Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Ôn Văn học Trung đại - Lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.42 KB, 76 trang )

TÓM TẮT TRUYỆN KIỀU
Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình
chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái "sắc nước
hương trời" và có tài "cầm kỳ thi họa".
Theo kịch tính của tác phẩm, có thể chia truyện thành 13 phần nhỏ như sau:
Tóm tắt
Nguyễn Du đem thuyết "tài mệnh tương đố" (tài và mệnh ghét nhau) làm
luận đề cuốn truyện. Sau đó tác giả nói về gia thế và tả tài sắc hai chị em
Vân - Kiều.
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Kiều thăm mộ Đạm Tiên
Vào khoảng thời vua Minh Thánh Tông (1522-1566), trong một gia đình viên
ngoại họ Vương có 3 người con, con cả là Vương Thuý Kiều, sau là Thuý Vân
và Vương Quan là cậu út. Hai chị em Thúy Kiều và Thuý Vân thì "mỗi người
một vẻ, mười phân vẹn mười", nhưng "so bề tài, sắc" thì Thuý Kiều lại hơn
hẳn cô em. Trong một lần đi tảo mộ vào tiết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm
Tiên, một "nấm đất bên đàng", Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy
ái ngại cho một "kiếp hồng nhan" "nổi danh tài sắc một thì" mà giờ đây
"hương khói vắng tanh". Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên
Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói
chung:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Kiều gặp Kim Trọng
Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng, là một người "vốn nhà
trâm anh", "đồng thân" với Vương Quan, từ lâu đã "trộm nhớ thầm yêu"


nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người "vào trong phong nhã, ra
ngoài hào hoa". Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ
này thì hai người "tình trong như đã, mặt ngoài còn e". Tiếp sau lần gặp gỡ
ấy là mối tương tư:
1
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không
Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách
chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Kiều đã gặp
nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi kỷ vật cho nhau. Nhiều
lần Kim Trọng cũng muốn "vượt rào" nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo,
cô đã thuyết phục được Kim Trọng:
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân
Kiều bán mình chuộc cha
Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn
thức với mối tình đầu. Bọn sai nha đầu trâu, mặt ngựa đã đánh đập cha và
em nàng một cách tàn nhẫn trong nỗi oan kêu trời không thấu. Trong hoàn
cảnh bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc
cha, nhưng nàng không quên lời hẹn ước "trăm năm thề chẳng ôm cầm
thuyền ai" với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để thọ tang chú.
Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của
chính mình:
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!'
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây
Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.
Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh và Tú bà Mã Giám Sinh vốn là "một đứa
phong tình đã quen" cùng với Tú bà mở hàng "buôn phấn bán hương",
chuyên đi mua gái ở các chốn về "lầu xanh". Thấy Thuý Kiều như là một món
hàng ngon, nhất quyết mua về, lấy tiếng là làm vợ nhưng sau khi "con ong
đã tỏ đường đi lối về", Thuý Kiều đã bị Tú bà bắt phải tiếp khách. Nàng nhất
quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà đành nhượng bộ
cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích. Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ
trong lòng: Xót người tựa cửa hôm mai Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa
2
đầy cảm xúc: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh
buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông
gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Kiều mắc lừa Sở Khanh.
Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở
Khanh, một gã có "hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng" và cũng khá
"văn vẻ", cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình
tĩnh nhận ra lời lường gạt sáo rỗng của Sở Khanh.
Than ôi! sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
Kiều vội vàng trao thân cho Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu
Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại
vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng
mới rõ bản chất con người Sở Khanh:
Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung!

Đến lúc này, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác "đến phong
trần, cũng phong trần như ai" và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Kiều gặp Thúc Sinh
Thúc Sinh tuy đã có vợ là Hoạn Thư nhưng cũng là người "mộ tiếng Kiều nhi"
từ lâu. Thúc Sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư
mang tính của con người trong "đời thường" nhất, chứ không cách điệu nhiều
như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc Sinh là thế giới
của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một "đấng nam
nhi" nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân đầy nhục dục của
Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh
Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai
người vui vẻ bên nhau "ý hợp tâm đầu".
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.
Thúc Sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh, chàng yêu Thuý Kiều bằng
3
một tình yêu chân thực và trân trọng cô, điều này thể hiện tính nhân văn của
truyện Kiều.
Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc Ông (bố của Thúc
Sinh) thừa nhận. Thúc Ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!
Kiều quyết tâm dan díu với Thúc Sinh không chịu quay về lầu xanh nên lại
thêm một lần khốn khổ:

Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
May thay vị quan đó tuy tỏ ra nghiêm khắc nhưng cũng có tình người. Thấy
Thúc Sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, ông đã cho Kiều làm
một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên
Thúc Ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế
Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với
Hoạn Thư, vợ chính của Thúc Sinh.
Kiều và Hoạn Thư
Khi biết chuyện, cha mẹ Thúc Sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ,
nhưng khi biết Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, bố của Thúc Sinh
đã phải thốt lên:
Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Kiều đã ở cùng Thúc Sinh suốt 1 năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc Sinh về
thăm vợ cả Hoạn Thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng
nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc Sinh không ngờ
rằng Hoạn Thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi.
Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ
ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn Thư với
cái tên là Hoa Nô. Lúc Thúc Sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào
mình, "phách lạc hồn xiêu", chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả.
Hoạn Thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng.
Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:
4
Bốn giây như khóc như than

Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì lý do
gì. Thuý Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị
lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng
bị bắt đưa vào cửa nhà quan rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa
tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào
Quan Âm các sau vườn để chép kinh.
Thực ra, Hoạn Thư đánh kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về "đòn ghen"
của Hoạn Thư là "nhẹ như bấc, nặng như chì". Hoạn Thư đã ứng xử theo
thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tưông thì cũng
người ta thường tình!", "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai". Hoạn Thư
khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc Sinh, làm Kiều ra đi một cách tự
nguyện.
Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp Sư trưởng Giác Duyên (duyên giác
ngộ?). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc Bà, một Phật tử thường hay lui tới
chùa. "Ai ngờ Bạc Bà cùng với Tú Bà đồng môn", Bạc Bà đã khuyên kiều lấy
cháu mình là Bạc Hạnh. Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào
lầu xanh.
Kiều gặp Từ Hải
Ở lầu xanh, Kiều "ngậm đắng nuốt cay" sóng cuộc sống ô nhục. Một ngày
đẹp trời, có mọt người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải, một hải tặc lừng
danh thời đó: "Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười
thước cao", tài năng phi thường "đường đường một đấng anh hào, côn quyền
hơn sức lược thao gồm tài". Hai bên đã phải lòng nhau và Từ Hải chuộc Kiều
về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại "động lòng bốn
phương", muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng
nhưng Từ Hải không cho đi:
Nàng rằng phận gái chữ tòng

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi
Từ rằng tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình
Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã "da mồi
tóc sương", còn em Thuý Vân chắc đang "tay bồng tay mang" vui duyên với
Kim Trọng.
Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu
quy.
5
Kiều báo thù
Lúc vui mừng cũng là lúc Thuý Kiều nghĩ đến những ngày "hàn vi", nàng kể
hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự "ân đền oán trả". Những Bạc Bà,
Bạc Hạnh, Sở Khanh, đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều
trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói "Rằng
tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình" nên được
tha. Sau đó Kiều có gặp sư Giác Duyên, được bà báo rằng 5 năm nữa hai
người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận nữa.
Kiều tự vẫn
Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ
đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày
mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống "an bình"
của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến
về thuyết phục Từ Hải ra hàng:
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định
lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã "chết đứng giữa đàng".
Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!

Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải "thị yến dưới màn", Thuý Kiều đã
khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận
cho "cảo táng di hình bên sông". Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng
phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều
cho người Thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã
nói với mình trong mộng "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau", nàng đã quyết
định nhảy xuống sông tự vẫn.
Kim Trọng đi tìm Kiều
Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia
đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:
6
Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê
Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặt của Kiều và
đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời
vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy "sâu duyên mới" nhưng chàng lại
"càng dào tình xưa". Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm
quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin
của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường. Ra đến sông, mọi
người gặp sư Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mang
về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, "mừng
mừng tủi tủi".
Tái hồi Kim Trọng

Sau 15 năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng
chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân
chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp
lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng
đáng với chàng nữa. Hai người trở thành bạn "chẳng trong chăn gối, cũng
ngoài cầm thơ".
Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến
lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Nguồn - INTERNET
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH
I. VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH
1. Đoạn trích nằm ở phần thứ 2 của tp phần gia biến và lưu lạc. Trước cảnh
này là sự kiện Kiều phải bán mình chuộc cha, bị MGS và TÚ Bà lừa gạt làm
gái lầu xanh. Kiều uất ức định tự vẫn, tú bà sợ mất món hời nên vờ hứa đợi
kiều bình phục sẽ gã chồng cho nàng. Sau đó tú bà đưa Kiều đến ở lầu ngưng
bích nhưng thực ra là giam lỏng nàng và chờ thực hiện 1 âm mưu mà mụ đối
với Kiều
7
- Còn tiếp theo đoạn này là Kiêuf bị sở khanh lừa gạt phải chấp nhận làm gái
lầu xanh
- Suy ra Đoạn trích nằm giữa 2 biến cố lớn của cuộc đời kiều, âm hưởng
chung của đoạn thơ là sự bàng hoàng, cô dơn của nhân vật trong hoàn cảnh
hiẹn tại; và cũng là dụe cảm đầy lo âu trc 1 tương lai bất đắc của kiều.

