Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Giai phap dam bao an ninh tai chinh tai ngan hang 75128

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.6 KB, 53 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành ngân hàng đóng vai trị hết sức quan trọng trong nền kinh tế với
chức năng chính là cung cấp vốn chủ đạo trên thị trường tài chính đảm bảo
cho hoạt động của nền kinh tế diễn ra trôi chảy, ổn định và hiệu quả. Với
tiềm lực tài chính mạnh mẽ và trình độ đồng đều là lợi thế của ngân hàng
ngồi quốc doanh tuy vậy rủi ro trong quá trình kinh doanh tiền tệ là không
thể tránh khỏi. Bài học từ sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng có tên tuổi
trên thế giới do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Mỹ thời gian trước
đây như một hồi chng cảnh tỉnh các Ngân hàng phải ln duy trì mọi
hoạt động được diễn ra an toàn, bền vững. Đảm bảo an ninh tài chính, vì
thế, cả các nước trên thế giới.
Xu thế hội nhập và mở cửa khiến cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng
trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn song cũng tiềm tàng khơng ít rủi ro mà nếu
khơng nghiêm túc nhìn nhận, rất dễ mắc sai lầm đáng tiếc. Các ngân hàng
hoạt động một cách có hệ thống. Vì vậy, đảm bảo an ninh tài chính cho một
NH chính là việc duy trì sự hoạt động an tồn ngay từ bản thân các phịng
giao dịch(PGD), các chi nhánh hay sở giao dịch trực thuộc NH đó. Mặc dù
khơng phải là một khái niệm hồn tồn mới song khái niệm an ninh tài
chính trong hoạt động kinh doanh ngân hàng tại những thời điểm nhạy cảm
– toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế hay biến động kinh tế liên tục như hiện
nay – vẫn còn đang bỏ ngỏ, cần được nghiêm cứu, phát triển phù hợp với
đặc thù riêng của từng nền kinh tế và từng NH ở từng thời kỳ khác nhau
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các NH thời gian vừa qua cùng với
những kiến thức, kinh nghiệm và số liệu thu thập được khi thực tập tại ngân
hàng Lào-Việt em đã mạnh dạn nghiêm cứu hoàn thiện đề tài “Giải pháp
đảm bảo an ninh tài chính tại ngân hàng Lào- Việt” làm chuyên đề tốt
nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiêm cứu
Đề tài tập trung nghiêm cứu các vấn đề cơ bản về an ninh tài chính và an


ninh tài chính trong các NH để làm cơ sở lý luận cho việc đánh giá, nhận
định về tình hình thực trạng đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm
1


duy trì hoạt động kinh doanh của chi nhánh được diễn ra một cách ổn định,
an toàn, vững mạnh theo đúng nội dung của an ninh tài chính.\
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trọng tâm của khóa luận đi sâu vào nghiêm cứu tình hình huy động sử
dụng vốn và một số hoạt động có liên qua khác tại NH Lào-Việt trong điều
kiện kinh tế xã hội giai đoạn năm 20009-2010, Bên cạnh đó, đề tài cũng có
sự so sánh đối chiếu với tình hình của các NH, các chi nhánh tương đương
cùng hệ thống để phân tích, tổng hợp và đưa ra những giải pháp thích hợp
với đặc thù của chi nhánh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài là kết quả của việc vận dụng một cách có hệ thống các phương pháp
nghiêm cứu khoa học như phương pháp duy vật biện chứng duy vật lịch sử
thống kê phân tích và tổng hợp Trong đó việc thu thập số liệu và quan sát
thực tế, phỏng vấn trực tiếp các nhân viên tại chi nhánh là phương pháp đắc
lực hỗ trợ cho việc hồn thiện nội dung khóa luận. Ngồi ra, sự so sánh đối
chiếu hay sử dụng các bảng, biểu đồ, đồ thị,…cũng góp phần làm tăng hiệu
quả của q trình phân tích số liệu đã thống kê.
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần tài liệu tham khảo, phụ lục,..nội dung
chính của khóa luận
được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về an ninh tài chính đối với hoạt động kinh
doanh của ngân hàng
Chương 2: Thực trạng an ninh tài chính trong hoạt động kinh doanh tại
ngân hàng Lào-Việt

