Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Xây dựng Website bán giầy dép qua mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 144 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Trong sự phát triển không ngừng của xã hội thì nhu cầu của con người về cuộc
sống ngày càng cao.Từ ý nghĩa thực tế đó mà đã nảy sinh ra nhiều loại hình dịch vụ
để phần nào đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của con người. Các dịch vụ đó đa
dạng về nhiều mặt với nhiều cách đáp ứng khác nhau. Và một loại hình dịch vụ khá
phổ biến hiện nay đó là bán hàng qua mạng.
Nếu như trước đây máy tính trở nên xa lạ với mọi người thì ngày nay máy tính
trở thành một người bạn đắc lực không thể thiếu. Người ta có thể thông qua máy tính
làm được mọi chuyện tưởng như là không thể, không những thế mà hiệu quả công
việc còn rất cao nó thể hiện như độ chính xác nhanh chóng và thuận tiện.
Những minh chứng cho sự tiện lợi của máy tính được thông qua dịch vụ mua
bán trên mạng. Mặc dù dịch vụ mua bán này đối với các nước phát triển trên thế giới
không phải là mới mẻ gì. Tuy nhiên ở Việt Nam ta nó là bước đi chập chững ban đầu.
Khi vào với dịch vụ mua bán qua mạng, người ta thấy được sự tiện lợi mà
nhiều dịch vụ khác không có được, tạo cho con người có sự tin cậy, mà nhất là trong
xã hội ngày nay khi con người lấy công việc làm nền tảng cho sự phát triển thì dịch
vụ mua bán qua mạng ngày càng phát huy được thế mạnh của nó.
Mua bán được hoạt động với nhiều hình thức khác nhau nhưng để có một dẫn
chứng cụ thể nói lên sự tiện lợi này trong khuân khổ của một đề tài luận văn tốt
nghiệp tôi xin xây dựng và cài đặt một hệ thống mua bán sản phẩm giầy dép qua
mạng. Nhiệm vụ chính của tôi là xây dựng còn sự tiện lợi của nó chỉ khi dùng đến nó
thì mới có thể biết hết được.
Mục đích của tôi khi xây dựng nên một ứng dụng bán hàng qua mạng với
phương thức thanh toán có thể là tiền mặt, thẻ tín dụng, chuyển khoản,…thông qua
các hệ thống ngân hàng.
Ý tưởng là như vậy tuy nhiên không có môi trường thử nghiệm cho ứng dụng.
Vậy cho nên tôi chỉ mô phỏng quá trình thanh toán mà thôi, trên thực tế để xây dựng
tốt ứng dụng thì phức tạp hơn nhiều và cần nhiều sự hỗ trợ.

Trang 1
Hiện nay với sự phát triển vượt bậc của ngành CNTT, một công nghệ mới


đang được đưa vào ứng dụng đó là dùng giao thức WAP để xây dựng mạng không
dây. Như thế dù ở bất cứ đâu chúng ta chỉ cân một chiếc mobile là có thể truy cập vào
mạng Internet một cách dễ dàng. Đây cũng là một điều thúc đẩy hay gợi ý lớn để tôi
tiếp tục xây dựng nên website này ngày một hoàn thiện hơn về phương thức thanh
toán cũng như phương thức giao dịch qua mạng.
Xây dựng Website bán giầy dép qua mạng

Trang 2
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
I. Giới thiệu về đề tài.
Ngày nay công nghệ thông tin đã có những bước tiến phát triển mạnh mẽ về
cả chiều sâu và chiều rộng. Máy tính điện tử giờ đây không còn là thứ quý hiếm mà
đang ngày càng trở thành một công cụ làm việc và giải trí của con người. Những năm
gần đây, việc cập nhật các thông tin cũng như thực hiện các giao dịch qua mạng
internet ngày càng trở nên phổ biến. Và một loại hình kinh doanh qua hiện nay khá
phổ biến đó là buôn bán qua mạng. Hình thức kinh doanh này mang lại rất nhiều lợi
ích cho người tiêu dùng cũng như nhà cung cấp. Phần lớn khách hàng có nhu cầu
mua hàng thì phải đến các cửa hàng, siêu thị hay các trung tâm thương mại để lựa
chọn những mặt hàng hợp với nhu câu của minh. Công việc này tốn kém nhiều thời
gian và chi phí đi lại cho người tiêu dùng, đôi khi khách hàng còn mua phải hàng kém
chất lượng. Tất cả những bất cập đó sẽ được loại bỏ với sự ra đời của website bán
hàng qua mạng. Khi khách hàng có nhu cầu mua hàng, dù ở nhà hay công sở hay bất
cứ nơi đâu có mạng internet, khách hàng chỉ cần truy cập vào những trang web bán
hàng qua mạng là có thể tìm kiếm được nhũng mặt hàng mà mình muốn mua, khách
hàng có thể thực hiện các thủ tục được hướng dẫn trên trang web là có thể mua được
hàng, nhân viên của công ty đó sẽ giao hàng đến tận nơi cho khách hàng. Ngoài
những lợi ích mà Internet mang lại cho người tiêu dùng nó còn giúp cho nhà cung cấp
phát triển rất nhiều trong việc mở rộng thị trường, giúp thương hiệu của công ty được
nhiều người biết đến, từ đó giảm được rất nhiều chi phí quảng cáo cho sản phẩm và
rất thuận tiện trong việc quản lý sản phẩm và chăm sóc khách hàng theo đúng phương

trâm đặt ra.
Để tiếp cận và góp phần đẩy mạnh sự phát triển của thương mại điện tử ở
nước ta, tôi đã tìm hiểu và xây dựng website bán giầy dép qua mạng.
II. Lựa chọn công cụ thực hiện.
Việc lựa chọn công cụ là vô cùng quan trọng. Trước hết nó phản ánh mức độ hiểu
biết vấn đề của người giải quyết bàitoán sâu sắc đến đâu, ta cần phải nắm rõ những

