã hội phong kiến đã dung túng cho cái ác xấu xa, tàn bạo; là lời cảnh
tỉnh cho những kẻ đa nghi, hồ đồ độc đoán. Nàng chọn cái chết chính là sự chối bỏ hồn tồn của nàng
nói riêng, của người phụ nữ nói chung đối với xã hội phong kiến . Cái chết ấy đã cất lên tiếng nói địi quyền
sống cho những người phụ nữ trong cái xã hội phong kiến đầy bất công.
Đoạn truyện thành công với nghệ thuật miêu tả nhân vật thơng qua lời nói đối thoại, lời độc thoại tự
bạch, góp phần quan trọng vào việc khắc họa tính cách nhân vật. Bằng việc sử dụng linh hoạt ngôn ngữ
trần thuật, lời văn giàu tính ước lệ - (lời văn biền ngẫu), kết hợp giữa miêu tả hành động và ngơn ngữ của
nhân vật, đoạn trích đã cho người đọc nhận ra nỗi oan nghiệt và kết cục đầy bi thương, bất hạnh của nhân
vật VN. Và cũng từ đó ta nhận ra ở nàng rất nhiều những phẩm chất tốt đẹp. Nàng chính là hình ảnh đại
diện của những người phụ nữ trong xã hội xưa – những con người dù cho cuộc sống có nhiều trái ngang,
bất hạnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất vô cùng đẹp đẽ. Qua đoạn trích, người đọc thấy được tấm
lịng yêu mến, trân trọng của tác giả Nguyễn Dữ dành cho những người phụ nữ trong xã hội xưa. Trong xã
hội hiện đại, người phụ nữ đã khẳng định vị thế nhưng vẫn cịn phải chịu nhiều bất cơng, thiệt thịi (bị bạo
hành, bóc lột, lạm dụng...). Để hạnh phúc, người phụ nữ phải ln cố gắng hồn thiện bản thân, độc lập,
tự chủ và nỗ lực đấu tranh đạt đến sự bình đẳng. Nhưng dù ở xã hội nào, dù cc đời và số phận có ra sao
thì họ vẫn xứng đáng để ta yêu thương và trân trọng.
Có thể nói trong “Chuyện người con gái Nam Xương” thì đoạn trích trên là một trong những
đoạn truyện hay và cảm động nhất. Đoạn trích đã khơi gợi trong lịng người đọc khơng ít những tình cảm
đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến, xót xa, thương cảm
cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Từ hình ảnh của nhân vật Vũ Nương, tác giả muốn nhắc
nhở chúng ta cần biết trân trọng và yêu thương những người phụ nữ ngay chính xung quanh mình. Và có
lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Đề 4: Cảm nhận của em về đoạn trích sau:
“Phi bèn đặt yến ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang. Dự tiệc hơm ấy có vơ số những mĩ nhân, quần
áo thướt tha, mái tóc búi xễ. Trong số đó, có một người mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trơng rất
giống Vũ Nương. Phan có ý nhìn trộm, nhưng khơng dám nhận. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan
Lang rằng:
- Tơi với ơng vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?
Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương và gạn hỏi duyên cớ. Nàng nói:
- Tôi ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sơng tự tử. Các nàng tiên trong cung
nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tơi thốt chết, nếu khơng thì đã vùi vào bụng cá, cịn đâu
mà gặp ơng.
Phan nói:
- Nương Tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước. Nay thóc
cũ khơng cịn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?
Vũ Nương nói:
- Tơi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta
nữa!
Phan nói:
- Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai rợp mắt.
Nương tử dù khơng nghĩ đến, nhưng tiên nhân cịn mong đợi nương tử thì sao?
Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:
- Có lẽ khơng thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ gầm gió
bắc, chim Việt đậu cành nam. Cản vì nỗi ấy, tơi tất phải tìm về có ngày.
Hơm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan
ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:
- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu cịn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông,
đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.
Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không tin. Nhưng khi nhận được
chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói:
- Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi.
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên
một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dịng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy
sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dịng mà nói vọng vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về
nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang lống mờ nhạt dần mà biến đi mất.”
Bài làm
Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng khoảng, các tập
đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm quan khơng lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời
gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số
hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác
phẩm vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả. Trong tác phẩm này những
chi tiết ở phần cuối truyện đã để lại nhiều tấn tượng trong lòng bạn đọc
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng
văn được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. - Truyện được viết từ
cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngịi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên
“Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái
chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận đau thương của những người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Truyện có sức hấp dẫn người đọc bởi các chi tiết đắt giá, các yếu tố hoang
đường kì ảo
Chuyện kể về Vũ Nương, quê ở Nam Xương đẹp người đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh – con
nhà giàu, ít học, tính đa nghi, cả ghen. Gia đình đang n ấm hạnh phúc thì chàng Trương phải đi lính. Ở
nhà, Vũ Nương sinh được con trai đặt tên là Đản. Nàng chăm sóc con và mẹ chồng chu đáo, lo thuốc thang,
cầu khấn thần Phật khi mẹ chồng ốm, lo ma chay chu tất khi mẹ chồng mất. Khi trở về, Trương Sinh nghe
theo lời con trẻ nghi ngờ vợ phản bội. Vũ Nương một mực phân trần, giải thích nhưng Trương Sinh khơng
nghe, thậm chí cịn mắng nhiếc đánh đuổi đi. Vũ Nương không minh oan được bèn trẫm mình xuống sơng
Hồng Giang tự vẫn. Nàng khơng chết do được các nàng tiên cứu. Dưới thuỷ cung, tình cờ nàng gặp người
cùng làng là Phan Lang. Biết việc Phan Lang được trở về, Vũ Nương đã gửi tín vật nhắn Trương Sinh lập
đàn giải oan cho nàng. Cuối cùng Vũ Nương trở về lộng lẫy, rực rỡ giữa dịng sơng, nói với chồng vài lời
cảm tạ rồi biến mất.
Đoạn trích là sự sáng tạo của Nguyễn Dữ so với sự tích “Vợ chàng Trương”. Nguyễn Dữ đã vô
cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của mình. Tin tưởng và yêu mến nhân
vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum
vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng những tâm hồn trong đẹp. Các sự việc trong đoạn
trích tiếp tục cho ta nhận ra vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương đồng thời đem đến cho người đọc những cảm
nhận sâu sắc, những bài học trong cuộc sống của chính mình.
Trước hết, qua cuộc gặp gỡ trị chuyện giữa Vũ Nương với Phan Lang dưới thủy cung ta thấy Vũ
Nương là một người phụ nữ trọng danh dự. Sau khi được các tiên nữ cứu sống và cho sống dưới thủy cung,
Vũ Nương tình cờ gặp Phan Lang – một người cùng làng với nàng cũng được Linh Phi cứu trong một lần
đắm thuyền ở biển. Họ có một cuộc trị chuyện ngắn ngủi nhưng qua cuộc trò chuyện ấy, người đọc vẫn
thấy được những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Vũ Nương. Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn
một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ. Nghe Phan lang kể về chuyện gia
đình mình, nàng đã khơng kìm được mà ứa nước mắt xót thương. Khơng phải Vũ Nương không muốn trở
về, nàng chắc chắn rất muốn được gặp con, gặp người thân của mình nhưng nghĩ đến việc bị chính người
chồng của mình nghi ngờ ruồng rẫy, nàng lại ko còn mặt mũi nào để trở về được nữa. Với nàng, danh dự
là điều mà không gì có thể đánh đổi được. Nàng đã từng chọn cái chết để chứng mĩnh cho tấm lòng trong
sạch của mình, đã từng mang cả sinh mệnh quý giá của mình để thề với trời đất thì giờ đây làm sao nàng
có thể dễ dàng quên được nỗi oan ức ấy. Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự nên đã gửi chiếc
thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình. Có thể thấy rằng dù đã có cuộc
sống mới, khơng cịn khổ đau, bất hạnh nhưng nàng vẫn muốn được giải oan, được gột sạch cái tiếng nhuốc
nhơ mà nàng đã từng phải gánh chịu. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi của Vũ Nươngvới Phan Lang tiếp tục cho
ta thấy được những phẩm chất đẹp đẽ trong tâm hồn của người phụ nữ đa đoan bất hạnh. Qua cuộc trò
chuyện ta thấy Vũ Nương là một người phụ nữ trọng danh dự.
Vũ Nương là người trọng tình, trọng nghĩa nên dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng
vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi. Sau đó Phan Lang được đưa về trần gian, Phan đến gặp
Trương Sinh để kể rõ sự tình. Nghe Phan Lang kể chuyện gặp vợ cùng với việc nhận được tín vật, Trương
Sinh đã quyết định lập đàn giải oan cho vợ mình. Ở phần cuối truyện, ta thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc
kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn,
lúc hiện. Số phận oan trái, đắng cay của nàng được thể hiện ngay trong chi tiết mang vẻ đẹp lung linh, kì
ảo nơi khói sóng Hồng Giang. Cái vẻ đẹp lung linh, lộng lẫy đến đâu cũng không thể khỏa lấp được sự
thật là nàng ẩn mình ở chốn khơng có thực, rồi khói hương của đàn tràng giải oan dẫu có nghi ngút khói
sương cũng khơng xố nhồ được khoảng cách âm dương đơi ngả, vợ chồng chia lìa, mẹ con xa cách.
Khoảnh khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sơng Hồng Giang, Vũ Nương khơng một lời ốn hận, trách móc:
“Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” cho thấy Vũ Nương không chỉ là người
phụ nữ đức hạnh, người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với người
chồng đã đẩy đến bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam thảo hiền,
đức hạnh. Nhưng nàng là người trọng tình, trong nghĩa nên dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn
tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.
Tuy nhiên, điều khiến cho đoạn trích này trở nên hấp dẫn không phải chỉ bởi giá trị nội dung của nó
mà nó cịn hấp dẫn chính là nhờ yếu tố kì ảo, hoang đường. Những chi tiết này đã phủ lên câu chuyện
một lớp sương mờ hư ảo, kỳ quái, đậm chất dân gian, làm cho câu chuyện trở nên lung linh kỳ ảo,
tạo nên sự tò mị, hấp dẫn, lơi cuốn cho người đọc. Các chi tiết kỳ ảo có vai trị thúc đẩy kết cấu truyện
phát triển, giúp nhà văn triển khai được câu chuyện và đạt được mục đích nghệ thuật của mình.
Khơng chỉ thế các chi tiết kỳ ảo này cịn góp phần hồn thiện tính cách và nhân phẩm của nhân vật.