Chương 3: Một số giải pháp nhằm đảm bảo an ninh tài chính trong hoạt
động tại NH Lào-Việt

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG
1.1 An ninh tài chính các khái niệm cơ bản
1.1.1 An ninh tài chính
Trên thực tế, khái niệm an ninh tài chính khơng thống nhất khi có sự khác
nhau về đối tượng và phương pháp nghiêm cứu. Ở mỗi lĩnh vực, với từng
học giả tiến hành những cách thức khác nhau, đinh nghĩa an ninh tài chính
được đưa ra cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, “an
ninh là chỉ một tình trạng hay một trạng thái yên ổn và không bị nguy hiểm”,
là phạm trù đối nghịch với nguy hiểm khái niệm an ninh có thể sử dụng
trong nhiều lĩnh vực, đối tượng khác nhau. Vì vậy, xem xét đối tượng
nghiêm cứu chính là cách thức để có thể mang lại khái niệm cũng như nội
hàm đúng nhất về phạm trù an ninh.
Với tư cách là chìa khóa của đầu tư và tăng trưởng, tài chính thể hiện cả sự
vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, phản ánh tổng
hợp tất cả các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài
chính thơng qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các
nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Trong các mối quan hệ nảy
sinh qua hoạt động thu – chi bằng tiền đó, an ninh tài chính “ là một khái
niệm cơ bản để chỉ tình trạng tài chính ổn định, an tồn và vững mạnh”.
Theo quan điểm này, ổn định được hiểu là duy trì được hoạt động bình
thường, khơng xảy ra sự biến động đột ngột, thất thường. Hơn thể nữa, sự ổn
định này cần được đặt trong nguyên lý của sự phát triển, nghĩa là khơng

được cải tiến hồn thiện hơn. An tồn là trạng thái không bị nguy hiểm từ
các tác động bên trong và bên ngoài, là cốt lõi chi phối toàn bộ q trình
hoạt động bên trong và bên ngồi, là cốt lõi chi phối quá trình vận động của
tình trạng tài chính. Và vững mạnh là cơ sở của ổn định, an tồn. Bởi một
trạng thái tài chính yếu khơng thể giữ được trạng thái ổn định và đảm bảo an
toàn. Ba nội dung trên cũng chính là ba nguyên tắc của an ninh tài chính –
nội dung chính của an ninh kinh tế. Vì vậy, đảm bảo an ninh tài chính là tiền
đề cơ bản, là điều kiện thiết yếu để nên tài chính tồn tại và phát triển nói
riêng, đảm bảo an ninh kinh tế và phát triển bền vững nói chung. Nhất là
trong điều kiện tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề này
3


càng được đặc biệt quan tâm nhằm duy trì sự ổn định kinh tế không chỉ
trong phạm vi quốc gia, vùng lãnh thổ mà cịn trên phạm vi tồn thế giới.
Để phục vụ cho những mục đích nghiêm cứu khác nhau, an ninh tài chính có
thể được phân loại theo cấp, theo lĩnh vực, theo chức năng hay theo phạm vi
địa lý…
Nếu phân loại theo cấp độ, an ninh tài chính bao gồm:
An ninh tài chính cấp quốc gia (Nhà nước)
An ninh tài chính doanh nghiệp ( bao gồm cả ngân hàng và các trung gian tài
chính phi ngân hàng)
An ninh tài chính cá nhân hộ gia đinh ( dân cư, hộ gia đình…)
Trong đó, an ninh tài chính doanh nghiệp được coi là cốt loixcuar an ninh
tài chính doanh nghiệp là cơ sở của tài chính quốc gia. Bởi vậy, an ninh
tài chính ở khu vực các doanh nghiệp tài chính và phi tài chính cần được
chú ý đặc biệt.
1.1.2. An ninh tài chính đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng
Theo ngân hàng thế giới (WB): “ Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền
gửi chủ yếu ở dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được phép rút ra với một

thông báo ngắn hạn(tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, và các loại tiền gửi
tiết kiệm)”. Đây là bộ phận lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống trung
gian tài chính nói riêng và hệ thống tài chính của một quốc gia nói chung. Ở
Việt Nam, Luật các TCTD tại điều 20 quy định: “TCTD là doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp
luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung
nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh tốn”. “Ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện tồn bộ hoạt
động ngân hàng và toàn bộ hoạt động kinh doanh khác có liên quan” và “
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh tốn”.
Có thể phân loại ngân hàng theo nhiều tiêu chí khác nhau, tùy thuộc mục
đích và tính chất của đối tượng nghiêm cứu. Tuy nhiên, đặc điểm chung của
các loại hình ngân hàng này là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch
vụ ngân hàn. An ninh tài chính trong hoạt động kinhdoanh ngân hàng, do đó,
cần được gắn liền với các hoạt động trên.
4