Trang 3
đặc trưng của bài toán, cân nhắc những điểm mạnh yếu của môi trường xung quanh
bào toán để lựa chọn được công cụ phù hợp. Hơn nữa, công cụ thực hiện sẽ quyết
định điểm mạnh yếu của chương trình xây dựng trên đó.
Để xây dựng một phần mềm thì cần hai công cụ chính đó là:
• Hệ quản trị CSDL: để xây dựng và quản lý dữ liệu cho hệ thống
• Ngôn ngữ lập trình: để xây dựng chương trình.
Trước đây, các ứng dụng về cơ sở dữ liệu hầu hết được xây dựng trên hệ quản
trị truyền thống là Foxpro (bao gồm những phiên bản như Foxpro for Dos, Foxpro for
Windows và mới đây là Visual Foxpro) hoặc Acess, các công cụ này rất mạnh trong
phạm vi những ứng dụng nhỏ. Hiện nay xuất hiện thêm nhiều hệ quản trị mới phát
huy khả năng trong các ứng dụng lớn: SQL Server hay Oracle. SQL Server là hệ quản
trị cơ sở dữ liệu được phát triển trong môi trường tính toán phía máy chủ trong thập
kỷ 90, bắt đầu với mô hình truyền thống client/server và hiện nay đang phát triển với
các xu hướng công nghiệp. Gần đây, SQL Server được điều chỉnh để thích nghi với
các vai trò khác của server, bao gồm Internet, các ứng dụng phân tán. SQL Server có
khả năng thực hiện các câu hỏi với các nguồn dữ liệu phân tán. Như vậy SQL -Server
là một hệ quản trị cơ sở dữ liệu mạnh, tuy nhiên yêu cầu cấu hình của nó là có thể
đáp ứng được (cấu hình tối thiểu cho hệ thống cài đặt SQL -Server là 64 MB RAM,
250 MB HDD) và hơn nữa, nó dễ sử dụng, dễ quản trị hơn Oracle. Do vậy, SQL
-Server được chọn làm hệ quản trị cơ sở dữ liệu cho đồ án.
Hiện nay, làn sóng các công nghệ Web đang hết sức sôi động với rất nhiều
công nghệ Web mới: ASP, ASP.NET, PHP, JSP,... Và trong đồ án này đã sử dụng

ngôn ngữ ASP để xây dưng Website bán hàng qua mạng, mặc dù ASP không phải là
một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng trong khi tài liệu phân tích chúng em lựa
chọn phương pháp là phân tích và thiết kế hướng đối tượng, thực ra thì nếu chọn cách
phân tích và thiết kế hướng đối tượng thì nên chọn ngôn ngữ lập trình là hướng đối
tượng như Java, C++, nhưng cũng có một số ý kiến như Stephen R.Chach trong
quyển Object - Oriented and Classical Software Engineering và E.M.Bennatan trong

Trang 4
quyển Software Project Management, a practitioner’s approach đã được dịch bởi
PGS. Nguyễn Quốc Toản, Đại học Quốc gia Hà Nội, với tiêu đề “ Quản lý dự án
phần mềm, một cách tiếp cận cho người thực hành ” cho rằng không nhất thiết là phải
chọn ngôn ngữ lập hướng đối tượng cho thiết kế hướng đối tượng bởi vì bản chất của
việc phân tích thiết kế là thể hiện quan điểm nhìn nhận hệ thống. Một phần mềm bất
kỳ bao giờ cũng gồm hai loại thành phần: các hành động và dữ liệu. Với kỹ thuật cấu
trúc (Structured technique) thì chỉ lấy một trong hai yếu tố trên làm tiêu chuẩn để
phân chia hệ thống thành các thành phần. Điều khác biệt của kỹ thuật hướng đối
tượng so với kỹ thuật cấu trúc là xem vai trò hành động và dữ liệu là ngang nhau và
cả hai cùng tham gia vào việc phân chia hệ thống. Tuy nhiên để việc phân chia có ý
nghĩa, các hành động và dữ liệu được nhóm lại thành các lớp, sao cho lớp mang một
ý nghĩa nào đó trong thực tế. Một cách tự nhiên, người ta thấy rằng các lớp sao cho
nó đại diện cho các đối tượng trong thực tế. Với cách nhìn nhận như vậy thì có thể
tiến hành phân tích và thiết kế hướng đối tượng mà không cần dựa vào một ngôn ngữ
lập trình hướng đối tượng cụ thể. Chúng ta có thể cài đặt bằng một ngôn ngữ lập trình
khác miễn sao các biểu đồ trong phân tích thiết kế vẫn có thể được sử dụng để kiểm
tra chương trình, việc lập trình thực hiện đúng những công việc mà phân tích thiết kế
yêu cầu. Lúc này lớp trong lập trình có thể là một khối công việc thực hiện đúng
những gì mà lớp trong thiết kế đòi hỏi. Chính vì thế mà là ngôn ngữ ASP được em
lựa chọn để xây chương trình vì ASP là một công nghệ rất mạnh để tạo ra các trang
HTML động cho Website, ASP có thể thực thi được trên nhiều platform:
Windows...Trong phần sau sẽ trình bày cụ thể về cơ sở lý thuyết và đặc điểm của các

công cụ để xây dựng hệ thống.

Trang 5
III. Nội dung báo cáo.
Mở đầu:
Phần mở đầu sẽ giới thiệu sơ qua về nội dung, mục đích và lý do để thực hiện đề tài,
lựa chọn các công cụ để thực hiện đề tài.
Phần I: Tổng quan về cơ sở lý thuyết.
Phần này trình bày các kiến thức cơ bản về Internet và Word Wide Web, thương mại
điện tử, các ngôn ngữ lập trình web: HTML, DHTML, JavaScript, ASP, các mô hình
cơ sở dữ liệu trên mạng, khái niệm, đặc điểm, cách sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu
SQL Server và tìm hiểu đôi nét về Internet Information Server và tổng quan về UML.
Đó là các công cụ chủ yếu để xây dựng chương trình bán giầy dép qua mạng.
Phần II: Phân tích và thiết kế chương trình.
Trong phần này, trình bày quá trình phân tích khảo sát các hoạt động thực tế.Qua
phần tìm hiểu thực tế, chúng ta sẽ có cái nhìn khái quát về hệ thống hiện tại và có thể
đưa ra các nhận xét, đánh giá về những ưu điểm, nhược điểm, và những vấn đề còn
tồn tại trong hệ thống hiện tại, cả nhũng nhu cầu đối với hệ thống mới cần xây dựng.
Từ đó có thể đưa ra các thiết kế cho hệ thống mới.
Kết luận và hướng phát triển: Đưa ra các đánh giá, nhận xét về hệ thống, các
vấn đề giải quyết được, các vấn đề còn tồn tại. Đồng thời đưa ra hướng phát triển
của đề tài trong tương lai.
Phần III: Cài đặt và triển khai website.
Giới thiệu về các yêu cầu hệ thống và các tính năng của website vừa xây dựng.