Vũ Nương trở về trực tiếp nói lời từ biệt cuối cùng. Nàng hãy còn lưu luyến trần gian nhưng nàng khơng
trở về được nữa vì thế gian này đâu cịn chỗ nào để người hiền lành, thủy chung và đức hạnh như nàng
dung thân được nữa. Trương Sinh vì thế mà cũng tỏ ra là người biết hối lỗi, khát khao hạnh phúc trong
muộn màng. Nguyễn Dữ thực sự đã rất thành công trong việc sử dụng, sắp xếp hài hoà giữa yếu tố kỳ ảo
và hiện thực. Các yếu tố kỳ ảo được đưa vào xen kẽ với những yếu tố thực vể địa danh, về thời điểm lịch
sử, nhân vật và sự kiện lịch sử, những chi tiết thực về trang phục của các mĩ nhân, về tình cảnh nhà Vũ
Nương khơng người chăm sóc sau khi nàng mất… làm cho thế giới kỳ ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với
cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. Mặt khác các chi tiết kỳ
ảo cũng làm tăng thêm giá trị hiện thực và nhân đạo cho tác phẩm. Đó là tiếng nói bênh vực con
người, là minh chứng cho đạo lý ở hiền gặp lành của nhân gian. Chi tiết này thể hiện ước mơ thầm kín
của Nguyễn Dữ trong việc “tích thiện phùng thiện”: Vũ Nương ở hiển, chịu đau khổ tủi nhục nhưng rồi
sẽ được đền đáp xứng đáng. Chi tiết này cũng giúp hồn thiện tính cách của Vũ Nương, làm hồn chỉnh
thêm nét đẹp vốn có của nàng: nặng tình, nặng nghĩa, quan tầm đến chồng con, phẩn mộ tổ tiên, khao khát
được phục hồi danh dự. Cách kết thúc truyện – Vũ Nương hiện về đẹp lộng lẫy, huyền ảo rồi biến mất – thể
hiện ước mơ về công bằng của người phụ nữ và cũng là của chính tác giả: Vũ Nương được giải oan,
sống trong nhung lụa giàu có và được bất tử nơi thuỷ cung.
Chi tiết kỳ ảo cuối truyện làm cho người đọc nghĩ về một cái kết có hậu nhưng thực ra nó ẩn
chứa bi kịch bên trong. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương
chia hai đôi ngả, hạnh phúc vĩnh viễn rời xa. Hạnh phúc gia đình, thiên chức làm mẹ của Vũ Nương đã mã
mãi bị tước đoạt. Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ để trở vê’
cõi thực, rằng Vũ Nương không thể trở về hưởng hạnh phúc nơi dương gian được nữa. Sự ân hận muộn
màng của người chồng hay đàn tràng giải oan đều không cứu vãn được hạnh phúc cho người phụ nữ. Đây
là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại dư vị ngậm ngùi trong lịng người đọc và là bài học thấm thìa về giữ
gìn hạnh phúc gia đình.
Bằng việc sử dụng linh hoạt ngơn ngữ (trần thuật và đối thoại) giàu tính ước lệ - (lời văn biền ngẫu),
kết hợp miêu tả hành động; dùng nhiều điển tích, điển cố, sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và hoang đường
kì ảo, tự sự và tữ tình đã hồn thiện thêm phẩm chất và số phận của Vũ Nương. Đoạn trích đã cho ta thấy
được vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương – một người phụ nữ vị tha, bao dung, trọng ân nghĩa, trọng danh dự.
Tuy nhiên đằng sau những phẩm chất tốt đẹp ấy, đằng sau cái kết lung linh kì ảo mà tác giả tạo ra, ta vẫn
phải xót xa mà thừa nhận những khổ đau, những bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu. Vũ Nương có
nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuối cùng vẫn k thể trở về mà phải gửi mình ở cõi hư vơ. Qua đoạn trích,
người đọc thấy được tấm lịng u mến, trân trọng, niềm tương cảm xót ca của tác giả Nguyễn Dữ dành
cho những người phụ nữ trong xã hội xưa Trong xã hội hiện đại, người phụ nữ đã khẳng định vị thế nhưng
vẫn cịn phải chịu nhiều bất cơng, thiệt thịi (bị bạo hành, bóc lột, lạm dụng...). Để hạnh phúc, người phụ
nữ phải ln cố gắng hồn thiện bản thân, độc lập, tự chủ và nỗ lực đấu tranh đạt đến sự bình đẳng. Nhưng
dù ở xã hội nào, dù cc đời và số phận có ra sao thì họ vẫn xứng đáng để ta yêu thương và trân trọng.
Có thể nói trong “Chuyện người con gái Nam Xương” thì đoạn trích trên là một trong những
đoạn truyện hay và cảm động nhất. Đoạn trích đã khơi gợi trong lịng người đọc khơng ít những tình cảm
đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến, xót xa, thương cảm
cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Từ hình ảnh của nhân vật Vũ Nương, tác giả muốn nhắc
nhở chúng ta cần biết trân trọng và yêu thương những người phụ nữ ngay chính xung quanh mình. Và có
lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn
Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Đề bài: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng áo vải Quang Trung qua hồi thứ 14
của tác phẩm “ Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngơ gia văn phái.
Bài làm
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao cơng trình.
( Ngọc Hân)
"Áo vải cờ đào" đã thành biểu tượng ca ngợi Quang Trung, người con ưu tú của dân tộc, nhân vật chính của tác
phẩm “ Hồng Lê nhất thống chí”. Đó là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán được viết theo thể chương
hồi do nhóm tác giả Ngơ gia văn phái ( Ngơ Thì Chí, Ngơ Thì Du...) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng,
vừa phản ánh được sự thối nát suy tàn của triều đình Lê -Trịnh, vừa phản ánh được sự phát triển của phong tào
Tây Sơn. Đặc biệt trong hồi thứ 14 của tác phẩm, hình tượng người anh hùng Quang Trung hiện lên thật cao đẹp
với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người.
Đoạn trích hồi thứ 14 đã tái hiện một sự kiện lịch sử trọng đại là cuộc tiến quân thần tốc ra Thăng Long và chiến
thắng vĩ đại của quân ta dưới sự chỉ huy của Quang Trung. Trong đoạn trích, Quang Trung hiện lên là một
vị tướng lĩnh quân sự xuất sắc, phi thường, được coi là vị anh hùng trẻ tuổi làm vẻ vang rạng ngời cho lịch sử dân
tộc Việt Nam.
Trước hết Quang Trung là một con người hành động với tính cách mạnh mẽ, quyết đốn. Từ đầu đến cuối
đoạn trích, trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ ln luôn thể hiện là con người hành động một cách xơng xáo,
giải quyết nhanh gọn và có chủ đích và rất quả quyết. Điều đó thể hiện qua từng thái độ, từng hành động của nhân
vật. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao
núng, chỉ “giận lắm”,” và “định thân chinh cầm quân đi ngay”.Chỉ trong vòng thời gian ngắn, Nguyễn Huệ đã
làm rất nhiều việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngơi hồng đế để “chính vị hiệu”,”giữ lấy lịng người”, tự mình “đốc
suất đạo binh” ra Bắc, tìm gặp người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp để hỏi kế sách, tuyển mộ quân sĩ
và “mở cuộc duyệt binh lớn” ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ.Tất cả kế hoạc, chuẩn bị đối phó với giặc Thanh đều
do một mình ơng vạch ra và tiến hành thực hiện.
Đó cịn là một con người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trước thời cuộc. Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh
do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước
ngàn cân treo sợi tóc, Nguyễn Huệ quyết định lên ngơi hồng đế để chính danh vị lấy niên hiệu là Quang
Trung. Việc lên ngơi đã được tính kĩ với mục đích thống nhất nội bộ hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “ để yên
lòng kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ. Quang Trung đặc biệt sáng suốt trong việc phân
tích tình hình thời cuộc, thế tương quan giữa ta và địch. Trong lời phủ dụ quân sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ
An, Nguyễn Huệ đã khẳng định chủ quyền của dân tộc(“đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, người phương
Bắc khơng phải nịi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”) . Ơng cịn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta, lên
án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của quân Thanh, nêu bật dã tâm của chúng. Quang Trung đã khích
lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập của
cha ơngtừ ngàn xưa như: Đinh Tiên Hồng, Lê Đại Hành, Trưng Nữ Vương, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi. ..Kêu gọi
quân lính đồng tâm hiệp lực đánh đuổi giặc ngoại xâm. Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về
nước có thể làm cho một số người phù Lê “ thay lịng đổi dạ với mình” nên ông đã đề ra kỉ luật nghiêm khắc:
Chớ có quen thói cũ ăn ở hai lịng, nếu như việc phát giác sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”. Lời
phủ dụ có thể xem như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ phong phú, sâu xa, nó tác động, kích thích lịng u nước,
ý chí quật cường của dân tộc. Ngay cả khi khơng vừa lịng thuộc cấp, ông vẫn chọn được cách nhắc nhở tế nhị
nhất, thấm thía nhất, mà khơng hề "đao to búa lớn". Đó là sự sáng suốt trong việc xét đốn và dùng người. Điều
này thể hiện rõ qua cách xử trí vừa có lí vừa có tình với các tướng sĩ trong dịp hội quân ở Tam Điệp qua lời nói
của Quang Trung với Sở và Lân. Ơng hiểu rất rõ việc rút quân của các tướng sĩ này. Đúng ra thì qn thua tại
tướng, nhưng ơng hiểu tường tận năng lực của bề tơi sức mình ít khơng địch nổi đội quân hùng tướng hổ của nhà
Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long để bảo toàn lực lượng. Như vậy Sở và Lân còn được ngợi khen. Đối
với Ngơ Thì Nhậm ơng đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sư “đa mưu túc trí”. Việc Sở và Lân rút chạy
Quang Trung cũng đoán là do nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng vừa gây cho địch sự chủ quan. Ơng
đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao. Tất cả đó đủ để chứng tỏ một
trí tuệ mẫn tiệp xuất chúng của Quang Trung.
Người anh hùng Nguyễn Huệ cịn có ý chí quết chiến quyết thắng và tầm nhìn xa trơng rộng. Mới khởi binh,
chưa lấy được tấc đất nào, vậy mà Quang Trung đã tuyên bố chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã
có sẵn”, “Chẳng qua mươi ngay có thể đuổi được người Thanh”. Biết trước kẻ thù “lớn gấp mười nước mình”, bị
thua một trận “ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù” khiến việc binh đao khơng bao giờ dứt nên Nguyễn Huệ cịn
tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng để có thời gian “yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”, làm cho nước
giàu quân mạnh. Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới ta hịa bình.