Trong bối cảnh tồn cầu hóa – hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, an ninh
chính đối với hoạt động các NHTM khơng cịn là một khái niệm hồn tồn
mới. Xuất phát từ khái niện an ninh tài chính của ngân hàng là trạng thái
các tài sản ( tài sản nợ, tài sản có và tài sản rỏng) ổn định, an tồn và vững
mạnh. Ba ngun tắc đó được sử dụng cho hoạt động ngân hàng về cơ bản là
nhận tiền gửi và cho vay – hai nghiệp vụ chính của các ngân hàng.
Bảng cân đối của ngân hàng
Tài sản có(Assets)
Tài sản nợ(Liabilities)
1. Dự trữ tiền mặt tại kho của ngân

1. Tiền gửi không kỳ hạn
hàng và ký gửi tại NHTW
2. Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết
2. Cho vay: vay thương mại(sản
kiệm.
xuất và kinh doanh); cho vay tiêu
3. Khoản vay từ thị trường(giấy tờ có
dùng; cho vay có tài sản cầm
giá do ngân hàng phát hành để vay
cố…
thị trường trong và ngoài nước như
3. Đầu tư vào chứng khốn như trái
tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu,…
phiếu, cổ phiếu, hối phiếu…
gồm cả vay NHTW)
4. Đầu tư vào các loại tài sản như
4. Các khoản gửi bằng chứng khoán
bất động sản, cơ sở hạ tầng, trang
ngắn hạn.
thiết bị…
5. Vốn cổ phần: Vốn này là lợi tức
chưa chia tạo nên tài sản rịng của
ngân hàng.
Trong đó, tài sản Có là tài sản thị trường nợ ngân hàng: Tài sản nợ là tài sản ngân
hàng nợ thị trường và tài sản rịng là vốn tự có( vốn cổ phần) cộng với lợi tức bổ
sung từ kinh doanh.
Tình trạng tài chính của một ngân hàng hay hệ thống một ngân hàng tại một thời
điểm được mô tả trong bảng cân đối của ngân hàng và những thay đổi trong bảng
cân đối qua mỗi thời điểm phản ánh diễn biến tình trạng tài chính của ngân hàng
qua từng giai đoạn. Từ khái niệm trên, có thể thấy đảm bảo an ninh tài chính đối

với hoạt động của các NHTM chính là việc thực hiện các biện pháp giữ cho các tài
sản của chúng ln ổn định, an tồn, vững mạnh và khơng bị khủng hoảng. Về bản
chất, an ninh tài chính ngân hàng chịu tác động và phải giải quyết được mâu thuẫn
giữa tối đa hóa lợi nhuận trong điều kiện duy trì tốt tính thanh khoản và hạn chế rủi
ro. Nội dung của an ninh tài chính, theo đó, cũng được nghiêm cứu theo các

5


nguyên tắc của an ninh tài chính trong hoạt động kinh doanh ngân hàng mà chủ
yếu là nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay.
1.1.2.1. Ổn định đối với hoạt động ngân hàng
Nhận tiền gửi và cho vay là hai đặc trưng chủ yếu của NHTM. Trong đó, tiền gửi
là bộ phận quan trọng nhất để hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng
và cho vay là nghiệp vụ chủ yếu mà các ngân hàng sử dụng nguồn vốn đã huy
động để cung cấp tín dụng cho khách hàng của họ, tạo lợi nhuận cho ngân hàng.
Do vậy, ổn định trong hoạt động ngân hàng được thể hiện qua tình trạng huy động
và cho vay của ngân hàng đó. Sự ổn định về huy động tiền gửi thể hiện ở tốc độ
tăng trưởng tiền gửi, biến động của cơ cấu tiền gửi qua các thời kỳ khác nhau. Ổn
định cho vay thể hiện qua tốc độ tăng các khoản cho vay. Các chỉ tiêu này dễ tính
qua hai công thức sau:
Tốc độ tăng
tiền gửi hàng =
năm(%/năm)