Trang 6
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ WORD WIDE WEB.
I.1.1 Lịch Sử.
Web được sinh ra bởi Internet, và nó cho thấy khả năng tự trị và giới hạn của

kiến trúc Internet. Ngày nay, các chương trình duyệt Web có khả năng truy cập vào
các công nghệ Internet khác nhau như: Email, Word Wide Web… Nhưng Web và
Internet không chỉ là một ngành kỹ thuật mà đó là môi trường để con người liên lạc
học tập, và tác động qua lạinhau trong cùng một môi trường văn hóa.
Năm 1926, Paul Baran mô tả trên giấy lời giải một vấn đề làm đau đầu cácnhà quân
sự lúc bấy giờ, tựa:”liên lạc phân tán qua mạng”. Anh ta đưa ra một hệ thống máy
tính rộng khắp đất nước kết nối lại với nhau sử dụng hệ thống mạng không tạp trung
(decentralize) do đó nếu một hay nhiều node mạng chính bị phá huỷ thì các node còn
lại vẫn tự động điều chỉnh các kết nối để duy trì việc liên lạc.
Do mạng là không tập trung (decentralize), nên ta có thể thêm vào một máy
tính thông qua đường dây điện thoại, một thiết bị phần cứng, và một số phần mềm
NCP (netword control protocol), ví dụ mạng ARPAnet.
Một ứng dụng chính được phát triển đầu tiên trên ARPAnet là thư điện tử
(electronic mail). Ngày nay, email là một phần không thể thiếu được của Net và nó
được thiết kế sẵn trong các trình duyệt Web ( ví dụ như Netscape) do đó một chương
trình đơn lẻ để xem email là không cần thiết.
I.1.2 Giao thức TCP/IP
Vào những năm 1970, nhu cầu trao đổi truyền tin trên các mạng phân biệt có
“ngôn ngữ” khác biệt nhau là cần thiết. Năm 1974, Vint Cef và Bob Kahn đã đưa ra
việc thiết kế chi tiết cho một protocol để liên lạc giữa các mạng khác nhau. Đến năm
1982, việc thiết kế này được cài đặt và được gọi là TCP/IP (Transmission control
protocol/ Internet protocol).

Trang 7
Phần TCP của giao thức TCP/IP cung cấp cơ chế kiểm tra việc truyền dữ liệu
giữa Client và Server. Nếu dữ liệu bị mất hay hỏng TCP sẽ yêu cầu gửi lại dữ liệu
cho đến khi hết các lỗi.
Phần IP trong giao thức TCP/IP di chuyển dữ liệu từ node này sang node
khác.Nó sẽ giải mã các địa chỉ và tìm đường để đưa dữ liệu đến đích. Nó có thể sử
dụng bởi các máy tính nhỏ để liên lạc trên các mạng LAN (ethernet hay token ring)

có thể sử dụng cả giao thức khác nhau như novel hay window for workgroups.Một
máy tính có thể ở mạng LAN và sử dụng TCP/IP để kết nối với các máy khác trên thế
giới.
Bộ quốc phòng Mỹ nhanh chóng định nghĩa TCP/IP như protocol chuẩn cho
các hệ thống liên mạng quân sự. Tuy nhiên với ưu thế của mình TCP/IP nhanh chóng
thâm nhập và trở thành chuẩn mới cho tất cả các hệ thống mạng dân dụng và là tiền
đề cho mạng Internet ngày nay.
Telnet
TCP/IP cung cấp khả năng login từ xa thông qua giao thức của telnet, với
telnet, User có thể liên kết và tìm thông qua các thư mục trên một hệ thống ở xa và
chạy các chương trình.
I.1.3 Giao thức FTP
File transfer protocol: là một phần mềm (sofware) cho phép truyền file nhị
phân hoặc file tẽt từ một máy này sang máy khác trên Internet, hay nóikhác hơn, FTP
là dịch vụ (service) cho phép chúng ta sao chép một file từ bất kỳ Internet host này
đến bất kỳ Internet host khác.
Giống như những dịch vụ khác trên Internet, FTP sử dụng hệ thống
Client/Server. Một hệ thống Client/Server có thể được hiểu như sau:
Khái quuát: Một trong những nguyên tắc sử dụng mạng cho phép chia sẻ tài
nguyên. Rất nhiều thời gian việc chia sẻ này được hoàn thành bởi hai chương trình
riêng biệt, mỗi chương trình chạy trên máy tính khác nhau. Một chương trình gọi là
Server, cung cấp một tài nguyên riêng. Chương trình kia gọi là Client để sử dụng tài
nguyên đó.

Trang 8
Dịch vụ này có tên là FTP, để kết nối vào một chương trình server trên máy
tính từ xa. Bằng cách sử dụng chương trình client chúng ta phát ra những lệnh được
chuyển đến Server. Server sẽ trả lời bằng cách tải những gì mà tập lệnh tới nơi phát
ra yêu cầu đó.
Để sử dụng dùng lệnh FTP và mô tả địa chỉ của host từ xa mà chúng ta muốn

kết nối vào.
Anonymous FTP: Khi dùng FTP để chuyển file từ máy này đến máy khác trên
Internet, có một vài hạn chế: chúng ta không thể truy cập vào một máy tính trừ khi
được sự cho phép. Nghĩa là chúng ta phải có User ID (account name) và password thì
mới xâm nhập vào được.
Khi sử dụng chương trình FTP để kết nối vào một anonymous FTP host, nó
hoạt động giống như nghi thức FTP, ngoại trừ khi nó đòi hỏi một User ID, nó là
anonymous. Khi nó đòi hỏi password, chúng ta đánh vào địa chỉ email hoặc tên của
mình. Vì vậy, người quản trị hệ thống có thể lần ra dấu vết ai đang truy cập vào file
của họ
Khi ngươì quản trị hệ thống cài đặt một máy tính như là một anonymosu FTP
host định rõ những thư mục dùng cho việc truy cập chung. Như một biện pháp an
toàn, hầu hết những anonymous FTP host cho phép User download file, nhưng không
cho phép upload file (chép lên server).
Nếu như một anonymous cho phép upload, người quản trị hệ thống yêu cầu
User copy tất cả những file mới này để chỉ thư mục upload đã xác định trước đó. Sau
đó, người quản trị hệ thống có dịp kiểm tra những file này, rồi chuyển chúng đến
một trong những thư mục download chung. Bằng cách này có thể ngăn chặn được
nhiều người, bảo vệ họ khỏi upload những file có thể phá hoại hệ thống.
Như một User trên Internet, chúng ta có thể sử dụng nghi thức FTP để sao
chép file giữa hai host bất kỳ trên Internet. Thực tế, mặc dù hầu hết mọi người chỉ có
một tài khoản (account) duy nhất trên Internet và nghi thức FTP hầu như được sử
dụng để download file dùng chung.