Đối với địch thường thì biết là thắng việc binh đao khơng thể dứt ngay được vì sỉ nhục của nước lớn cịn đó. Nếu
“chờ mười năm nữa ta được yên ổn mà nuối dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu qn mạnh thì ta có sợ gì
chúng”.
Quang Trung là vị tướng có tài dụng binh như thần, tài thao lược của nhà vua quả là hơn người. Trước
hết là tài năng trong việc chỉ huy cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn. Ngày 25 tháng Chạp xuất
quân từ Phú Xuân(Huế), ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350km qua núi , qua đèo. Đến Nghệ An, vừa
tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vịng một ngày. Hơm sau, tiến qn ra Tam Điệp(cách
khoảng 150km). Và đêm 30 tháng Chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Quân tướng đi như
bay trong đêm, qua rừng rậm, cánh đồng, làng mạc. Mà tất cả đều là đi bộ. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng
hơn 150km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà đến ngày mồng 5 đã thắng trận Ngọc Hồi. Cuộc hành quân thần
tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Kế hoạch vạch định từ 25 tháng chạp đến
mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trên thực tế, đã thực hiện kế hoạch sớm hơn hai ngày: trưa mồng
5 đã vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi, rã rời, nhưng nghĩa binh Tây
Sơn “cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề”,”từ quân đến tướng, hết thảy cả năm đạo qn đều vâng mệnh lệnh, một lịng
một chí quyết chiến quyết thắng”. Đó là nhờ tài năng quân sự lỗi lạc ở người cầm quân: hơn một vạn quân mới
tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
Thêm vào đó, người tổ chức các trận đánh hợp lí, ít hao tổn binh lực, trận Hà Hồi chỉ bắc loa truyền gọi, cho quân
lính thay phiên nhau dạ ran đã khiến quân giặc sợ hãi xin hàng mà không cần đánh. Trận Ngọc Hồi sử dụng ván
che, hạn chế tới mức thấp nhất thương vong cho quân sĩ. Quả thật là con người với tài cầm quân xuất quỷ nhập
thần, bách chiến, bách thắng.
Xuất hiện trong đoạn trích ấn tượng nhất là hình ảnh vị anh hùng lẫm liệt trong chiến trận.Vua Quang
Trung thân chinh cầm qn khơng phải chỉ trên danh nghĩa. Ơng làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự vừa hoạch
định chiến lược, sách lược,vừa thân chinh cầm quân ra trận, vừa trực tiếp tổ chức quân sĩ, bài binh bố trận, rồi tự
mình thống lĩnh một mũi tiến cơng, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha nơi trận tiền. Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị
tổng chỉ huy này nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận thật đẹp thắng áp đảo kẻ thù. Đánh trận Hà Hồi nửa
đêm ngày mông 3 tháng giêng, vua cho người bắt hết quân do thám của địch, bất ngờ, nhanh gọn, không mất giọt
máu nào. Vua bắc loa truyền gọi, cho quân lính thay phiên nhau dạ ran, làm cho lính trong đồn ai nấy đều rụng
rời mà nhanh chóng xin hàng.Mờ sáng ngày mồng 5 đánh trận Ngọc Hồi vua cho quân sĩ lấy ván ghép phủ rơm
dấp nước làm mộc che, rồi dàn trận chữ nhất tiến đánh nên quân Thanh bắn ra chắng trung người nào. Dưới sự
chỉ huy cửa nhà vua khi giáp lá cà , nghĩa quân Tây Sơn đã quăng ván xuống đất cầm dao chém bừa khiến qn
giặc khơng kịp trở tay...Khí thế đội qn làm cho kẻ thù khiếp vía. Hình ảnh người thủ lĩnh ấy đã làm quân sĩ nức
lòng, tạo niềm tin quyết chiến quyết thắng, đồng thời khiến kẻ thù kinh hồn bạt vía, rơi vào cảnh đại bại nhanh
chóng. Ngịi bút trần thuật như thần làm nổi bật hình ảnh vị vua cưỡi voi tả đột hữu xung, trong “ khói tỏa mù
trời, cách gang tấc khơng thấy gì” , chỉ nổi bật màu áo bào đỏ đã sạm đen khói súng .Quang Trung quả là con
người văn võ toàn tài, trí dũng vơ song. Hình ảnh người anh hùng đã được khắc họa đậm nét với tính cách quả
cảm, mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến cơng
vĩ đại
Hình ảnh Nguyễn Huệ được khắc họa rất thành công nhờ các biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Truyện được
ghi chép theo đặc điểm của thể chí, phản ánh hiện thực rất khách quan nhưng không thuật lại một cách khô
khan mà sáng tạo nhiều chi tiết nghệ thuật sinh động độc đáo. Trình tự kể theo diễn biến các sự kiện lịch sử.,
vừa chính xác vừa sống động. Lời văn vừa đảm bảo tính khách quan vừa thích hợp với việc thể hiện thái độ chủ
quan của tác giả với nhiều cung bậc sắc thái cảm xúc.Việc kể chuyện xen lẫn phương thức miêu tả khiến các sự
việc và nhân vật lịch sử hiện lên hết sức cụ thể sinh động. Giọng điệu trần thuật độc đáo, kể chuyện xen lẫn miêu
tả chi tiết, cụ thể đơi chỗ đan xen bình luận, nhận xét, gây ấn tượng mạnh, Xây dựng thành công nhân vật qua
chọn lọc và tô đậm về ngôn ngữ, hành động.Các nhà văn là người rất có cảm tình với nhà Lê nhưng lại phản ánh
ghi chép rất trung thực hình ảnh Nguyễn Huệ. Khơng những vậy trong khi miêu tả họ cịn thể hiện thái độ ngợi
ca trân trọng bởi Nguyễn Huệ là nhân vật kiệt xuất, một thiên tài thực sự.
Tóm lại đoạn trích đã khắc họa rất thành cơng hình ảnh Nguyễn Huệ một con người quả cảm
mạnh mẽ, có tấm lòng yêu nước thiết tha cháy bỏng. Các nhà văn đã tạc vào văn học Việt Nam một tượng đài
sừng sững uy nghi về người anh hùng Nguyễn Huệ. Hình tượng ấy đã để lại trong lịng người niềm tự hào cảm
phục và biết ơn vô cùng. Mãi mãi đến mai sau nhân dân ta vẫn sẽ còn khắc ghi trong lịng hình ảnh đẹp đẽ của
nhà vua.
Đề bài: Phân tích nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều”
Bài làm
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở Nghi Xuân Hà Tĩnh, là một
thiên tài nghệ thuật , là một nhà nhân đạo chủ nghĩa , với cái tâm nóng hổi, đã để cho đời kiệt tác “Truyện
Kiều” bất hủ, sống mãi với thời gian. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng bởi giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo cao
cả mà còn bởi những nét đặc sắc nghệ thuật đặc sắc, trong đó có nghệ thuật tả người . Đoạn trích “ Chị em
Thúy Kiều” là tiêu biểu của nghệ thuật ấy. Với bút pháp ước lệ , ông đã khắc họa rõ nét chân dung chị em
Thúy Kiều, với cảm hứng nhân văn sâu sắc, ông đã ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người và dự cảm về kiếp
người tài hoa bạc mệnh.
Nằm ở phần đầu tác phẩm, đoạn thơ gồm 24 câu lục bát khắc họa chân dung Thúy Vân, Thúy Kiều
. Đoạn thơ có bố cục khá hồn chỉnh. Trước hết trong bốn câu thơ đầu , Nguyễn Du đã giới thiệu chung về hai
chị em Kiều từ vẻ đẹp hình thức bến ngồi tới vẻ đẹp tâm hồn bên trong . Tiếp đó tác giả giới thiệu vẻ đẹp
riêng của Thúy Vân trong bốn câu thơ tiếp, thực chất là tạo tiền đề để khắc họa tài sắc của Thúy Kiều, nhân
vật trung tâm của tác phẩm trong 12 câu tiếp. Cuối cùng tác giả tổng hợp lại giới thiệu chung về đức hạnh của
hai chị em
Trong bốn câu thơ đầu nhà thơ giới thiệu khái quát về vị trí thứ bậc và vẻ đẹp tồn diện của
hai nàng:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
“Tố nga” là ước lệ chỉ vẻ đẹp trong trắng cao quý của các nàng tiên trên cung quảng theo truyền thuyết. Nhận
xét khái quát về vẻ đẹp của hai chị em, tác giả sử dụng hình ảnh ẩn dụ tượng trưng “ mai cốt cách”, “tuyết tinh
thần” gợi vóc dáng thanh cao mảnh dẻ như cây mai, tâm hồn thanh sạch trắng trong như tuyết. Như vậy bốn
câu thơ đầu đã giới thiệu được khái quát vẻ đẹp nhan sắc và phẩm giá của hai chị em họ Vương. Quả thực,
Thúy Vân, Thúy Kiều cùng đẹp như trăng rằm, cùng duyên dáng thanh tao như mai, cùng trắng trong như tuyết
nhưng mỗi người lại có nét riêng , đều đạt đến độ hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”.
Mười sáu câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã đi vào miêu tả chi tiết hai bức chân dung
xinh đẹp của nàng Vân, nàng Kiều. Tác giả khéo léo tả nhan sắc Thúy Vân trước. Chỉ được tả trong 4 câu
thơ nhưng Nguyễn Du đã làm hiện lên trước mắt ta vẻ đẹp trẻ trung tươi tắn của một cơ gái đang độ
trăng trịn:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Nàng được miêu tả cụ thể từ phong thái đến khuôn mặt, nụ cười, giọng nói, mái tóc, làn da.Trang trọng
là vẻ đẹp của phong thái cao sang quý phái, khác vời là cái đẹp hơn người, cái đẹp khó lịng nói hết. Khi tả
Thúy Vân ngịi bút của Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn khi tả Thúy Kiều. Khuôn mặt nàng đầy đặn
sáng đẹp tựa trăng rằm. Nét lông mày cong mềm, sắc đậm như con ngài. Miệng cười tươi xinh, rạng rỡ như
hoa, giọng nói trong như ngọc, tóc mềm mượt hơn mây, da trắng trẻo, mịn màng hơn tuyết. Từ “nước tóc” gợi
sự mềm mại óng ả mượt mà trên mái tóc của nàng . Cách dùng từ đặc sắc và giàu sức gợi. Từ “thốt” trong
“ngọc thốt”là nói ít nên nàng lại cịn rất đoan trang. Đó là vẻ đẹp hiền thục mẫu mực đúng đắn - nét đẹp thường
thấy của con nhà gia giáo, nề nếp.. Vân cao sang quý phái đoan trang phúc hậu, sánh ngang với hoa, mây,
tuyết, ngọc - toàn những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Nhưng nhan sắc Thúy Vân vẫn hòa hợp êm
đềm với xung quanh khiến thiên nhiên thua, nhường, dự cảm một tương lai số phận bình lặng sn sẻ.