2. Đoạn thơ này cho ta thấy NT miêu tả nội tâm nhân vật qua bút pháp tả
cảnh ngụ tình đặc sắc của ND
3. Đoạn trích diễn tả sâu sắc tâm trạng cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ
chung, hiếu thảo của TK. Đồng thời qua đoạn trích này người đọc còn có thể
cảm nhận đc sự đồng cảm sâu sắc của ND đối vớ số phận và cảnh ngộ của
nàng kiều.
II. NT MT, KHẮC HOẠ NỘI TÂM NHÂN VẬT QUA BÚT PHÁP TẢ CẢNH
NGỤ TÌNH CUẢ NGUYỄN DU
1. Đó là 1 trong những thành công đặc sắc nhất của nghệ thuật xây dựng
nhân vật bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình.
2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình:
- Mượn cảnh vật để gửi gắm tâm trạng của nhân vật, cản ko chỉ là bức tranh
tâm trạng làm cho cảnh và tình thấm đượm và chuyển hoá lẫn nhau. Qua
cảnh để thấy đc cảm nhậ đc tâm trạng của nhân vật vì tâm trạng có cảnh ấy.
3. Những thành công của ND về mặt NT trong đoạn trích này: ND còn mt nội
tâm nhân vật TK. Thông qua ngôn ngữ độc thoại của nhân vật mà ND còn sử
dụng tài tình mối quan hệ giữa ngôn ngữ tác giả với ngôn ngữ nhân vật. CỤ
thể hoá các trạng thái của tâm trạng nhân vật.
4. Kết cấu đoạn trích.
- chia làm 3 fầm:+ 6 câu đầu: thiên nhiên trc lầu NB và cảnh ngộ, tâm trạng
bẽ bàng và tâm trạng cô đơn của Kiều
- 8 câu tiếp: Nỗi thương nhớ của Kiều dành cho KT và cha mẹ
- 8 câu cuối: Là tâm trạng buồn đau, âu lo của Kiều qua cách nhìn cảnh vật
xung quanh.
- Suy ra nhận xét: Kết cấu này tương đối hợp lí, chứng tỏ sự am hiểu tâm lí,
tình cảm con người của ND. Đồng thời nó góp phần diễn tả sâu sắc nỗi buồn
đau, cô đơn, lo âu , bế tắc của Kiều
5. 6 câu thơ đầu:
8
- thiên nhiên trong sáu câu thơ này đó là 1 thiên nhiên: rộng lớn, mênh

mông, hoang vắng được nhìn từ cảnh ngộ của Kiìêu.”khoá xuân “ bị
giam lỏng – tài hoa
- “vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” tạo ra cảm giác bất ngờ K/C ko
gian đc đo bằng tâm lý nhân vật diễn tả đc 2 điều
+ trăng vốn xa nay lại gần, núi gần lại xa gợi lên hình ảnh của lầu NB như
chơi vơi giữa mênh mông đất trời.
+ Từ lầu NB Kiều chỉ nhàin ta tứ phía chỉ thấy 1 ko gian mênh mông”bốn bề
bát ngát xa trông, cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” ko có bóng người chỉ
có n~ dãy núi mờ xa và có bụi mờ của n~ cồn cát và ko gian ấy gắn với thiên
nhiên ấy xuất hiện 2 tính từ: cát vàng, bụi hồng vậy mà thiên nhiên ấy ko
ấm áp hơn, ko rực rỡ hơn, ko sinh động hơn. Ngược lại màu sắc âý đi với ko
gian ấy lại đánh thức trong lòng người cái cảm giác trôi dạt, bơ vơ của kẻ tha
phương gữa mênh mang trời đất.
- thiên nhiên vốn hoang vắng ko bóng người nghĩa là lòng ngừơi hoang vắng,
điều đó gợi lên 1 cảm giác trơ chọi, cô dơn, bé nhỏ của Kiều trc thiên nhiên
ấy. Nói cách khác chính cảnh ngộ bẽ bàng của Kiều đã khiêếnKiều thấy thiên
nhiên mà sao lạnh lùng, sao mà hững hờvới thân phận chua xót của mình.
- Trong ko gian ấy cảnh ngộ bẽ bàng của Kiều, tâm trạng buồn tủi và cô dơn
của Kiều càng đc tô đậm. Làm bạn với nàgn chỉ có “mây sớm, đèn khua”, cái
cụm từ này nó gợi thức thời gian, nó diễn tình cảnh đơn lẻ, thui thủi 1 mình
của Kiều người đọc có cảm giác như bị tách biệt khỏi thế giới của con người.
4. Tám câu tiếp theo.
diễn tả nỗi thương nhớ của Kiều dành cho chàng Kim và cha mẹ. Trong nỗi
coo đơn đến buồn thảm của mình. Đặc sắc NT của ND thể hiện ở 8 câu thơ
này là ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật
- Ở tám câu thơ này ND đã khéo léo để Kiều nhớ KT trc nhớ chan mẹ sau.
Nỗi thương nhớ theo trật tự ấy hợp lí ở chỗ:
+ trước đó trong cơn gia biến Kiều đã phải hi sinh tình để làm trọn chữ hiếu
nàng đã chọn chữ hiếu, tự nguyện hi sinh tuổi xuân , ước mơ của mình để
cứu gia đình nhưng sâu thẳm trong trái tim nàng chữ tình vẫn luôn dang dở.