Trang 9
I.1.4 Giao thức Word Wide Web.
Word Wide Web là một tập protocol sử dụng cấu trúc trang web để cung cấp
các thông tin cho user chạy web client software như netscape, navigator…Nó không
những cho phép kết nối dữ liệu từ những Web page khác nhau hoặc từ những vị trí
khác nhau trong một trang mà còn cho phép truy xuất đến các internet services khác

Hình 1: Cấu trúc Web.
Web có khả năng liên kết với những loại tài nguyên của Internet như: một file
văn bản, một phiên kết nối của telnet…
Giống như nhiều tài nguyên khác trên internet, web dùng một hệ thống
Client/Server .Các Client được gọi là web browser dùng để truy cập vào mọi dịch vụ
và tài nguyên trên Internet. Điều quan trọng nhất là một browser cũng biết cách kết

Trang 10
HTTP
HTTP
HTML
Page
Window NT Server
Public
nternet
Private
Internet
SQL Server
DBMS
Internet
Information
Server
(Web
Server)
Active
Server Page
HTML
Form
Internet Explorer
other Web Browser

Database Server
Any Client Platform
nối vào web server để đưa ra các tài liệu hypertext công cộng. Có rất nhiều webserver
nằm khắp nơi trên mạng internet và hầu hết chúng chuyên về một lĩnh vực nào đó.
Sự bùng nổ Web: web sử dụng công nghệ mới HTML (hypertex markup
language) được sử dụng để viết trang web, một máy web server sử dụng HTTP để
truyền các trang này và một trình duyệt web tại máy client để nhận dữ liệu, xử lý và
đưa ra kết quả.
HTML là một ngông ngữ đánh dấu siêu văn bản có nghĩa là các trang web chỉ
có thể xem thông qua một chương trình duyệt Web.
Vào năm 1993, National Center for SupercomputingAplications (NCSA) tại đại học
Illinois đưa ra phiên bản Mosaic, một chương trình web được thiết kế bởi Marc
Andreessen. Nó đã lan rộng trên internet và chỉ trong vòng một năm có đến hai triệu
người sử dụng web với Mosaic. Mọi người cùng tạo và truy cập trang web. Đó là sự
phát triển rất lớn chưa từng có trong lịch sử phát triển máy tính.
Vào giữa năm 1993 có 130 sites trên Word Wide Web. Sáu tháng sau có hơn sáu trăm
sites. Ngày nay, có gần một trăm nghìn website trên thế giới.

Trang 11
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ.
I.2.1 Khái niệm về thương mại điện tử.
Sự phát triển nhanh chóng của Internet đã kéo theo một loạ hình dịch vụ mới
ra đời, được cung cấp trực tiếp qua Internet như trò chuyện, quảng cáo, tư vấn, mua
hàng, bán hàng, … Dịch vụ thương mại điện tử là một bước nhảy vọt trong việc ứng
dụng Internet vào cuộc sống và công việc kinh doanh. Thương mại điện tử cơ bản là
việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên Internet hay nói cách khác đó là các cửa hàng ảo
trên mạng Internet.
Trong nền kinh tế hiện nay, thương mại điện tử đã dần trở nên quen thuộc với
nhiều doanh nghiệp. Yếu tố năng động của nền kinh tế nước nhà phụ thuộc rất nhiều

vào sự phát triển của thương mại điện tử. Chắc chắn rằng kế hoạch trên đã hiện diện
trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp vì Internet là mạng thông tin rộng khắp
toàn cầu và là phương tiện hữu hiệu để hoà nhập với thế giới, nhưng có lẽ mọi doanh
nghiệp còn đang phân vân rằng thời điểm nào là thích hợp nhất để triển khai cũng
như đâu là khởi điểm tốt để có thể mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Vì vậy,
một chiến lược phát triển web đúng đắn có thể cải tiến đáng kể hoạt động và kinh
doanh của một doanh nghiệp.
I.2.1.1 Thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử là dịch vụ giới thiệu, quảng cáo, mua bán hàng trực tiếp
qua mạng, cơ hội kinh doanh và cơ hội thàh công của doanh nghiệp trong tương
lai. Kết hợp các thông tin các hình ảnh và âm thanh lại thành một hệ thống đầy
sống động gây ấn tượng nhất mà không bị hạn chế về không gian và thời gian
để phục vụ tốt nhất cho một mục đích phát triển kinh doanh.
Tạo cho người bán một kênh bán hàng trực tiếp tới khách hàng với qui mô rộng
hơn, tốc độ nhanh hơn và chi phí giảm hơn rất nhiều so với các kênh bán hàng
truyền thống khác.
Giải pháp tổng thể cho mỗi doanh nghiệp

Trang 12
I.2.1.2 Mục đích của thương mại điện tử.
Các doanh nghiệp có thể quảng cáo tất cả các sản phẩm dịch vụ của
mình trên toàn cầu thông qua một văn phòng giao dịch ảo trên mạng Internet.
Các doanh nghiệp có thể quảng cáo sản phẩm và kiếm những đơn đặt hàng
cho sản phẩm của mình ngay trên mạng.
Khách hàng có công cụ tìm kiếm các doanh nghiệp và sản phẩm một
cách nhanh chóng hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp và khách hàng hay giữa doanh nghiệp với nhau có thể
giao dịch mua bán với nhau.
Các khách hàng và doanh nghiệp nắm bắt được các tin tức về thị
trường, kinh tế, pháp luật và tài chính ngân hàng một cách nhanh chóng và kịp

thời.
Đơn giản hoá được các thủ tục hành chính, các công việc giấy tờ, tăng
cường hiệu quả cho giao dịch thương mại. Dịch vụ sẽ mang lại cho doanh
nghiệp nhiều khách hàng mới và điều đó đồng nghĩa với việc tăng doanh thu
cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể đăng ký sản phẩm của mình ngay trên mạng với một
hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng.
I.2.2 Các yêu cầu trong kinh doanh thương mại điện tử.
Đối với nhà cung cấp cần phải:
• Xây dựng website toàn cầu với các phần mềm quản lý kinh doanh và cơ sở
dữ liệu hợp lý.
• Hình thành các phương tiện thanh toán: chấp nhận việc thanh toán bằng thẻ
tín dụng và các loại tiền có bảo đảm.
• Xây dựng những giao diện có tính bảo mật nhằm ngăn chặn sự truy nhập trái
phép vào các hệ thống có ý nghĩa quan trọng.
• Sắp xếp lại các quá trình kinh doanh nhằm thích nghi với việc trao đổi trực
tuyến bằng email và quản lý kinh doanh qua mạng.