Chuyển sang chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện nổi bật một người con gái đẹp toàn diện cả
về nhan sắc, tài năng, trí tuệ, tâm hồn. Nhà thơ so sánh :
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
“Sắc sảo” là vẻ đẹp trí tuệ tài năng , “mặn mà” là vẻ đẹp đằm thắm cảm thấy nhiều hơn là nhìn thấy. Nhà thơ
khẳng định sự vượt trội hơn hẳn của Thúy Kiều“càng”, “hơn”. Hóa ra là nghệ thuật đòn bẩy, mượn Thúy Vân
làm nền để trên đó vẻ đẹp Thúy Kiều tỏa sáng. Gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều tác giả vẫn mượn những hình tượng
nghệ thuật ước lệ, tượng trưng như “thu thủy”, - nước mùa thu, “xuân sơn” - núi mùa xuân, vẫn lấy thiên
nhiên “hoa, liễu” làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của người:
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành địi một tài đành họa hai
Nhưng khơng tả chi tiết như Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ tập trung và đôi mắt. Bởi đôi mắt là sự thể hiện phần
tinh anh của tâm hồn trí tuệ. “Làn thu thủy” là ẩn dụ gợi lên vẻ đẹp đôi mắt trong sáng, phẳng lặng, long lanh
như làn nước mùa thu. Nthơ vừa gợi tả vẻ đẹp nhan sắc vừa làm toát lên sự tinh anh của trí tuệ bởi đơi mắt là
cửa sổ tâm hồn. Nguyễn Du miêu tả ngoại hình mà biểu đạt vẻ đẹp nội tâm là như thế. Chỉ vài nét chấm phá
giúp người đọc hình dung một nhan sắc trong sáng, tinh khôi tươi thắm, trẻ trung dạt dào sức sống thanh xuân.
Vẻ đẹp ấy toát ra bởi ánh sáng của cả một vương quốc tâm hồn. Vẻ đẹp của Kiều là nước, là non, là thời gian,
là năm tháng rộng dài sâu thẳm. Thúy Kiều đã vượt lên trên cái hoàn hảo của Thúy Vân để trở thành cái đẹp
tuyệt đích có một khơng hai. Dùng ý “nghiêng nước nghiêng thành”nhấn mạnh hơn nữa sắc đẹp có sức mê
hoặc làm thành nghiêng nước đổ của nàng, sánh với các mĩ nhân trong văn học cổ Trung Hoa. Với Thúy Kiều
“ Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, câu thơ đã khẳng định tuyệt đối sắc đẹp của Kiều đến mức độc nhất vô
nhị không ai sánh nổi. Khi miêu tả nhan sắc Thúy Kiều , Nguyễn Du vẫn lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để tả
con người nhưng thiên nhiên lại hờn “ghen” đố kị đã dự báo về cuộc đời nổi chìm, bất hạnh giông bão như ca
dao lưu truyền:
“Một vừa hai phải ai ơi
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.
Đặc biệt tác giả đã dung số lượng lớn các câu thơ để gợi tả vẻ đẹp trí tuệ ,tài năng của Kiều:
“Thơng minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa lên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài của Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm phong kiến, đủ cả “ cầm, kì, thi, họa” ( đàn, cờ, thơ,
vẽ). Tài nào nàng cũng đạt tới đỉnh cao hiếm có. Các từ ngữ như “ vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, làu” đã thể hiện
điều đó. Trong đó ăn đứt hơn hẳn người khác là tài đàn, đã là sở trường năng khiếu “ nghề riêng”. Tiếng đàn
của nàng không chỉ ngân lên những âm thanh huyền diệu mà còn run rẩy nức nở nhiều cung bậc cảm xúc: mỗi
nốt nhạc rung lên là mỗi tiếng ai oán não nùng, khổ đau sầu não. Cung đàn “Bạc mệnh” Kiều tự sáng tác vừa
thể hiện tài năng hơn người vừa phản chiếu một trái tim đa sầu đa cảm. Có thể nói vẻ đẹp của Thúy Kiều là vẻ
đẹp của cả sắc - tài - tình. Nhưng trong xã hội cũ “ tài hoa bạc mênh” .
Bốn câu cuối đoạn miêu tả cuộc sống của hai chị em Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
“Phong lưu” gợi cảnh nhà khá giả, sung túc. Hoán dụ “ hồng quần” chỉ những người con gái trong nhà
quyền quý. Thúy Vân, Thúy Kiều đang thuở “xuân xanh. “Tới tuần cập kê” là tuổi búi tóc, cài trâm, con gái
ngày xưa chuẩn bị lấy chồng. Nhưng cả hai nàng vẫn sống trong khuôn phép, êm đềm của thiếu nữ phòng
khuê. Trong bốn câu thơ cuối Nguyễn Du đã tôn vinh đức hạnh, lối sống mẫu mực, tâm hồn trong sáng của hai
chị em Kiều đồng thời khẳng định gia phong nề nếp của gia đình viên ngoại họ Vương.
Trong đoạn trích Nguyễn Du đã sử dụng thành công những nét nghệ thuật rất đặc sắc. Với nghệ
thuật tả người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, nhà thơ đã khắc họa bức chân dung hai chị em gái mỗi người
một vẻ hấp dẫn lạ lùng. Lối miêu tả rất phong phú đa dạng, tả Thúy Vân thiên về hướng cụ thể, còn tả Kiều lại
thiên về những hình ảnh khái quát giàu sức gợi. Chỗ đặc sắc trong nghệ thuật của nhà thơ chính là sử dụng
ngơn ngữ tài tình, có chọn lọc, tả vẻ bên ngồi nhưng gợi được tâm hồn, tính cách bên trong và cũng dự báo
về tương lai của họ nhất là những từ Hán Việt để bức chân dung càng thêm phần trang trọng. Thêm vào đó là
trình tự miêu tả từ khái quát đến cụ thể, nghệ thuật đòn bẩy cũng gợi tả rõ vẻ đẹp của nhân vật trung tâm. Lời
thơ, giọng thơ thể hiện rõ thái độ trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của con người.
Có thể nói “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn trích thành công nhất về nghệ thuật tả người
trong “Truyện Kiều”. Chỉ với 24 câu thơ lục bát, đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung
hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều . Nguyễn Du đã làm nổi bật lên hai bức tranh tố nữ với những
vẻ đẹp có một khơng hai. Nghệ thuật ấy đã tôn lên tài năng của ông trong việc khắc họa chân dung nhân vật.. Nhà
thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện
rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”. Đoạn trích khiến ta càng thêm cảm phục trước tài
năng thơ của tác giả Nguyễn Du, khiến ta càng thêm yêu mến, trân trọng những người phụ nữ trong xã hội phong
kiến. Vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện Kiều” vẫn là tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam. Mãi
mãi về sau hậu thế sẽ vẫn còn nhớ đến Nguyễn Du, nhớ những vần thơ nặng nỗi niềm yêu thương con người
Đề 1: Cảm nhận của em về nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều trong đoạn thơ sau:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Thơng minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Tham khảo
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở Nghi Xuân Hà Tĩnh đại thi hào dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới đã để lại cho đời một tác phẩm bất hủ. Đó là “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là
“Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” gây ấn tượng với người đọc không chỉ bởi giá trị nhân văn cao cả, giá trị hiện thực
độc đáo mà còn bởi nghệ thuật tả người đã đạt đến trình độ đỉnh cao. Nói đến nghệ thuật tả người trong “Truyện
Kiều” ta không thể không nhắc đến đoạn trích “Chị em thúy Kiều” và đặc biệt nhất là 12 câu thơ miêu tả tài và
sắc của nàng
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” gồm 24 câu thơ lục bát, nằm ở phần 1 “Gặp gỡ và đính ước” của tác phẩm
“Truyện Kiều”. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp của chị em thúy Kiều để từ đó ca ngợi
vẻ đẹp, đức hạnh và tài năng của những những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ở phần đầu của đoạn trích,
Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy
Kiều đồng thời miêu tả Thúy vân rất chi tiết cụ thể. Thông qua những câu thơ ấy, ta nhận ra ở hai nàng là cốt cách
thanh tao cao quý và một tâm hồn trắng trong tinh sạch. Và đến 12 câu thơ tiếp, tác giả dành hết tài năng, tình cảm
và tâm huyết của mình để miêu tả Thúy Kiều
Sau những câu thơ miêu tả Thúy Vân, tác giả tập trung miêu tả Thúy Kiều với vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn.
Về nhan sắc, nàng là người con gái tuyệt thế giai nhân, không ai sánh được bằng. Chỉ nhìn vào số lượng câu
thơ miêu tả Kiều, ta có thể thấy ND đã dành cho nhân vật này mốt sự ưu ái đặc biệt. Nếu như tả Thúy Vân tác giả
mượn cụm từ “trang trọng khác vời” thì khi tả Kiều, Nguyễn Du viết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Ở đây tác giả đã sử dụng thủ pháp đòn bẩy để miêu tả Thúy Kiều. thông qua thủ pháp nghệ thuật ấy, Nguyễn Du
muốn khẳng định Vân đã đẹp Kiều còn đẹp hơn đồng thời miêu tả như thế cũng là để vẻ đẹp của Thúy Vân không
bị lu mờ trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Điểm này Nguyễn Du thật tinh tế. Thúy Kiều mang vẻ đẹp “mặn mà,sắc
sảo” tức là ở nàng vừa có cả sự đằm thắm dịu dàng, vừa có cả sự tinh anh về trí tuệ. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Du
miêu tả ở cả hai phương diện là tài và sắc.