+ Chứng tỏ cái am hiểu của ND về tc và quý luật tâm lý của con người(cụ thể
hơn là tuổi trẻ).
- điều đáng quý ở đây là: trong hoàn cảnh cô dơn, bẽ bàng vậy mà ko xót
thương cho mình mà lại hướng long thương nhớ tới người thân đó chính
là đức hi sinh, lòng vị tha, sự chung thuỷ và lòng hiếu thảo của Kiều-
9
đây chính là nét đẹp tâm hồn của Kiều gián tiếp ngợi ca của ND đã
dành cho nàng Kiều
- Nhớ KT, thấu hiểu tâm trạng của KT bằng ngôn ngữ độc thoại của chính
Kiều Kiều hiẻu KT bằng chính nỗi thương nhớ mà Kiều dành cho KT.
nhớ kim trọng là nàg nhớ tới:+ Lời thề nguyện dưới trăng
+ nhớ và thương cảnh ngộ của KT
Suy ra từ nỗi nhớ KT mà kiều nhớ về mình. Kiều tự xem mình là người đang
ở chân trời, góc bể bơ vơ. “tấm son” Khẳng định trời, góc bể vơ vơ. Tấm
son khẳng định tấm lòng chung thuỷ mà kiều dành cho chàng Kim.
Lời than Kiều bị vùi dập, ko bít khi nào có thể gột rửa.
- Kiều nhớ cha mẹ đc diễn tả qua mấy cách nói uớc lệ và sách vở quen
thuộc của người xưa cái mới ở đây là nỗi thổn thức, xót xa của Kiều
+ ân hận
+ nhớ ơn
5. 8 câu thơ cuối
Là thành công của ND về bút pháp tả cảnh ngụ tình. Cảnh ở 8 câu thơ cuối
hoàn toàn # với cảnh 6 câu thơ đầu, nó ko còn là cảnh mây sớm đèn khua,
núi đồi hoang văng, cát vàng, bụi hồng mà là mặt biển, cảnh biển mênh
mông lúc chiều về. Cái # thứ 2 là trạng thái cảm xúc của nhân vật. Koá đến
4 cụm từ”buồn trông” đặt ở đầu câu mở ra 4 cặp lục bát và đó là 1 nỗi bùn
chất chứa tầng tầng , lớp lớp trong tâm hồn của Kiều. 8 câu thơ này là lời giải
bày của Kiều với trời, với biển. Tâm trạng của Kiều đồng hành cùng cảnh vật.
Ở đây là cảnh thực mà cũng là n~ hình ảnh ẩn dụ về kiếp người. Tất cả n~
cảnh ấy gõ cửa và tâm hồn Kiều mở ra đồng điệu để từ đó nỗi bất hạnh của

con người vang lên đau đớn, xót xa, bế tắc và vô vọng.Ngoại cảnh cũng
chính là tâm cảnh là như vậy.
- Buồn trông 4 cảnh, cảnh nào cũng buồn
- buồn trông lặp lại nhấn mạnh tâm trạng tất cả hình ảnh lọt vào
tầm nhìn của Kiều đều mang 1 nét nghĩa giống nhau : buồn thảm, trôi dạt,
vô định.
- Cái biến đổi của tâm trạng tầm nhì, hướng nhìn của Kiều nhìn về 4
hướng ở ngã nào cũng là nỗi buồn, ở ngã nào Kiêề cũng pải đối diện với
nỗi buồn. Nỗi buồn như kéo dài ra, triền miên và ko koá điểm dừng.
- Âm thanh duy nhất trong đoạn trích, tiếng vọng từ chính nội tâm của
Kìêu bế tắc của Kiều
- Ẩn chứ đằng sau đệp khúc nỗi bùn về tâm trạng, về thân fận là n~ câu
hỏi hỏi để cảm nhận rõ hơn thân fận nổi trôi và lạc loài của mình, n~ câu
hỏi có thể vang lên từ chính tâm hồn kiều.
10
= Ngôn ngữ tg hoà vào ngôn ngữ nhân vật tấm long cảu ND dành cho
những người tài hoa bạc mệnh 1 nét sâu sắc trong cảm hứng nhân đạo
của Kiều.
(Sưu tầm)
Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều.
Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một áng
văn chương tuyệt tác trong lịch sử văn học nước ta. Truyện Kiều có giá trị về
mọi mặt : tư tưởng , triết lý , luân lý , tâm lý và văn chương.
Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ
các bậc cao sang quyền quý , trí thức khoa bảng , văn nhân thi sĩ , cho đến
những người bình dân ít học , ai cũng biết đến truyện Kiều , thích đọc truyện
Kiều , ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.
Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị
văn chương lại giữ một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm

Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều
Nghệ thuật tả cảnh của ï Nguyễn Du nói chung rất đa dạng , tài tình và
phong phú. Chính Nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá
trị cho truyện Kiều.
Lối tả cảnh diễm tình .
Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan , man mác khắp trong truyện
Kiều . Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật
chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó.Nói một cách khác , Nguyễn Du tả cảnh mà
thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh
vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay
một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ
quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn
các thi nhân khác , kể cả những thi sĩ Tây Phương , vốn rất thiện nghệ trong
lối tả cảnh ngụ tình . Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều , nghĩa là chỉ
tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào
, còn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa
đưa tâm hồn đến với cảnh , tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa
cảnh và người , giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một
mà hai
Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về , tới bên chiếc cầu bắc ngang
11
một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên , thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy
nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà :
“Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng
của dòng nước trôi dưới chân cầu.

Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa
tỉnh nửa mê, chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:
‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”
Chàng biếng nhác cả việc sách đèn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng
gió quạnh hiu phập phồng qua màn cửa :
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng
sông kia bỗng sao trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Một đoạn tả cảnh khác , tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim
Trọng sau khi hộ tang cha , về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người
xưa nay còn thấy đâu , chỉ còn cảnh vườn hoang cỏ dại lạnh lùng dưới ánh
trăng.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
Lần thứ hai , Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì
cảnh nhà bây giờ thật sa sút , sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới
cơn mưa , tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng:
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường
Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích , nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm ,
với những cánh buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định
hướng của mình :
Buồn trông cửa biển chiều hôm
12

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri , thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là
vui mà buồn hiu hắt như hàng lau bên vệ đường:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu
Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà , thì cảnh một đêm thu có trăng sáng ,
nhưng cũng lạnh lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều :
Lối mòn cỏ nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Lúc thất vọng não nề , muốn gieo mình xuông sông Tiền Đường cho rũ nợ
trần, tâm sự Kiều cũng như mảnh trăng sắp tàn , chẳng còn chút gì lưu luyến
nơi thế gian:
Mảnh trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Lối tả chân.
Ngoài lối tả cảnh diễm ï tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều
bằng nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh
đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu
mộng được viết theo lối văn tinh xảo .Chỉ cần một vài nét phác họa với
những điểm chính hiện hữu .
Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn , vừa giản dị ,
mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái
tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa

Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên
mặt sông êm ả :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng
13
Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung
cảnh đẹp mộng thơ :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm
đạm : cơn gió đìu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo
sương chiều :
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt , mà
đường tới thì quanh co theo giải sông ,có khu rừng lau như cách biệt với cuộc
sống rộn rã bên ngoài :
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản
đã có nhận định như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những
bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu
nhung” ( Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)
Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước , đẹp lãng
đãng như nỗi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ
lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng , nước và sân nhà đã đủ diễn tả một
khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh :
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước , cây lồng bóng sân
Lối tả cảnh tượng trưng:

Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ
dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển
chuyển và tinh tế .
Hãy nghe hai câu thơ :
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai lạnh lùng
Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh.
Lối tả cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của
14
mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách
tượng trưng bằng những vần thơ . Mãi đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế
kỷ 19 , lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các
nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà
Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để
rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé ( luận giải của Giáo Sư Hà
Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận ) . Trong hai câu thơ trên, “một
trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la , trong khi bốn chữ “
riêng ai một mình”lại chỉ một phạm vi nhỏ bé , một tâm tình đơn lẻ cá nhân.
Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như :
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình
Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên
nhà để rồi chuyển sang , ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô đơn. (
Cần chú ý thêm là cách dùng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn
Du , với chữ “ nghiêng và “riêng”được lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm
thấy hay .)
Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , nghĩa là
đem tấc lòng nhỏ bé của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn
của trời đất.

Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người , nhưng đã làm ảm đạm cả
một vùng cảnh vật chung quanh.
Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời , mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống
dòng bao la của sông Tiền Đường :
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã
viết: “ tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”
Lối tả cảnh dùng màu sắc.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc
như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố
15
cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự c pha chế sao cho làm nổi được
cảnh chính và cảnh phụ .
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy
màu sắc của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt
bao la, nổi những bông hoa lê trắng tinh . Chỉ có hai màu xanh và trắng như
nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh Minh . Ở đây cũng
cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “ cành lê điểm một
vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bông
hoa” . Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật
“bằng trắc” của thơ lục bát , nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo
chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được .
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa , nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình

cạnh màu nước trong:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.
Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm , chỉ có màu nâu của đất , màu
xanh vàng của cỏ úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên:
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt
là của hoàng hôn ,của cây cỏ , của trăng và của nước là những màu sắc thi
vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm , cũng chỉ vì truyện
Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như
sau :” Nguyễn Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng
ấy , mà lại còn tả một cách gián tiếp , cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn
cỏ , lá cây mặt nước,đỉnh núi ”(Việt NamThiVăn Giảng Luận)
Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe
trong mùa hạ , khi mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi
một đêm trăng :
16
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông
Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.
Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý , nhưng gặp
phải cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn , đã phải về
quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đã trải qua những ngày sống trong
phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên trong tâm hồn đã
thu nhập được hai cảnh sống . Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó ,

nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều , cụ có khi dùng
những chữ thật trang nhã quý phái , có khi lại dùng những chữ thật giản dị
bình dân.
Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở
trên, thiết tưởng chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất
bình dân mà Nguyễn Du dùng trong lúc tả cảnh.
Ví dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hoàng hôn , Nguyễn
Du dùng hai chữ “tà tà “ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều
thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt
trời chiều:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “ sè sè “
bên đường, chen lẫn vài ngọn cỏ úa :
Sè sè nắm đấ bên đường
Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rồi ngọn gió gọi hồn “ ào ào “ thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi :
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng , chỉ
thấy cánh én xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy .
Và đêm xuống ánh trăng soi “ quạnh quẽ “ lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ
còn là những cọng cỏ dại mọc lưa thưa:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời
17
Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân
một cách tài tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội

đón nhận thưởng thức một cách nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình dân
đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam trên con đường xa
dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà ï Nguyễn Du đã tiên phong dấn
bước.
Lối dùng điển tích trong tả cảnh .
Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình.
Nhưng khác với những nhà thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vì chưa tìm
được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du thì khác , cụ đã dùng
điển tích để “ làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự nhiên,
không cầu kỳ thắc mắc “như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi
Văn Giảng Luận) Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính
đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam , thậm chí nhiều điển
tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam , mà nói tới ai ai cũng hiểu ý
nghĩa đại cương của nó . Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà
Đông, kết cỏ ngậm vành , mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành v v .
Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình ,
tả tâm trạng , tả tiếng đàn , trải dài trong suốt truyện Kiều .
Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp
nhiều điển tích cho lắm . Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.
Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh
phản chiếu ánh trăng ngà :
“ Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân ”
“Gương Nga”chỉ mặt trăng , do tích Hằng Nga , mỹ nhân , vợ của Hậu Nghệ ,
đánh cắp và uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương
Mẫu . Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng . Từ đó người ta thường gọi
mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng , chị Nguyệt .
Hai câu thơ khác :
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan

Sông Tần lấy từ câu “ dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý nói ở xa
nhìn nước sông Tần như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải xa ở
phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự
nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm
vợ cũ là Hoạn Thư.
18
Hay:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Chữ Khóa Xuân lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt
trại Xích Bích , nên Đài Đồng Tước không bị cháy , nhưng chính vì đó mà đã
khóa chặt tuổi xuân hai chị em tên Đại Kiều và Tiểu Kiều ,một người vợ Tôn
Sách và một người vợ Châu Du
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều .
Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi
xuân của Thúy Kiều.
Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều , nhưng nàng đã
không còn ở đó, chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn
biệt gió đông:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường , trở về Đào Hoa
Trang để thăm người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong
lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn còn
đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới nắng xuân . Thôi Hộ
đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn :
Nhan diện bất tri hà xứ khứ ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong
Kết luận .

Tóm lại , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là muôn hình vạn trạng .
Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc , nhiều
khi chỉ một mảnh trời , một ánh trăng, một cành liễu , một dòng nước hay
một áng mây hoàng hôn v vv . Chỉ thế thôi , nhưng chữ dùng về màu sắc
và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc ,
như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là
Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một
“hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không
khỏi bồi hồi tấc dạ Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới
mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện
Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay
nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
19
Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “ Chúng ta sở dĩ yêu
chuộng truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời ,
mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung
động tâm hồn ta ” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều)
Thật đúng như vậy , những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc
truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì
chúng ta đã từng có những cảm giác này . Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với
thời gian và không gian , từ thế hệ này qua thế hệ khác , lúc nào cũng được
mọi người trân trọng và yêu mến .
( Nguồn - Internet)
Truyện Kiều - Nguyễn Du. (P1- Chị em Thuý Kiều)
TRUYỆN KIỀU – NGUYỄN DU
I.Nguyễn Du
1.Nguyễn Du ( 1765 – 1820 ), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh
Hiên; quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh
trưởng trong một gia đình đại quí tộc có truyền thống văn học
và nhiều đời làm quan.

2.Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động
dữ dội: Xã hội phong kiến Việt Nam bước vào thời kì khủng
hoảng sâu sắc, phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tục
mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. Phong trào
nông dân Tây Sơn thất bại, chế độ phong kiến triều Nguyễn
được thiết lập.
3.Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống nhiều năm phiêu bạt
trên đất Bắc( 1786 – 1796 ) rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh
( 1796 – 182). Sau khi Nguyễn ánh lên ngôi, Nguyễn Du ra làm
quan bất đắc dĩ với triều Nguyễn. Năm 1813 – 1814, ông được
cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, năm 1820 khi chuẩn bị làm
chánh sứ sang Trung Quốc lần thứ hai, nhưng chưa kịp đi thì
ông bị bệnh và mất tại Huế.
4.Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hoá
dân tộc và văn chương Trung Quốc. Cuộc đời từng trải, đi
nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho ông một vốn sống phong phú
và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ
20
nghĩa lớn.
5.Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có
giá trị lớn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán Nguyễn Du
có ba tập thơ ( Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc
hành tạp lục ) với tổng số 243 bài. Về chữ Nôm xuất sắc nhất là
Đoạn trường tân thanh, thường gọi là Truyện Kiều, ngoài ra còn
có Văn chiêu hồn.
II.Truyện Kiều
1.Nguồn gốc Truyện Kiều: Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa
theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân
( Trung Quốc ). Nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức

lớn, mang ý nghĩa quyết định đến sự thành công của tác phẩm.
2.Tóm tắt Truyện Kiều ( SGK )
Truyện Kiều bao gồm 3254 câu thơ lục bát và được chia làm 3
phần;
-Gặp gỡ và đính ước
-Gia biến và lưu lạc
-Đoàn tụ
2.Giá trị nội dung và nghệ thuật
a.Nội dung: Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một
xã hội bất công, tàn bạo, là tiếng nói thương cảm trước số phận
bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực
xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và
những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về
quyền sống, khát vọng tự do, công lí, khát vọng tình yêu, hạnh
phúc…
b.Nghệ thuật: Tác phẩm là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật
văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ và thể loại. Với
Truyện Kiều, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã
đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển
vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn truyện đến nghệ thuật miêu tả
thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí con người.
21
CHỊ EM THÚY KIỀU
1.Vị trí và đại ý đoạn trích
a.Đoạn trích Chị em Thúy Kiều gồm 24 câu thơ, nằm ở phần mở
đầu ( Gặp gỡ và đính ước )
b.Đoạn trích miêu tả hai bức chân dung xinh đẹp của Thúy Vân
và Thúy Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều nhân vật trung tâm của tác
phẩm. Đồng thời cũng dự báo tương lai sáng sủa của Thúy Vân

và số phận hồng nhan bạc mệnh của Thuý Kiều.
2.Phân tích đoạn thơ
a.Ở bốn câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu hai người con gái đẹp,
đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại
Đầu lòng hai ả tố nga
…Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Cả hai chị em đều xinh đẹp: vóc dáng thanh cao cốt cách như
mai, tinh thần trong trắng như tuyết. Vẻ đẹp ở mỗi người đều
có những nét riêng, và đều đạt dến độ hoàn mĩ “ Mỗi người một
vẻ, mười phân vẹn mười”. Tác giả dùng tiểu đối, dùng những
hình ảnh tượng trưng, phép ẩn dụ ( mai, tuyết ) làm cho câu
thơ vừa đẹp vừa có sức gợi cảm.
b.Chân dung Thúy Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Chân dung Thúy Vân được nhà thơ miêu tả chỉ có bốn câu.
Trong bốn câu đó, ta thấy một sự miêu tả tinh tế và toàn vẹn,
từ khuôn mặt, màu da, mái tóc, nụ cười và phong thái ứng xử.
Nàng có khuôn mặt đầy đặn, sáng sủa như mặt trăng tròn, lông
mày đẹp như mày con ngài, miệng cười tươi như hoa, tiếng nói
trong như ngọc, tóc óng ả hơn cả mây, da trắng hơn cả tuyết.
Bằng cách sử dụng sáng tạo những biện pháp nghệ thuật có
tính ước lệ…tác giả đã khắc hoạ một Thúy Vân xinh đẹp, thuỳ
mị, đoan trang, phúc hậu, tròn trịa, khiêm nhường. Từ thông
22
điệp nghệ thuật ( ngôn ngữ, hình tượng ) này, Thúy Vân tất sẽ
có trong tương lai một cuộc sống yên vui, hạnh phúc.
c.Chân dung Thúy Kiều:

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Kiều có đôi mắt sáng trong như làn nước mùa thu, lông mày
xinh tươi như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp “ sắc sảo mặn mà”
của Kiều làm cho hoa liễu phải hờn ghen, nước thành nghiêng
đổ. Đẹp như thế là tuyệt thế giai nhân, trên đời không ai sánh
bằng “ Sắc đành đòi một”, khác và cũng hơn hẳn cái đẹp đoan
trang, phúc hậu của Thúy Vân.
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Kiều còn là cô gái thông minh và rất mực tài hoa. Nàng có tài
thơ, tài hoạ, tài đàn, tài nào cũng siêu tuyệt : “ Thông minh vốn
sẵn tính trời. Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Nhưng nhan
sắc đến nỗi chim sa cá lặn, hoa liễu phải hờn ghen, nước thành
nghiêng đổ, thì sẽ có thể vì đố kị mà bị trả thù. Tài hoa trí tuệ
thiên bẩm ( làu bậc, đủ mùi ) , cái tâm hồn đa sầu đa cảm của
nàng cũng khó tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã. Đặc biệt là
cung đàn “ bạc mệnh” do chính tay nàng lựa đầy sầu não khổ
đau. Cũng như đoạn thơ tả Vân, đoạn thơ tả Kiều, chức năng dự
báo còn phong phú và rõ rệt hơn, dự báo tấn bi kịch “ hồng
nhan bạc mệnh” không tránh khỏi suốt mười lăm năm chìm nổi
của Thúy Kiều.
d.Kết thúc đoạn thơ là bốn câu miêu tả cuộc sống phong lưu
khuôn phép và đức hạnh của hai chị em Kiều
Phần có ý nghĩa sâu sắc của đoạn trích không chỉ là chân dung
Thúy Vân, Thúy Kiều đã được khắc hoạ tài ba sắc nét, mà còn
là những tín hiệu ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật báo trước
cuộc đời, số phận khác biệt của hai chị em.
Nguồn: Sưu tầm
Truyện Kiều - Nguyễn Du. (P2- Mã Giám Sinh mua Kiều)

MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU
23
1.Tìm hiểu vị trí đoạn trích
- Đoạn thơ thuộc phần Gia biến và lưu lạc trong kết cấu Truyện
Kiều, mở đầu kiếp đoạn trường của người con gái đầu lòng họ
Vương
- Có thể tóm tắt sự việc chính dẫn đến cảnh Mã Giám Sinh mua
Kiều: Gia đình Kiều bị tên bán tơ vu vạ, cha và em bị bắt giữ, bị
đánh đập dã man, nhà cửa bị sai nha lục soát, vơ vét hết mọi
của cải. Thúy Kiều quyết định bán mình để cứu cha và gi đình
thoát khỏi tai họa. Được mụ mối mách bảo Mã Giám Sinh tìm
đến mua Kiều.
2.Phân tích nhân vật Mã Giám Sinh
- Về diện mạo và cử chỉ: vẻ ngoài thì trải chuốt mà lố lăng,
không phù hợp, tuổi ngoài bốn mươi mà vẫn “ mày râu nhẵn
nhụi, áo quần bảnh bao”. Cách nói năng của Mã Giám Sinh thì
cộc lốc vô lễ: “ Hỏi tên, rằng…- Hỏi quê rằng…”. Câu trả lời
nhát ngừng không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi, đó chỉ có
thể là lời của những kẻ vô học hoặc hợm của, cậy tiền. Cử chỉ
thái độ thì bất lịch sự đến trơ trẽn, hỗn hào: “ Ghế trên ngồi tót
sỗ sàng”. “ Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc
cao niên huynh trưởng đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là hàng con cái
mà lại “ ngồi tót” thì thật chướng mắt vô lễ.
- Về bản chất, Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con
buôn lưu manh với đặc tính giả dối bất nhân và vì tiền
+ Giả dối từ lai lịch xuất thân mù mờ, giới thiệu là khách
phương xa ( viễn khách ) mà lại xưng quê “ cũng gần”. Đến
tướng mạo, tính danh cũng giả dối, tuổi tác đã nhiều nhưng lại
cố tô vẽ cho trẻ ra, ra vẻ thư sinh phong lưu, lịch sự mà “ trước
sau tớ xôn xao” rất láo nháo ô hợp.

+ Bản chất bất nhân vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh
mua bán Thúy Kiều. Bất nhân trong hành động, trong thái độ
đối xử với Kiều như một đồ vật đem bán, cân đong, đo đếm cả
nhan sắc và tài hoa: “ Đắn đo cân sắc cân tài”. Bất nhân trong
tâm lí lạnh lùng, vô cảm trước gia cảnh của Kiều và tâm lí mãn
24
nguyện, hợm hĩnh: “ Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” . Bản
chất vì tiền trong hành động mặc cả keo kiệt, đê tiện: “ Cò kè
bớt một thêm hai”. Nếu trước đó, khi giành ghế trên hắn vội
vàng “ ngồi tót” thì lúc mua Kiều, hắn lại hết sức chậm rãi, tính
toán chi li, hết “ đắn đo”, hết thử tài lại “ cò kè” thêm bớt. Câu
thơ: “ Cò kè bớt một thêm hai” gợi cảnh kẻ mua người bán đưa
đẩy món hàng, túi tiền được mở ra, thắt vào lại nâng lên đặt
xuống.
- Mã Giám Sinh hiện lên qua ngôn ngữ miêu tả trực diện của
tác giả. Hình ảnh nhân vật phản diện được miêu tả bằng bằng
nét bút hiện thực, hoàn chỉnh cả về diện mạo và tính cách.
Nhân vật Mã Giám Sinh được khắc hoạ thật cụ thể, sinh động,
đồng thời lại mang ý nghĩa khái quát về một loại người giả dối,
vô học bất nhân
3.Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
Thúy Kiều tội nghiệp vì nàng là một món hàng đem bán và
càng tội nghiệp hơn khi nàng ý thức được nhân phẩm
- Là một món hàng, Kiều buồn rầu, tủi hổ, sượng sùng trong
bước đi “ngại ngùng”, ê chề trong cảm giác “ thẹn” trước hoa,
và “ mặt dày” trước gương.
- Là một người ý thức được nhân phẩm, Kiều đau uất trước
cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới “ nỗi mình” tình duyên
dang dở, uất bởi “ nỗi nhà” bị vu oan giá họa. Bao trùm tâm
trạng Kiều là sự đau đớn tái tê: “ Thềm hoa một bước, lệ hoa

mấy hàng”.
4.Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện qua đoạn
trích
- Tác giả tỏ thái độ khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn
người, đồng thời tố cáo thế lực đồng tiền chà đạp lên con người
+ Thái độ khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn người của
Nguyễn Du thể hiện qua cách tác giả miêu tả Mã Giám Sinh
qua cái nhìn mỉa mai, châm biếm, lên án: bộ mặt mày râu nhẵn
nhụi cho thấy sự thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót
rất trai lơ. Hai từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ tráo,
25

×