Trang 13
• Nhìn tổng thể, họ sẽ cần phải hình thành các kỹ năng và chiến lược phù hợp
để đưa hoạt động kinh doanh và tiếp thị của mình thích nghi được với phương
tiện kinh doanh mới này.
I.2.3 Lợi ích của thương mại điện tử.
Thương mại điện tử ngày nay càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội vì đó là những phương thức giao dịch nhanh nhất, hiệu quả nhất, tận dụng được
tối đa mọi nguồn lực. Thương mại điện tử là kết hợp của những thành tựu khoa học
kỹ thuật vào việc kinh doanh. Vì thương mại điện tử được tiến hành trên mạng nên
không bị ảnh hưởng bởi khoảng cách địa lý, do đó một doanh nghiệp có là nhà cung
cấp nhỏ hay lớn thì điều đó cũng không ảnh hưởng gì, doanh nghiệp đó vẫn được
nhiều người biết đến nhờ tính toán cầu của mạng. Khách hàng cũng có nhiều sự lựa

chọn hơn nhờ mạng máy tính cung cấp cho họ. Thương mại điện tử đem lại sự hiện
diện trên toàn cầu cho nhà cung cấp và sự lựa chọn toàn cầu cho khách hàng. Nhờ
thương mại điện tử mà các nhà cung cấp đã tiếp cận gần hơn với khách hàng, điều đó
cũng đồng nghĩa với việc tăng chất lượng dịch vụ cho người tiêu dùng.Trong thương
mại điện tử, người bàn và người mua không gặp nhau trực tiếp mà thông qua mạng,
do đó vấn đề cập nhật thông tin cho các bên sẽ nhanh hơn, nhưng đòi hỏi người tham
gia phải có khả năng sử dụng. Hơn nữa, thương mại điện tử là việc kinh doanh trên
các thiết bị điện tử nên nó sẽ bị tác động theo sự thay đổi của công nghệ. Vì vậy
người tham gia kinh doanh cũng phải luôn học hỏi để theo kịp sự thay đổi đó. Mạng
gần như là yếu tố quyết định cho mọi hình thức hoạt động của thương mại điện tử.
Công nghệ càng đi lên thì thương mại điện tử càng có cơ hội phát triển. Tuy nhiên,
như vậy các doanh nghiệp sẽ phải tăng chi phí đầu tư cho công nghệ, người sử dụng
phải luôn luôn học hỏi để nâng cao kiến thức sử dụng công nghệ
I.2.3.1 Hiệu quả của Internet trong kinh doanh.
Nhìn tổng quát, việc sử dụng các phương tiện điện tử và các mạng
trong hoạt động của doanh nghiệp tạo điều kiện cập nhật được thông tin nhanh
chóng, đa dạng, giảm được các chi phí giao dịch, tiếp thị … do vậy hạ được

Trang 14
giá thành sản xuất, dịch vụ và điều quan trọng hơn cả là tiết kiệm được thời
gian, rút ngắn chu kỳ sản xuất, nhanh chóng tạo ra sản phẩm mới, tăng tính
hiệu quả kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, hoạt động thương mại điện
tử, ngoài việc giảm chi phí còn đưa lại nhiều lợi ích thiết thực. Trước hết, họ
có thể hợp lý hoá khâu cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm, bảo hành; tự động
hoá quá trình hợp tác kinh doanh; cải thiện quan hệ trong công ty - xí nghiệp
và với bạn hàng - đối tác, tăng năng lực phục vụ khách hàng. Từ đây, tăng sức
cạnh tranh của doanh nghiệp, mở rộng phạm vi cũng như dung lượng kinh
doanh. Từ góc độ của người tiêu dùng, thương mại điện tử tạo sự thuận tiện
hơn, tăng khả năng lựa chọn do tiếp cận dễ dàng các mặt hàng, các dịch vụ.
Còn đối với Chính Phủ, mô hình kinh doanh này đưa lại khả năng cải tiến

quản lý kinh tế và kiểm soát được việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước
của doanh nghiệp, nhất là nghĩa vụ thuế, phân phối thu nhập hải quan…
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích trên, thương mại điện tử cũng đặt ra
hàng loạt vấn đề bức xúc và những thách thức đối với doanh nghiệp của các
nước, đặc biệt là các nước phát triển. Để phát triển thương mại điện tử đòi hỏi
phải tăng cường xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin hiện đại, hạ tầng
về tiền tệ với hệ thống thanh toán tự động; nguồn nhân lực trình độ cao; các
định chế về an toàn bảo mật, sở hữu trí tuệ, môi trường kinh tế, pháp lý …
Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, thông tin - tri thức
khoa học, công nghệ và quản lý ngày càng đang giữ vai trò chủ đạo, quyết
định đối với đời sống kinh tế con nguời. Kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI sẽ
dựa trên trụ cột hàng đầu là công nghệ thông tin. Vì lẽ đó, bất kỳ quốc gia nào
nếu không chú trọng lĩnh vực này sẽ không có cơ may tham gia đầy đủ vào
kinh tế tri thức và tất yếu sẽ bị đẩy tới trước thách thức nghiệt ngã của nguy cơ
tụt hậu về trình độ phát triển. Thương mại điện tử với tính cách là hoạt động
trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại, đang giữ vai trò động lực thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Từ cách tiếp cận này, thương mại điện tử hiện đang
giành được sự quan tâm sát sao của tất cả các nước, các tổ chức quốc tế và các

Trang 15
khối liên kết kinh tế trên qui mô, góc độ: tiểu khu vực - khu vực - liên khu vực
- châu lục đến toàn cầu.
I.2.3.2 Một số khó khăn của thương mại điện tử ở Việt Nam.
Bước sang thế kỷ XXI, sự phát triển thương mại điện tử sẽ là một trong
những xu thế kinh tế chủ đạo, có sức lôi cuốn và tác động mạnh mẽ đến tất cả
các quốc gia, tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống kinh tế
và xã hội mà cả trong tương quan lực lượng cũng như ngôi vị của mỗi quốc
gia trên trường quốc tế. Điều đó đặt ra những thách thức không nhỏ đối với
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam chúng ta - những nước mà cơ
sở hạ tầng thông tin còn lạc hậu và yếu kém. Bởi vậy, chú trọng đầu tư phát

triển hạ tầng công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và
chủ động tham gia kinh tế mạng trở thành vấn đề cốt tử đối với các nước đang
phát triển, nếu họ không muốn tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế.
Ở Việt Nam, cơ sở hạ tầng kỹ thuật nghèo nàn, thiếu vốn, ngành ngân
hàng kém phát triển, hệ thống pháp luật chưa đủ, lượng người dùng Internet
chưa cao – đó là những khó khăn chính của Việt Nam trên con đường áp dụng
thương mại điện tử được ông Gaylen Duncan, Chủ tịch hiệp hội Công nghệ
thông tin Canada, đưa ra trong một hội nghị về thương mại điện tử được tổ
chức ngày 5/7/2005 tại Hà Nội. Trong khi đó Tổng Thư ký kiêm Phó Chủ tịch
Hội tin học Việt Nam, ông Mai Anh, cho rằng thách thức lớn nhất của thương
mại điện tử ở Việt Nam hiện nay là các cơ quan quản lý chưa thực sự vào
cuộc. Ông Mai Anh hối thúc Chính Phủ phải thành lập một cơ quan chuyên
trách về thương mại điện tử, theo mô hình của một số nước láng giềng như
Thái Lan, Malaysia, Singapore.
Quả thật, thương mại điện tử ở Việt Nam còn vấp phải nhiều khó khăn
khác nằm ngoài phạm vi kinh tế và kỹ thuật. Với một số nước, mức sống, điều
kiện tiếp cận thông tin và công nghệ mới chưa cao thì phổ cập công nghệ
thông tin cũng còn là bài toán nan giải chứ chưa nói đến thương mại điện tử.
Thu nhập bình quân đầu người thấp dẫn đến sức mua yếu là đương nhiên.