Nhan sắc của Thúy Kiều được tác giả miêu tả ở 3 câu thơ lục bát:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng ngước nghiêng thành”
Nếu như tả Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả rất chi tiết cụ thể, từ khuôn mặt đến đôi lông mày, từ giọng nói,
nụ cười đến làn da, mái tóc thì khi tả Kiều tác giả chỉ tập trung miêu tả đôi mắt. Có lẽ bởi đơi mắt là cửa sổ của tâm
hồn, nhìn vào đơi mắt, người ta có thể đốn biết được tâm tư, tình cảm. Tả đơi mắt của Kiều, nhà thơ một lần nữa sử
dụng bút pháp ước lệ tượng trưng (làn thu thủy nét xuân sơn). Để rồi qua bút pháp nghệ thuật ấy, ta nhận ra nàng có
một đơi mắt trong như làn nước mùa thu, đẹp như dáng núi mùa xn- một đơi mắt biết nói, biết cười, biết yêu
thương hờn giận, đôi mắt chứa đựng cả tình đời, tình người mênh mơng. Đơi mắt ấy đã khiến cho bao đấng nam nhi
phải mê say đắm đuối. Kiều đẹp đến mức hoa phải ghen vì thua sắc thắm, liễu phải hờn vì kém sắc xanh. Phép
nhân hóa có tính chất cường điệu “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” như một lời khẳng định vẻ đẹp của Thúy
Kiều đã vượt hơn hẳn vẻ đẹp của thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên phải ghen hờn, đố kị. Khơng cần nói nhan sắc
của Kiều ra sao, chỉ cần nói hoa cịn phải ghen, liễu cịn phải hờn với nhan sắc của Kiều thì tưởng như với nhan
sắc ấy, khơng lời nào có thể diễn tả nổi nữa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy dường như
trong vẻ đẹp của Kiều đã ẩn chứa những mầm tai hoạ. Một tương lai không bình lặng, một cuộc đời đầy thử thách
có lẽ đã đang đón đợi nàng. Vẫn miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du cịn sử dụng nghệ thuật Việt hóa điển tích. Người
Trung Quốc có điển tích “khuynh quốc khuynh thành” để nói về những cơ gái đẹp. Điển tích ấy làm ta nhớ đến vẻ
đẹp của Tây Thi đã làm cho vua Ngơ Phù Sai vì đắm say mà qn việc nước hay vẻ đẹp của Điêu thuyền khiến cho
Lữ Bố và Đổng Trác vì mê mẩn mà quên việc binh. Dùng điển tích ấy để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều là Nguyễn
Du muốn khẳng định vẻ đẹp của nàng cũng chẳng thua kém gì các mĩ nhân thủa trước. Nó cũng có thể khiến cho
“nghiêng nước nghiêng thành”. Như vậy chỉ với một vài câu thơ lục bát, bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, biện
pháp tu từ nhân hóa, nghệ thuật địn bẩy và các từ ngữ chọn lọc, Nguyễn Du đã vẽ ra trước mắt người đọc bức chân
dung của một tuyệt thế giai nhân. Thúy Kiều mang vẻ đẹp mà có lẽ trên thế gian này khơng ai có thể sánh được.
Tuy nhiên, người thiếu nữ ấy khơng chỉ có nhan sắc mà tài năng cũng xuất chúng hơn người. Tài năng ấy
được Nguyễn Du diễn tả ở bảy câu thơ tiếp:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương, lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân”
Theo Nguyễn Du miêu tả thì sự thông minh của Thúy Kiều là do trời phú. Và có lẽ vì thế mà nàng rất đa tài.
Kiều am hiểu rất nhiều các bộ môn nghệ thuật. Từ cầm, kì, thi họa, tài năng nào của nàng cũng đạt đến trình độ đỉnh
cao, xuất chúng. Các từ “đủ mùi, làu, ăn đứt” đã chứng minh cho điều đó. Thế nên Nguyễn Du mới khẳng định về
nàng là “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”(tức là về nhan sắc thì trên thế gian này khơng ai có thể sánh kịp nàng
cịn tài năng thì họa chăng may ra mới có một người vượt qua). Và trong tất cả các bộ môn nghệ thuật, Thúy Kiều
giỏi nhất là đánh đàn. Tiếng đàn của nàng từng được Nguyễn Du ca ngợi:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục ngư tiếng suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngồi
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”
Chỉ với vài phép so sánh, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy được tài năng xuất chúng của Thúy Kiều. Tiếng
đàn của nàng mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, lúc trầm lúc bổng, lục nhặt lúc khoan. Tiếng đàn ấy dường
như mang cả nỗi lòng, tâm tư của nàng. Hơn nữa nàng còn biết tự sáng tác nhạc. “Thiên Bạc mệnh” do nàng sáng
tác đã khiến cho người nghe ai nấy đều cảm thấy đau xót, não nề, và nó cũng là minh chứng cho một trái tim đa sầu
đa cảm.
Trong đoạn trích Nguyễn Du đã sử dụng thành công những nét nghệ thuật rất đặc sắc. Với nghệ
thuật tả người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, nhà thơ đã khắc họa bức chân dung hai chị em gái mỗi người
một vẻ hấp dẫn lạ lùng. Lối miêu tả rất phong phú đa dạng, tả Thúy Vân thiên về hướng cụ thể, cịn tả Kiều lại
thiên về những hình ảnh khái qt giàu sức gợi. Chỗ đặc sắc trong nghệ thuật của nhà thơ chính là sử dụng
ngơn ngữ tài tình, có chọn lọc, tả vẻ bên ngoài nhưng gợi được tâm hồn, tính cách bên trong và cũng dự báo
về tương lai của họ nhất là những từ Hán Việt để bức chân dung càng thêm phần trang trọng. Thêm vào đó là
trình tự miêu tả từ khái qt đến cụ thể, nghệ thuật đòn bẩy cũng gợi tả rõ vẻ đẹp của nhân vật trung tâm. Lời
thơ, giọng thơ thể hiện rõ thái độ trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của con người.
Có thể nói “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn trích thành cơng nhất về nghệ thuật tả người
trong “Truyện Kiều”. Chỉ với 24 câu thơ lục bát, đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung
hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều . Nguyễn Du đã làm nổi bật lên hai bức tranh tố nữ với những
vẻ đẹp có một khơng hai. Nghệ thuật ấy đã tơn lên tài năng của ông trong việc khắc họa chân dung nhân vật.. Nhà
thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện
rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khơi gợi trong ta khơng ít những
tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của tác giả Nguyễn Du, khiến ta càng thêm yêu
mến, trân trọng những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện
Kiều” vẫn là tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam. Mãi mãi về sau hậu thế sẽ vẫn còn nhớ đến Nguyễn Du, nhớ
những vần thơ nặng nỗi niềm yêu thương con người:
“Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.
( Tố Hữu)
Đề 2. Cảm nhận về vẻ đẹp nhan sắc của hai chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở Nghi Xuân Hà Tĩnh - đại thi hào dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới đã để lại cho đời một tác phẩm bất hủ. Đó là “Đoạn trường tân thanh” hay cịn gọi là
“Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” gây ấn tượng với người đọc không chỉ bởi giá trị nhân văn cao cả, giá trị hiện thực
độc đáo mà còn bởi nghệ thuật tả người đã đạt đến trình độ đỉnh cao. Nói đến nghệ thuật tả người trong “Truyện
Kiều” ta không thể không nhắc đến đoạn trích “Chị em thúy Kiều”. Đoạn trích đã giúp người đọc cảm nhận được một
cách rõ nét vẻ đẹp nhan sắc của hai chị em Thúy Kiều.
Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” gồm 24 câu thơ lục bát, nằm ở phần 1 “Gặp gỡ và đính ước” của tác phẩm
“Truyện Kiều”. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp của chị em thúy Kiều để từ đó ca ngợi vẻ
đẹp, đức hạnh và tài năng của những những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong bốn câu thơ đầu nhà thơ giới thiệu khái quát về vị trí thứ bậc và vẻ đẹp toàn diện của hai nàng:
. Và chỉ với bốn câu thơ, tác giả đã làm nổi bật được tên gọi. vai vế và cả vẻ đẹp của Thúy vân và Thúy Kiều
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy vân
Mai cốt cách tuyết inh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Đọc lời thơ, ta dễ dàng nhận ra tác giả đã sử dụng kết hợp giữa ngơn ngữ bình dân và ngơn ngữ bác học.
Nếu như “ả” là từ ngữ mà người dân lao động thường dùng để chỉ những người con gái thì “tố nga” lại là một từ
Hán Việt. “Tố nga”có nghĩa là người con gái đẹp. Việc sử dụng từ HV kết hợp với ngơn ngữ bình dân làm cho tác
phẩm trở nên gần gũi nhưng cũng vô cùng trang trọng. Và dường như cách dùng từ ngữ ấy cũng làm nên nét trang
trọng cho hai nhân vật trong đoạn trích này. Miêu tả hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều, tác giả đã sử dụng bút
pháp ước lệ tượng trưng và bút pháp lí tưởng hóa nhân vật:
“Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Xưa nay người ta tường mượn hình ảnh của liễu để miêu tả vẻ đẹp của những người con gái nhưng Nguyễn Du lại
mượn nhành mai bởi cây mai mộc mạc, giản dị nhưng rất đối thanh tao, gầy guộc, khẳng khiu nhưng lại tràn đầy
sức sống. Nguyễn Du còn mượn tuyết để miêu tả tâm hồn của họ. Thử hỏi trên đời này cịn thứ gì trắng trong,
tinh sạch hơn tuyết? Hẳn là hai nhân vật của chúng ta phải có cốt cách yểu điệu, thanh tao lắm, có tâm hồn trong
sáng tinh sạch lắm mới được ND miêu tả như vậy. Nhưng cái hay của Nguyễn Du khi miêu tả hai nhân vật này là
ông đã giúp người đọc thấy được ở họ mỗi người mang một vẻ đẹp riêng nhưng cả hai đều “mười phân vẹn mười”
tức là họ đẹp một cách tồn diện. Đó ko chỉ là vẻ đẹp của hình thức bên ngồi mà cịn là một tâm hồn đẹp.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du lại tập trung miêu tả nhân vật Thúy Vân mang vẻ đẹp đoan
trang, quý phái, tươi tắn, phúc hậu.
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Miêu tả Thúy Vân, tác giả miêu tả từ khái quát đến cụ thể, ông chỉ “xem” tức là chỉ quan sát để miêu tả ngoại
hình. Tả vân, tác giả khằng định “ Vân xem trang trọng khác vời”. “Trang trọng” ở đây có nghĩa là quý phái, đoan
trang, lịch sự. Vậy điều gì đã làm nên nét trang trọng đó? Phải chăng đó chính là một khuôn mặt trong đầy, sáng đẹp
như trăng rằm, một đôi lông mày cong cong đậm nét, một nụ cười tươi như hoa, một giọng nói trong như ngọc.Tất cả
những điều đó, thơng qua bút pháp ước lệ tượng trưng đã làm nên nét quý phái, trang trọng của Thúy Vân. Cùng với
bút pháp ước lệ tượng trưng, miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du còn sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa thơng qua một ý
thơ có tính chất phóng đại: “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” “Thua, nhường” là chấp nhận chịu kém hơn
và trong đó có cả sự cảm phục. Mái tóc của Vân mượt mà, bồng bềnh đẹp hơn những làn mây, làn da của nàng đến
tuyết cũng không thể sánh được. Lời thơ như muốn nhấn mạnh rằng vẻ đẹp của Thúy Vân còn vượt lên cái đẹp vốn
rất tuyệt vời của Thiên nhiên, làm cho thiên nhiên phải thán phục. Và cũng thông qua cách miêu tả ấy, Nguyễn Du
đã phần nào dự báo được về tương lai của nàng. Cuộc đời nàng hẳn sẽ được bình yên và hạnh phúc. Như vậy chỉ với
4 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung của một trang tuyệt sắc. Thúy vân hiện lên với vẻ đẹp phúc
hậu, quý phái, tươi tắn, đoan trang, phúc hậu và tràn đầy sức sống. Và cũng qua những câu thơ này, Nguyễn Du đã
phần nào dự báo được một cuộc đời bình yên, tốt đẹp sẽ đón đợi nàng phía trước.
Chuyển sang chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện nổi bật một người con gái đẹp toàn diện cả về
nhan sắc, tài năng, trí tuệ, tâm hồn. Nếu như tả Thúy Vân tác giả mược cụm từ “trang trọng khác vời” thì khi tả
Kiều, Nguyễn Du viết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Ở đây tác giả đã sử dụng thủ pháp đòn bẩy để miêu tả Thúy Kiều. thông qua thủ pháp nghệ thuật ấy, Nguyễn
Du muốn khẳng định Vân đã đẹp Kiều còn đẹp hơn đồng thời cũng để vẻ đẹp của Thúy Vân không bị lu mờ trước
vẻ đẹp của Thúy Kiều. Thúy Kiều mang vẻ đẹp “mặn mà,sắc sảo” tức là ở nàng vừa có cả sự đằm thắm dịu dàng,
vừa có cả sự tinh anh về trí tuệ. Vẻ đẹp ấy được Nguyễn Du miêu tả ở cả hai phương diện là tài và sắc. Nhan sắc
của Thúy Kiều được TG miêu tả ở 3 câu thơ lục bát:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoag hen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng ngước nghiêng thành”
Nếu như tả Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả rất chi tiết cụ thể, từ khuôn mặt đến đôi lông mày, từ giọng nói,
nụ cười đến làn da, mái tóc thì khi tả Kiều tác giả chỉ tập trung miêu tả đôi mắt. Có lẽ bởi đơi mắt là cửa sổ của tâm
hồn, nhìn vào đơi mắt, người ta có thể đốn biết được tâm tư, tình cảm. Tả đơi mắt của Kiều, nhà thơ một lần nữa sử
dụng bút pháp ước lệ tượng trưng (làn thu thủy nét xuân sơn). Để rồi qua bút pháp nghệ thuật ấy, ta nhận ra nàng có
một đơi mắt trong như làn nước mùa thu, đẹp như dáng núi mùa xn- một đơi mắt biết nói, biết cười, biết yêu
thương hờn giận, đôi mắt chứa đựng cả tình đời, tình người mênh mơng. Đơi mắt ấy đã khiến cho bao đấng nam nhi
phải mê say đắm đuối. Vẻ đẹp của Kiều còn khiến cho hoa phải ghen vì thua sắc thắm, liễu phải hờn vì kém sắc
xanh. Phép nhân hóa có tính chất cường điệu “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” như một lời khẳng định vẻ
đẹp của Thúy Kiều đã vượt hơn hẳn vẻ đẹp của thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên phải ghen hờn, đố kị. Khơng cần
nói nhan sắc của Kiều ra sao, chỉ cần nói hoa cịn phải ghen, liễu cịn phải hờn với nhan sắc của Kiều thì tưởng
như với nhan sắc ấy, khơng lời nào có thể diễn tả nổi nữa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ lại từng câu, từng lời, ta sẽ thấy
dường như trong vẻ đẹp của Kiều đã ẩn chứa những mầm tai hoạ. Một tương lai khơng bình lặng, một cuộc đời đầy
thử thách có lẽ đã đang đón đợi nàng. Vẫn miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du còn sử dụng nghệ thuật Việt hóa điển
tích. Người Trung Quốc có điển tích “khuynh quốc khuynh thành” để nói về những cơ gái đẹp. Điển tích ấy làm ta
nhớ đến vẻ đẹp của Tây Thi đã làm cho vua Ngơ Phù Sai vì đắm say mà quên việc nước hay vẻ đẹp của Điêu
thuyền khiến cho Lữ Bố và Đổng Trác vì mê mẩn mà quên việc binh. Dùng điển tích ấy để miêu tả vẻ đẹp của
Thúy Kiều là ND muốn khẳng định vẻ đẹp của nàng cũng chẳng thua kém gì các mĩ nhân thủa trước. Nó cũng có
thể khiến cho “thành nghiêng, nước đổ.
Trong đoạn trích Nguyễn Du đã sử dụng thành công những nét nghệ thuật rất đặc sắc. Với nghệ thuật
tả người bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, nhà thơ đã khắc họa bức chân dung hai chị em gái mỗi người một
vẻ hấp dẫn lạ lùng. Lối miêu tả rất phong phú đa dạng, tả Thúy Vân thiên về hướng cụ thể, còn tả Kiều lại
thiên về những hình ảnh khái quát giàu sức gợi. Chỗ đặc sắc trong nghệ thuật của nhà thơ chính là sử dụng
ngơn ngữ tài tình, có chọn lọc, tả vẻ bên ngồi nhưng gợi được tâm hồn, tính cách bên trong và cũng dự báo
về tương lai của họ nhất là những từ Hán Việt để bức chân dung càng thêm phần trang trọng. Thêm vào đó là
trình tự miêu tả từ khái quát đến cụ thể, nghệ thuật đòn bẩy cũng gợi tả rõ vẻ đẹp của nhân vật trung tâm. Lời
thơ, giọng thơ thể hiện rõ thái độ trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của con người.
Có thể nói “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn trích thành công nhất về nghệ thuật tả người
trong “Truyện Kiều”. Chỉ với 24 câu thơ lục bát, đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung
hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều . Nguyễn Du đã làm nổi bật lên hai bức tranh tố nữ với những
vẻ đẹp có một khơng hai. Nghệ thuật ấy đã tôn lên tài năng của ông trong việc khắc họa chân dung nhân vật.. Nhà
thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện
rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khơi gợi trong ta khơng ít những
tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của tác giả Nguyễn Du, khiến ta càng thêm yêu
mến, trân trọng những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện
Kiều” vẫn là tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam. Mãi mãi về sau hậu thế sẽ vẫn còn nhớ đến Nguyễn Du, nhớ
những vần thơ nặng nỗi niềm yêu thương con người:
“Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.
( Tố Hữu)
Cảm nhận của em về đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” ( Trích “Truyện Kiều”) - Nguyễn Du.
Bài làm
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở Nghi Xuân Hà Tĩnh là đại thi hào dân
tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Với thiên tài nghệ thuật, Nguyễn Du đã tạo nên “Truyện Kiều” bất
hủ, niềm tự hào của văn học Việt Nam. Trong kiệt tác “Truyện Kiều” câu nào, đoạn nào cũng được coi là mẫu
mực, thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trên nhiều phương diện. Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là
một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Đoạn trích cho ta thấy cảnh ngộ cơ đơn, buồn tủi và tấm lịng thủy chung hiếu thảo của Kiều.
Đoạn trích“ Kiều ở lầu Ngưng Bích”thuộc phần hai “ Gia biến và lưu lạc”. Sau khi bán mình cứu cha,
Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh, bị lừa gạt làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp
khách làng chơi không chịu chấp nhận cuộc sống nhơ nhớp chốn lầu xanh, nàng dùng dao tự vẫn. Tú Bà sợ mất
vốn lãi nên đã đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích, hứa khi bình phục sẽ tìm nơi xứng đáng gả chồng cho nàng. Thực
chất là giam lỏng Kiều, đợi thời cơ thực hiện âm mưu tàn bạo hơn. Đoạn trích gồm 22 câu thơ lục bát, tập trung
miêu tả tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Sáu câu thơ đầu là khung cảnh khơng gian thời gian ở lầu Ngưng Bích, tâm trạng cơ đơn và cảnh
ngộ bi kịch của Kiều. Cảnh ngộ bi kịch của Kiều được nói đến ngay ở câu đầu đoạn trích :
“ Trước lầu Ngưng Bích khóa xn”
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Lầu Ngưng Bích đúng như tên gọi của nó là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp . Hai chữ “ Ngưng
Bích” cho thấy lầu ở rất cao trến chín tầng mây, nơi mà màu xanh tụ lại. Đây quả là chốn thần tiên nhưng bao
cảnh đẹp ở lầu Ngưng Bích đều vơ nghĩa vì nó chỉ là “khóa xuân” của Kiều: bị giam lỏng, cầm tù ở lầu Ngưng
Bích. Quá khứ là gia biến, hiện tại là mất tự do. Hình ảnh “ non xa”, “ trăng gần”, “cát vàng”, “ bụi hồng” lại
thêm từ láy “ bát ngát” và từ “ nọ, kia” đã vẽ nên một không gian đẹp nên thơ nhưng mênh mơng hoang vắng xa
lạ khơng một bóng người, vắng âm thanh của sự sống. Cái lầu trơ trọi ấy mang một thân phận trơ trọi, khơng một
bóng hình thân thuộc, khơng một tâm hồn bầu bạn .Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế đẹp mà buồn hoang vắng và lạnh
lẽo thấm đượm tâm trạng cơ đơn vị xé ngổn ngang trăm mối trong lịng Kiều:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi một thời gian tuần hồn khép kín. Như thế là cả không gian, thời gian đều
giam hãm cầm tù con người. Sớm khuya, ngày đêm, chỉ còn biết làm bạn với trăng đèn mây núi. Lòng Kiều như
bị chia xé, nỗi buồn khơng gì vơi bớt được khơng người sẻ chia, hồn tồn cơ đơn giữa thiên nhiên rộng lớn vắng
lặng. Cái bao la của vũ trụ cái vắng lặng của khơng gian, cái tuần hồn khép kín của thời gian đã khắc sâu thêm
cảm giác cô đơn tận cùng trong tâm tư nàng Kiều. Nguyễn Du đã dùng ngoại cảnh để tả tâm cảnh là như thế.