Trang 16
Trong một thập kỷ qua, số lượng máy tính sử dụng cũng như số người truy
cập Internet tăng lên đáng kể, nhưng hiện cũng mới chỉ có khoảng vài trăm
doanh nghiệp có wevsite riêng để quảng bá cho đơn vị, sản phẩm, dịch vụ của
mình.
Ông Bùi Khắc Sơn, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt
Nam, lại nhấn mạnh vai trò của thanh toán điện tử để có thể phát huy tác dụng
của thương mại điện tử. Ngoài việc sử dụng thẻ tín dụng thay cho việc giao
tiền mặt, ngày nay thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực như trao
đổi dữ liệu điện tử tài chính, tiền Internet, thẻ thông minh, ví điện tử, giao dịch

ngân hàng số hoá, ngân hàng ảo Internet, v.v…
Từ kinh nghiệm và bài học các nước, có một số lĩnh vực mà Việt Nam
cần triển khai trong thời gian tới như sau:
 Luật Internet: chữ ký số, bản quyền, tội phạm máy tính, bảo mật dữ
liệu và cá nhân, dữ liệu số, v.v…
 Bảo vệ người tiêu dùng: cơ chế giải quyết tranh chấp, hợp đồng và
thương lượng trực tuyến, v.v…
 Bảo lãnh của chính phủ: tuyển dụng công nhân lành nghề, vốn và khả
năng linh hoạt về nguồn vốn, Internet, thuế, khuyến khích nghiên cứu và
phát triển, v.v…
 Hạ tầng cơ sở về thông tin: trung tâm xác nhận (CA), xác nhận xuyên
biên giới (CBC), hạ tầng về cổng thanh toán (PG), mã thương mại toàn cầu,
v.v…
 Sản phẩm và hệ thống: thị trường điện tử: đấu giá, môi giới, mạng bán
lẻ, ngân hàng bán lẻ, môi giới chứng khoán, thông tin giải trí trực tuyến, tiếp
thị trực tuyến, v.v…
 Các dịch vụ khác: hệ thống mã số, thư viện số, kiểm soát đường truyền,
chuyển tiền điện tử, thẻ thông minh, v.v…
Hiện nay, động lực của nền kinh tế Việt Nam là cácdoanh nghiệp vừa và
nhỏ. Do đó, chúng ta cần quan tâm trước hết đến mối quan hệ B2B ( doanh

Trang 17
nghiệp với doanh nghiệp) thay vì các mối quan hệ G2B (Chính Phủ với doanh
nghiệp) hay B2C (doanh nghiệp với người tiêu dùng).
I.2.4 Các giai đoạn mua bán hàng trực tuyến.
Đây là sơ đồ mô tả các giai đoạn hoạt động mua bán hàng trực tuyến trong
quy trình thương mại điện tử. Theo sơ đồ, các hình màu trắng trình bày các hoạt động
của khách hàng, các hình màu xám trình bày phần kinh doanh do các công ty thực
hiện.
Hình 2: Các giai đoạn hoạt động mua hàng trực tuyến trong qui trình

thương mại điện tử.
• Tiếp thị (Marketing): Mục đích chung là nhằm tiếp thị đến những khách hàng
tiềm năng và thu hút họ vào website của công ty. Nhờ những tiến bộ và cải tiến
không ngừng của các phương tiện và công nghệ Multimedia và các thiết bị phần

Trang 18
Tiếp thị
( Marketing)
Khách hàng/người
xem
(Customer/visitor)
Tham quan web
(website visit)
Duyệt hàng
(product browsing)
Giỏ hàng
(shopping cart)
Tính tiền
(Check out)
Thuế và phí vận
chuyển
(Tax and shipping)
Thanh toán
(Pay ment)
Vận chuyển
(ship order)
Thực hiện Đđ/hàng
(Fullfill order)
Xử lý đơn hàng
(Process order)

Biên nhận
(Receipt)
cứng tương ứng, nó cho phép chúng ta khai thác sức mạnh của Internet để nhắm
vào các khách hàng bằng nhiều cách khác nhau như biểu ngữ, quảng cáo, email,
những đoạn video clip… ngoài ra còn có thể thu hút người xem bằng các diễn
đàn thảo luận, các cuộc trưng cầu bình chọn của khách hàng…
• Khách hàng / người xem ( Customer/Visitor): Khách hàng là người quyết
định gõ nhập URL hoặc nhấp vào một liên kết để xem website của bạn. Điều
quan trọng nhất là cần phân biệt ở đây là sự khác nhau giữa việc mua hàng giữa
các doanh nghiệp và việc mua hàng giữa khách hàng và doanh nghiệp. Thông
thường, khi đề cập đến việc mua hàng giữa các doanh nghiệp, người mua hàng
là doanh nghiệp khác cần có nhiều tuỳ chọn mua, bao gồm thẻ tín dụng, đơn đặt
hàng hoặc tài khoản tín dụng. Người bán có thể cần cung cấp một số đơn đặt
hàng cho người mua. Ngoài ra, có thể có thêm các yêu cầu đối với các mặt hàng
có giá trị lớn và quan trọng, bao gồm biên nhận đã chứng thực của đơn đặt
hàng, sự chuyển khoản điện tử, giấy chứng nhận xuất xứ … những vấn đề này
đã được giải quyết nhờ vào Electronic Data Interchange (EDI), vốn được cung
cấp cho các doanh nghiệp các tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu đã được cung cấp cho
các doanh nghiệp các tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu đã được chấp thuận. Trong mô
hình mua hàng truyền thống, giữa khách hàng với doanh nghiệp, người mua
thường là một cá nhân sẽ thanh toán bằng thẻ tín dụng và nhờ gửi hàng đến tận
nhà
• Tham quan website (website visit): Ngay sau khi một site kinh doanh được
duyệt, có thể xảy ra để bắt đầu tạo kinh doanh thương mại điện tử cho một
khách hàng. Ngay lúc đó, công ty có thể bắt đầu theo dõi và tạo profile ( bảng
tóm tắt sơ lược) cho khách hàng này. Dựa vào thông tin đó, công ty cóthể bắt
đầu nhắm đến các mặt hàng mà khách hàng có thể quan tâm nhiều nhất, đưa ra
cá phương thức khuyến mãi và bán kèm thích hợp. Bước này bắt đầu quá trình
mua sắm E – commerce.
• Duyệt hàng hoá (product browing): Nếu người xem thích những gì mà mình