Trong hoàn cảnh như vậy, Kiều đã hướng tới những người thân yêu của mình với nỗi nhớ chàng
Kim tha thiết và lịng xót xa thương cảm cha mẹ. Trước hết nỗi nhớ của Kiều hướng về chàng Kim. Nguyễn
Du để Kiều nhớ chàng Kim trước khi xót cha mẹ vì với cha mẹ phần nào Kiều đã đáp đền được chữ hiếu qua
việc bán mình lấy tiền cứu cha. Cịn chàng Kim , nàng cảm thấy mình có lỗi khi không giữ được lời hẹn ước.
Cách diễn tả này phù hợp với quy luật tâm lí của nhân vật, thể hiện rõ sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Du,
đồng thời cũng cho ta thấy rõ sự cảm thông sâu sắc của tác giả với hoàn cảnh đáng thương của nhân vật. Nhớ
Kim Trọng nàng nhớ đến lời thề của tình yêu :
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Nỗi nhớ của Kiều được diễn đạt bằng từ « tưởng » - nghĩa là liên tưởng, tưởng tượng thật tinh tế và ý nhị.
Lại là « Tưởng người dưới nguyệt chén đồng » - một hoán dụ chỉ chàng Kim gắn với kỉ niệm đẹp về đêm trăng
thề bồi. Kiều nhớ tiếc biết bao những kỉ niệm tình yêu đầu đời đẹp đẽ cùng lời hẹn ước trăm năm. Kiều như thấy
ở nơi xa xơi nào đó Kim Trọng cũng đang hướng về mình , đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vơ ích :
« Tin sương luống những rày trơng mai chờ » . Động từ « trơng », « chờ » nhấn tả nỗi nhớ khơn ngi dai dẳng
trong lịng chàng Kim, nỗi day dứt mình là kẻ phụ tình . Sau đó Kiều đối diện với mình bằng những lời tha thiết :
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
« Bên trời góc bể bơ vơ » gợi ra tình cảnh của Kiều trong hiện tại. Thì ra càng nhớ người yêu Kiều càng thấm
thía tình cảnh cơ đơn trơ trọi của mình, càng tiếc nuối mối tình đầu ngây thơ, trong sáng, càng ý thức được tình
u dành cho chàng Kim là khơng bao giờ phai nhạt. Từ « tấm son » trong câu « Tấm son gột rửa bao giờ cho
phai » có hai cách hiểu. Đó là tấm lịng nhớ thương Kim Trọng không khi nào nguôi quên. Qua đó nhà thơ khẳng
định tấm lịng thủy chung son sắt của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.
Ở bốn câu thơ sau cũng bằng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du miêu tả tâm tư xót thương cha mẹ
trọng lịng Kiều :
Xót người tựa cửa hơm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Nghĩ tới song thân nàng xót xa thương cảm vì cha mẹ đã « ngày dài tuổi hạc càng cao », « hơm mai », « tựa
cửa » ngóng chờ tin con, trơng mong sự đỡ đần mà mình thì khơng thể như cơ gái trong ca dao xưa « Có bát
canh cần nó cũng mang cho ». Sự xa cách về không gian, sự trói buộc về thân phận đã khơng cho Kiều được về
để « quạt nồng », « ấp lạnh » gần gũi, phụng dưỡng đấng bậc sinh thành. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà
tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là « gốc tử đã vừa người ôm » nghĩa là cha mẹ ngày thêm một già yếu.
Cụm từ « cách mấy nắng mưa » vừa thể hiện được thời gian xa cách vừa nói lên sức tàn phá của tự nhiên, của
mưa nắng đối với cảnh vật và con người. Thành ngữ « quạt nồng ấp lạnh » cùng với điển cố « sân Lai », « gốc
tử » như càng khắc sâu thêm tấm lòng hiếu thảo đáng quý của Kiều. Nỗi lòng của Kiều thật giống với nỗi lòng
của người con gái trong ca dao :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Tình cảm thủy chung, hiếu thảo của Kiều thực ra có cội nguồn từ lịng u thương, vị tha và đức hi sinh cao cả.
Bởi lẽ trong cảnh ngộ hiện tại bị giam cầm tuổi xuân ở chốn lầu xanh , Kiều mới thực là người đáng thương nhất.
Nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy nàng vẫn nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình, nghĩ cho người khác
trước khi nghĩ cho mình.
Tám câu thơ cuối là tâm trạng buồn đau lo sợ, hãi hùng của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Tả
cảnh ngụ tình là cảnh vật có liên quan đến tâm trạng con người, cảnh vật đc tả qua cái nhìn đầy tâm trạng của
con người, tạo nên bức tranh tâm cảnh . Qua ngịi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du, khung cảnh thiên
nhiên lúc chiều tà bên bờ biển cũng đậm màu tâm trạng con người. Cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm,
âm thanh từ tĩnh đến động nỗi buồn từ man mác mông lung đến lo âu kinh sợ. .. Mỗi biểu hiện của cảnh đều phù
hợp với các sắc thái tình cảm khác nhau của con người. Trước hết đó là khung cảnh không gian của mênh
mông mông cửa bể chiều hôm ở cặp câu thứ nhất :
Buồn trông cửa bể chiều hơm
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa
Con thuyền nhỏ giữa xa vời khiến « cánh buồm » trở nên « thấp thống », như thực như ảo lúc rõ lúc khuất.
Hình ảnh thuyền ai đơn độc gợi ra thân phận nàng Kiều xa nhà , xa quê, bơ vơ, trơ trọi, lênh đênh nơi góc bể
chân trời mà chẳng cập được bến bờ nào. Nhìn cánh buồm thấp thống, nỗi nhớ q hương gia đình cha mẹ trào
dâng mãnh liệt, nàng khát khao sum họp với gia đình nhưng khát khao mong manh mờ nhạt bởi cánh buồm chỉ
thấp thống“xa xa” . Đó là tâm tư buồn - nỗi buồn da diết vì quê nhà xa cách, vì đơn chiếc lẻ loi.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chin chiều
Nỗi buồn càng nhân lên khi Kiều nhìn thấy cảnh hoa trơi mặt nước:
Buồn trơng ngọn nước mới sa
Hoa trơi man mác biết là vì đâu
Thuyền trơi trong vơ định, đóa hoa cũng vậy, chẳng biết là về đâu. Những cánh hoa rơi nổi trôi phiêu dạt gợi ra
số kiếp mỏng manh của Kiều giữa bể đời dài rộng. Cũng như « hoa » Kiều khơng làm chủ được vận mệnh đành
phó thác tất cả cho sự đưa đẩy của số phận . Nhìn cánh hoa lang thang trôi dạt, mà buồn cho thân phận của mình
bèo bọt lênh đênh, nhỏ nhoi tội nghiệp , không biết rồi sẽ trôi dạt về đâu bị vùi dập ra sao khi một mình lạc lõng
nơi đất khách quê người.. Từ « man mác » tả hoa nhưng lại gợi nỗi chán chường thất vọng, của Thúy Kiều. .
Hoa lìa cành hoa sẽ héo, cuộc đời Kiều xa lành lỡ cội cũng tàn tạ mất thôi.
Cuộc đời Kiều giờ đây đang tàn tạ héo úa như cảnh nội cỏ nhạt nhịa mênh mơng :
Buồn trơng nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Không phải thảm cỏ xuân mềm mượt, cũng không phải sắc cỏ xanh tươi non tràn đầy sức sống trong tiết thanh
minh hôm nào. Cảnh trong hai câu là « nội cỏ rầu rầu ». « Rầu rầu » vốn là từ láy tả tâm trạng được Nguyễn Du
dùng để tả màu sắc.. Bức tranh nội cỏ vì thế đem đến cảm giác u ám. Kiều cảm thấy tương lai mờ mịt vô cùng
bế tắc, tuyệt vọng và mất phương hướn. Nỗi chán chường vô vọng, cuộc sống vô vị tẻ nhạt cô quạnh này
Và lúc này nàng chợt nghe chợt thấy, chợt bừng tỉnh trong nỗi hãi hùng lo sợ :
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cảnh trong hai câu thơ là cảnh giơng bão , sóng gió. Âm thanh bây giờ mới xuất hiện nhưng không phải
âm thanh sự sống mà là tiếng gào thét của « sóng kêu », « gió cuốn », « ầm ầm », dữ dội. Câu thơ như báo trước
một điều gì đó sắp ập xuống thật khủng khiếp, tai họa rình rập khắp nơi. Nàng sợ hãi kinh hoàng, nhũng âm
thanh ghê rợn đó như mách bảo chặng đường tiếp theo sẽ đầy chơng gai khó khăn với nàng.
Có thể nói tám câu thơ cuối là bức tranh tứ bình đầy ấn tượng diễn tả nỗi buồn ở nhiều cung bậc. Đoạn thơ
là tuyệt bút của bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo thể hiện tài năng của bậc thầy của Nguyễn Du Điệp ngữ
« buồn trơng » diễn tả nỗi buồn nhiều vẻ kéo dài nặng nề trong lòng Kiều . Hệ thống ngôn ngữ độc thoại, độc
thoại nội tâm được thể hiện rất hiệu quả trong việc miêu tả nỗi niềm sâu kín của nàng Kiều. Những câu hỏi tu
từ vời từ để hỏi như: ai ? về đâu ? xoáy vào tâm can người đọc như hằn sâu nỗi cô đơn trống vắng tuyệt vọng
và bế tắc của Kiều. Sự lặp lại cấu trúc của bốn cặp câu lục bát góp phần tơ đậm thêm nỗi lịng ngổn ngang trăm
mối của nàng .
Đoạn trích « Kiều ở lầu Ngưng Bích » thành cơng với những nét nghệ thuật đặc sắc. Bố cục chặt chẽ
, ngơn ngữ, hình ảnh thơ giàu sức gợi và sắc thái biểu cảm phong phú, tinh tế. Bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo
cuối đoạn, cảnh không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng đầy màu sắc của nhân
vật. Biện pháp tu từ điệp ngữ “buồn trông” đứng đầu các câu thơ miêu tả kết hợp với những từ láy, câu hỏi tu
từ.. có tác dụng diễn tả nỗi buồn nhiều vẻ, kéo dài, nặng trĩu trong lịng Kiều, sự cơ đơn với nỗi sầu mênh mang,
dự báo một tương lai khủng khiếp đang đợi nàng phía trước. Đại thi hào Nguyễn Du quả thật là bậc thầy về tả
cảnh đồng thời cũng giỏi trong việc gợi tả tâm trạng, tính cách nhân vật.
Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đặc tả tâm trạng cô đơn, buồn tủi và khổ đau
của Thúy Kiều. Đoạn trích đã khẳng định sự kì tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút
pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc. Đồng thời ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo, niềm cảm thương sâu sắc mà
Nguyễn Du dành cho người con gái hồng nhan bạc mệnh. Đoạn trích đã khơi gợi trong ta khơng ít những tình cảm
đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của tác giả Nguyễn Du, khiến ta càng thêm yêu mến, trân
trọng những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện Kiều” vẫn là
tác phẩm bất hủ của văn học Việt Nam. Mãi mãi về sau hậu thế sẽ vẫn còn nhớ đến Nguyễn Du, nhớ những vần thơ
nặng nỗi niềm yêu thương con người:
“Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.
( Tố Hữu)
Đề 2. Cảm nhận của em về nỗi lòng của Thúy Kiều trong đoạn thơ sau:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trơng mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hơm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Tham khảo
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở Nghi Xuân Hà Tĩnh đại thi hào dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới đã để lại cho đời một tác phẩm bất hủ. Đó là “Đoạn trường tân thanh” hay cịn gọi là
“Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” gây ấn tượng với người đọc không chỉ bởi giá trị nhân văn cao cả, giá trị hiện thực
độc đáo mà còn bởi nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến trình độ đỉnh cao. Nói đến nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
trong “Truyện Kiều” ta khơng thể khơng nhắc đến đoạn trích “Kiều ơ lầu Ngưng Bích”. Trong đoạn trích ấy, có lẽ
tám câu thơ miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều về người yêu và cha mẹ là những vần thơ độc đáo nhất
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” gồm 22 câu thơ lục bát, nằm ở phần 2 “Gia biến và lưu lạc” trong
tác phẩm “ Truyện Kiều”. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã miêu tả một cách rõ nét tâm trạng của Thúy Kiều
trong những tháng ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích để từ đó làm nổi bật nỗi bất hạnh của những người phụ nữ
trong xã hội xưa. Ở 6 câu thơ đầu, bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp hệ thống hình ảnh ước lệ, ngôn ngữ giàu
sắc thái biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng. Và trên nền của khung
cảnh ấy là hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm tâm sự đau thương. Từ những vần thơ ấy, người đọc
nhận ra nỗi niềm thương cảm xót xa của tác giả dành cho nhân vật .
Sau những câu thơ miêu tả cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều, Nguyễn Du tiếp tục hóa thân vào nhân
vật để diễn tả nỗi nhớ của nàng về người yêu và cha mẹ. Trước hết là nỗi nhớ thương da diết của Thúy Kiều về
Kim Trọng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luốn những dày trơng mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Đọc đoạn trích này, chắc hẳn người đọc sẽ không khỏi thắc mắc rằng tại sao Nguyễn Du lại để cho Thúy Kiều
nhớ về Kim Trọng trước khi nhớ về cha mẹ. Còn nhớ ở phần đầu của tác phẩm, khi gia đình bị thằng bán tơ vu oan,
Thúy Kiều đã từng quả quyết rằng:
“Đệ lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”
Ấy thế mà lúc này khi ở nơi đất khách quê người, nàng lại nhớ về Kim trọng trước. Tuy nhiên khi ta đặt mình
vào hồn cảnh của Thúy Kiều, ta có thể hiểu cho cảm xúc của nàng. Kim Trọng với nàng chính là mối tình đầu, mà
tình đầu thì thường sâu nặng. Hơn thế nữa, trước lầu Ngưng Bích nhìn ra nàng lại thấy hình ảnh vầng trăng. Hình
ảnh ấy khiến nàng nhớ đến đêm trăng thề nguyền mà hai người đã từng uống chén rượu hẹn ước. Vả lại, với cha mẹ
thì hành động bán mình chuộc cha đã phần nào báo đáp được cơng ơn sinh thành cịn với Kim Trọng thì nàng mãi là
kẻ bạc tình lỗi hẹn, điều đó khiến nàng vơ cùng day dứt. Thông qua cách miêu tả tâm trạng và cách diễn tả trật tự
nỗi nhớ của Thúy Kiều, ta nhận ra ở nhà thơ Nguyễn Du là sự am hiểu tâm lí con người và sự tiến bộ trong quan
niệm về tình u đơi lứa.
Tả nỗi nhớ của Kiều về người yêu, tác giả dùng chữ “tưởng”. “Tưởng” có nghĩa là tưởng tượng, hình dung
ra một ai đó như đang đứng trước mặt mình, đang trị chuyện với mình. Nhớ về Kim Trọng, Kiều lại nghĩ đến cái
đêm trăng thề nguyền mà hai người đã uống chén rượu hẹn ước. Trong đêm trăng ấy, Thúy Kiều và Kim Trọng đã
từng hẹn thề “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Ấy thế mà giờ đây hai người đang hai phương trời cách biệt.
Nàng để lại chàng Kim một mình lẻ bóng nơi q nhà. Kiều tưởng tượng ra cảnh ngày đêm Kim Trọng mong chờ
tin mình cịn nàng thì bặt vơ âm tín. Điều đó khiến nàng vơ cùng day dứt rồi tự vấn lương tâm “Tấm son gột rửa
bao giờ cho phai”. Câu thơ như một lời khẳng định dù cuộc đời có ra sao, dù khơng gian có xa, thời gian có dài thì
tấm lịng thủy chung của Kiều dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ có thể phơi phai được. Lời thơ cịn gợi lên tâm
trạng dằn vặt, day dứt của Thúy Kiều, nàng tự trách mình đã mang tiếng nhuốc nhơ, khơng cịn xứng đáng với Kim
Trọng được nữa.
Rồi khi nỗi nhớ Kim Trọng trong tâm hồn Thúy Kiều chưa kịp ngi đi thì nỗi nhớ cha mẹ lại tràn về:
“Xót người tựa cửa hơm mai
Qt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ơm”
Miêu tả nỗi nhớ của Kiều về cha mẹ, Nguyễn Du dùng từ “xót”. “Xót” có nghĩa là xót xa đến độ đau đớn.
Nàng đau đớn là bởi cha mẹ nàng đã già yếu mà khơng có người phụng dưỡng, chăm sóc. Hơn thế nữa họ cịn ngày
đêm “tựa cửa” trơng ngóng đứa con xa mà nàng thì bóng chim tăm cá. Sao khơng đau xót cho được khi phận nàng
là con mà chẳng thể chăm sóc cho mẹ cha khi đã về già. Và cũng để diễn tả trăn trở, lo lắng của nàng về gia đình,
tác giả cịn sử dụng thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” và hai điển tích “ sân Lai, gốc tử”. “Quạt nồng ấp lạnh” được
hiểu là mùa hè trời nóng bức thì quạt cho cha mẹ ngủ cịn mùa đơng trời rét buốt thì vào trong chăn nằm cho chăn
chiếu ấm lên mới mời cha mẹ vào nằm. Cịn điển tích “sân Lai” ở đây tức là sân nhà lão Lai tử. Truyện kể rằng lão
Lai Tử đã già nhưng vẫn ra sân nhảy múa đề làm vui lòng cha mẹ. Với việc mượn những điển tích và thành ngữ ấy,
Nguyễn Du như muốn cho người đọc cảm nhận được nỗi nhớ thương, sự lo lắng của Thúy Kiều dành cho cha mẹ
của mình. Từ nỗi nhớ ấy, người đọc có thể dễ dàng nhận ra nhận ra nàng là một tấm lòng rất mực hiếu thuận. Sự
hiếu thảo của Thúy Kiều làm ta nhớ đến nân vật Vũ Nương – một người con dâu hiếu thuận với mẹ chồng như với
cha mẹ đẻ. Có thể nói rằng tấm lịng thủy chung hiếu thảo là nét phẩm chất chung của những người phụ nữ trong
XHPK. Họ đáng để chúng ta trân trọng và yêu thương.
Đoạn trích thơ thể hiện nỗi nhớ thương của Kiều rất thành công nhờ những nét nghệ thuật đặc sắc.
Bố cục chặt chẽ , ngơn ngữ, hình ảnh thơ giàu sức gợi và sắc thái biểu cảm phong phú, tinh tế. Các từ ngữ ,thành
ngữ và điển tích, điển cố chọn lọc. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, tinh tế, Tám câu thơ tiếp theo đã diễn
tả một cách đầy đủ và trọn vẹn nỗi nhớ da diết, cồn cào của nàng dành cho người yêu và tám lịng hiếu thảo, thủy
chung của nàng. Dù trong hồn cảnh khó khăn, cơ độc, Kiều vẫn ln đau đáu về người yêu, về trách nhiệm của
người con với cha mẹ.
Trách nhiệm và tấm lòng thương yêu người yêu, cha mẹ của nàng thật đáng quý biết bao. Nói đến Kiều,
người ta thường nói đến cái tài, cái sắc, nhưng chính cái tình của Kiều đối với gia đình, đối với người yêu, đối với
tất thảy mọi người trong cuộc đời này mới là điều làm nên nhân cách cao đẹp của Kiều.Tấm lòng thủy chung hiếu
thảo của nàng khiến ta nhớ đến Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Phải chăng
đó chính là những nét chung trong tâm hồn của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Vẻ đẹp ấy
đáng để ta trân trọng và cảm phục.
Có thể nói rằng trong “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thì đoạn thơ miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều về người yêu
và cha mẹ được coi là đoạn thơ hay nhất”. Đoạn trích đã khơi gợi trong ta khơng ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta
càng thêm cảm phục trước tài năng thơ của tác giả Nguyễn Du, khiến ta càng thêm yêu mến, trân trọng những
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử “Truyện Kiều” vẫn là tác phẩm bất
hủ của văn học Việt Nam. Mãi mãi về sau hậu thế sẽ vẫn còn nhớ đến Nguyễn Du, nhớ những vần thơ nặng nỗi
niềm yêu thương con người:
“Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày”.
( Tố Hữu)