nhìn thấy trên hạng mục dẫn đến website, thì hy vọng người xem này sẽ bắt đầu

Trang 19
duyệt qua các trang mặt hàng của site. Thông thường, một người xem sẽ duyệt
qua các cửa hiệu và sau đó duyệt các sản phẩm trong các cửa hiệu này, họ có
thể bị thu hút bởi các mặt hàng bày bán, sự khuyến mại, các bài tư vấn sản
phẩm v.v…
• Giỏ hàng (shopping cart): Bước kế tiếp là người mua đặt hàng vào giỏ hàng
của mình. Nó chỉđơn giản là một danh sách các mặt hàng mà người mua đã
chọn, số lượng, giá cả, thuộc tính (màu sắc, kích cỡ…), và bất kỳ những thứ
khácliên quan đến đơn đặt hàng. Các giỏ hàng mua hàng thường phải được
cung cấp những tuỳ chọn để chọn các mặt hàng.
• Tính tiền (check out): Ngay sau khi người mua có tất cả các mặt hàng cần
mua, họ sẽ bắt đầu qui trình tính tiền. Đối với mô hình mua hàng giữa khách
hàng và doanh nghiệp, khách hàng thường sẽ nhập vào thông tin địa chỉ chuyển
hàng và tính hoá đơn. Người mua cũng có thêm vào các thông tin về lời chúc
mmừng, gói quà và các thông tin khác đối với các dịch vụ phụ thuộc có liên
quan.
• Thuế và phí vận chuyển ( tax and shipping): Ngay sau khi site kinh doanh
biết nơi để vận chuyển hàng và tính hoá đơn, nó có thể thực hiện hai phép tính
quan trọng về thuế và phí vận chuyển theo qui tắc kinh doanh. Thuế có thể là
các khoản thuế nội địa hay các loại thuế tiêu thụ đặc biệt. Phí vận chuyển có thể
đơn giản như là việc tính phí toàn bộ hay phức tạp như là việc tính phí cho mỗi
mặt hàng đã mua và tương quan đến đoạn đường mà hàng phải được vận
chuyển đến. Cả hai vấn đề trên có thể trở nên khó khăn hơn khi xử lý việc đặt
hàng quốc tế. Nếu doanh nghiẹp chưa từng hỗ trợ các đơn đặt hàng quốc tế,
doanh nghiệp này có thể đương đầu với nhiều thách thức và yêu cầu mới. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp phải tiên liệu trước điều đó, vì khi website đã khởi
động, mọi người ở những quốc gia khác nhau rồi cũng sẽ tìm thấy nó dù bằng
cách này hay cách khác.

• Thanh toán (payment): Khi đã có tổng giá trị của các mặt hàng đã được mua,
thuế và phí vận chuyển đã được tính, Công ty sẵn sàng để cho người mua

Trang 20
chuyển sang quá trình thanh toán. Các tuỳ chọn sẽ hoàn toàn khác đối với các
giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và giữa khách hàng với doanh
nghiệp. Trong mô hình thương mại điện tử giữa khách hàng với doanh nghiệp,
việc thanh toán thường được thực hiện bằng thẻ tín dụng. Đối với mô hình
thương mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, tất cả các tuỳ chọn có
thể cần có sẵn, bao gồm cả đơn đặt hàng. Ngoài ra, đôốivới các mặt hàng có giá
trị lớn, sự báo giá bao gồm giá cuối cùng, thời gian vâậnchuyển cũng có thể cần
thiết. Với các thẻ tín dụng, có các tuỳ chọn để xử lý các thẻ tín dụng ở ngoại
tuyến hay trực tuyến. Việc xử lý trực tuyến là thực hiện trên Internet thông qua
các dịch vụ payment gateway của các đơn vị trung gian. Khi xử lý trực tuyến,
dữ liệu của thẻ tín dụng được chuyển an toàn qua mạng và thông tin phản hồi
đuợc gởi trở lại nhằm cho biết thẻ tín dụng đã được xoá hay chưa.
• Biên nhận (receipt): Ngay sau khi đã thực hiện xong việc đặt hàng, Công ty
có thể cần gửi trở lại cho người mua một biện nhận. Đối với mô hình thương
mại điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, biên nhận có thể là một danh
sách đính kèm với đơn dặt hàng. Đối với khách hàng, biên nhận có thể là bản
tronglại của đơn đặt hàng trên màn hình, hoặc một danh sách được gửi cho
người mua hàng bằng email. Trong cả hai trường hợp, qui trình này có thể đuợc
tự động hó một cách dễ dàng.
• Xử lý đơn hàng (Process order): Đây là phần phía sau của chương trình
thương mại điện tử không thể hiện trên màn hình của khách hàng. Nếu không tự
động xử lý thẻ tín dụng thì cuộc gọi đầu tiên đến đơn đặt hàng là để xử lý giao
dịch về tài chính. Nói chung, các qui tắc kinh doanh chuẩn điều khiển bước này.
Công ty có thể cần cho biết đơn đặt hàng đã được xử lý, tất cả các mặt hàng tồn
kho…
• Thực hiện đơn đặt hàng ( Fullfill order): Ngay sau khi có đơn đặt hàng hợp

lệ, nó cần được thực hiện. Đây có thể là qui trình kinh doanh đầy thử thách
nhất. Nhiều tình huống khác có thể xảy ra tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh
mà Công ty đang thực hiện.

Trang 21
Nếu công ty là nhà bán lẻ có các cửa hiệu ( storefont), có thể gặp khó
khăn trong việc thực hiện kiểm kê hàng hoá. Mặc dù 90% giao dịch được thực
hiện bằng điện tử, nhưng sẽ có những khách hàng cần gọi điện thoại hay
gửiemail cho doanh nghiệp.
Nếu công ty thực hiện đơn đặt hàng thông qua một dịch vụ thì có thể có
các vấn đề hợp nhất về hệ thống của dịch vụ thực hiện đơn đựt hàng. Ngay cả
khi tự Công ty thực hiện đơn đặt hàng, vẫn có những vấn đề hợp nhất giữa web
server và hệ thống thực hiện của công ty.
• Vận chuyển hàng (ship order): Bước cuối cùng trong qui trình thương mại
điện tử là vận chuyển hàng cho khách hàng. Giống như trong bướcc “xử lý đơn
hàng”, Công ty có thể cung cấp tình trạng đặt hàng trở lại cho khách hàng.
Trong trường hợp này, nó có thể bao gồm vận đơn, bộ hồ sơ gửi hàng… để
khách hàng theo dõi sự vận chuyển hàng của họ.
I.2.5 Thanh toán điện tử.
Internet đã và đang trở thành thị trường tiềm năng và hứa hẹn cho việc kinh
doanh của các doanh nghiệp. Nhưng khi kinh doanh trên mạng, doanh nghiệp có thể
sẽ gặp phải nhiều khó khăn. Đặc biệt là trong việc thiết lập hệ thống thanh toán cũng
như hệ thống quản lý các giao dịch một cách hiệu quả, tin cậy và an toàn nhất. Thanh
toán điện tử sẽ giúp bạn tháo gỡ được những khó khăn và đưa bạn tới thành công.

Trang 22
I.2.5.1 Thanh toán điện tử là gì?
Khi kinh doanh trên Internet, chúng ta có thể tiến hànhvà quản lý mọi
giao dịch thông qua một hệ thống thanh toán mà chỉ cần một chiếc máy vi tính
với một trình duyệt và kết nối mạng. Toàn bộ quá trình từ lúc khách hàng đặt

hàng, thanh toán cho đến khi chúng ta gửi hàng, nhận tiền và cảm ơn khách
hàng đều được tự động hoá. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều công ty cung cấp
dịch vụ này, ví dụ như Planet Payment, Total Merchant Services, Merchant
Exchange Services …
Để sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử, chúng ta cần phải có một Merchant
Account và một Payment Gateway.
 Merchant account là một tài khoản ngân hàng đặc biệt, cho phép kinh
doanh bằng thẻ tín dụng. Việc thanh toán bằng thẻ tín dụng chỉ có thể tiến
hành thông qua dạng tài khoản này.
 Payment gateway là một chương trình phần mềm. Phần này sẽ chuyển
dữ liệu của các giao dịch từ website của người bán sàn trung tâm thanh toán
thẻ tín dụng để hợp thức hoá quá trình thanh toán thẻ tín dụng.
I.2.5.2 Lợi ích của thanh toán điện tử.
Nếu chúng ta có kế hoạch kinh doanh trên Internet nên chấp nhận thanh toán
bằng thẻ tín dụng. Bằng không, có thể sẽ bị mất hơn 60% cơ hội làm ăn trên
mạng. bây giờ khách hàng khi vào mạng, có vô vàn cơ hội để mua hàng. Do đó,
nếu khách hàng phải ra khỏi mạng để gọi điện hay phải viết sec, điền vào mẫu
đơn đặt hàng, cho vào phong bì và đi gửi … như thế là chúng ta đã tự làm mất
rất nhiều khách hàng.
Hơn nữa, khi kinh doanh trên Internet đối tượng khách hàng là toàn cầu. Nếu
chúng ta nhằm vào đối tượng khách hàng ở cả các nước phát triển thì cần biết
họ chủ yếu thanh toán bằng thẻ tín dụng khi mua hàng. Do đó, việc không chấp
nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng đồng nghĩa với việc từ chối bán hàng. Hàng
hoá giao dịch trên mạng thường có giá trị không lớn lắm, khách hàng sẽ không

Trang 23
mua hàng của chúng ta khi họ thấy mua hàng không thuận tiện, bởi vì họ có thể
dễ dàng tìm thấy nhà cung cấp khác. Chúng ta hãy tạo điều kiện để khách hàng
đặt hàng và thanh toán thuận tiện hơn. Thanh toán điện tử không chỉ thuận tiện
cho khách hàng mà còn thuận tiên cho chính bản thânh chúng ta như sau:

 Không phải đi đến ngân hàng nhiều (mọi thứ đều được gửi tự động).
 Dễ theo dõi việc bán hàng hơn.
 Không có sec khống ( thẻ tín dụng gần như nhận tiền mặt).
 Dễ theo dõi dịch vụ sau bán hàng … và rất nhiều lợi ích khác.
I.2.5.3 Quy trình thanh toán thẻ tín dụng qua Planet Payment.
I.2.5.3.1 Quá trình giao dịch.
 Giao dịch được chuyển từ website của người bán tới máy chủ của
Planet Payment.
 Planet Payment chuyển giao dịch sang trung tâm thanh toán thẻ tín
dụng quốc tế.
 Trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế sẽ hỏi ý kiến cơ sở dữ liệu
phát hành thẻ tín dụng.
 Đơn vị phát hành thẻ sẽ khước từ hoặc chấp nhận giao dịch và chuyển
kết quả/mã số hợp pháp ngược trở lại cho trung tâm thanh toán thẻ tín dụng.
 Trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế sẽ chuyển kết quả giao dịch
sang cho Planet Payment.
 Máy chủ Planet Payment lưu trữ kết quả và chuyển trở lại cho khách
hàng/ người bán.
 Trung bình các bước này mất khoảng 3-4 giây.

Trang 24
Hình 3: Quá trình giao dịch thẻ tín dụng
I.2.5.3.2 Quá trình thanh toán thẻ tín dụng.
 Máy chủ Planet Payment tự động chuyển các đợt giao dịch sang trung
tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
 Trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế gửi tới cơ sở dữ liệu đơn vị
phát hành thẻ tín dụng.
 Đơn vị phát hành thẻ tín dụng xác định giao dịch, chuyển kết quả, tiến
sang trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc tế.
 Trung tâm thanh toán thẻ tín dụng quốc sẽ chuyển kết quả quá trình

giao dịch và tiền sang Planet Payment.
 Planet Payment chuyển kết quả giao dịch tới người bán và chuyển tiền
tới tài khoản ngân hàng của người bán.
Hình 4: Quá trình thanh toán thẻ tín dụng.

Trang 25
2
Giao dịch tại trang web
của thương nhân
Cơ sở dữ liệu đơn vị
phát hành thẻ tín dụng
Máy chủ Planet
Payment
Trung tâm thanh toán
thẻ tín dụng Quốc tế
1 6
34
5
Ngân hàng Cơ sở dữ liệu đơn vị
phát hành thẻ tín dụng
Máy chủ Planet
Payment
Trung tâm thanh toán
thẻ tín dụng Quốc tế
5
23
4
1

×