Tổng tiền gửi cuối năm – Tổng tiền gửi
đầu năm
x
Tổng tiền gửi đầu năm


100

Tốc độ tăng
Tổng cho vay cuối năm – Tổng cho vay
cho vay hàng
đầu năm
năm(%/năm)
=
x 100
Tổng cho vay đầu năm
Việc cân đối giữa huy động vốn và cho vay vốn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chủ
quan, khách quan.Bất cứ sự mất cân bằng nào giữa chúng đều có thể đưa ngân
hàng đứng trước nguy cơ mất an ninh tài chính. Nếu tốc độ tăng tiền gửi nhanh
hơn nhiều tốc độ tăng các khoản cho vay, ngân hàng sẽ phải giải quyết nguồn vốn
dư thừa bằng cách nới lỏng điều kiện cho vay và đồng hạn chế huy động thơng qua
chính sách lãi suất. Hệ quả là ngân hàng giảm lợi nhuận, mất uy tín trước khách
hàng và nguy cơ rủi ro tăng cao. Trong trường hợp ngược lại, khi tốc độ tăng tiền
gửi chậm hơn nhiều tốc độ tăng các khoản cho vay, một lần nữa ngân hàng buộc
phải thực hiện các biên pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa tính thanh khoản và lợi
nhuận cao. Chính sách lãi suất huy động cao có thể giúp ngân hàng thu hút người
gửi tiền nhiều hớn song trong điều kiện tự do hóa lãi suất và cạnh tranh như hiện
6


nay, ngân hàng rất dễ phải đối mặt với bài tốn chi phí – lợi nhuận cũng như sự an
tồn tín dụng. Vì vậy, tốc độ tăng tiền gửi và cho vay đều đặn, khơng có đột biến
và khoảng cách giữa hai tốc độ này không quá lớn là đảm bảo cho sự ổn định của
hoạt động ngân hàng.
1.1.2.2. An toàn đối với hoạt động ngân hàng.
Cùng với ổn định, an tồn là một trong 3 ngun tắc duy trì an ninh tài chính đối

với hoạt động ngân hàng thể hiện qua tính thanh khoản và quản lý rủi ro. An tồn
tiền gửi là khả năng ngân hàng ln sẵn sàng đáp ứng nhu cầu rút tiền của người
gửi mà khơng rơi vào tình trạng nguy hiểm thơng qua việc duy trì dự trữ bắt buộc
và dự trữ quá mức. An toàn cho vay thể hiện ở việc các khoản cho vay đã, đang và
sẽ thường xuyên hoàn trả đúng hạn với lãi suất theo đúng hợp đồng tín dụng. Nguy
cơ khủng hoảng hay phá sản sẽ rất cao nếu ngun tắc này khơng được duy trì đối
với các khoản tiền huy động cũng như các món vay. Trên phương diện là “ người
kinh doanh rủi ro được quản lý”, để đảm bảo an toàn cho vay, các ngân hàng phải
thực hiện quản lý rủi ro, đa dạng hóa và đảm bảo tiền vay. Trong đó, quản lý rủi ro
tín dụng mà trọng tâm là quản lý nợ quá hạn được xem là cơng cụ chủ yếu để lành
mạnh hóa tình trạng tài chính. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần kết hợp với cơ cấu
nợ, dùng quỹ dự phòng, giải quyết tài sản đảm bảo hoặc các chính sách tín dụng
khác để có thể giữ vững an tồn cho vay. Cùng với đó là các biện pháp đảm bảo an
tồn tiền gửi, quan trọng hơn cả là duy trì các tỉ lệ an toàn về vốn theo quy định
của các cơ quan chủ quản bao gồm vốn chủ sở hữu, vốn ngắn hạn được phép sử
dụng cho vay trung và dài hạn…
1.1.2.3 Vững mạnh hoạt động ngân hàng
Vững mạnh trong kinh doanh ngân hàng được thể hiện qua hai khía cạnh chủ yếu
là các chỉ tiêu về quy mơ vốn và các chỉ tiêu về lợi nhuận.
Ngân hàng có quy mơ vốn càng lớn thì tiềm lực tài chính càng mạnh và nguy cơ
gặp rủi ro càng thấp do khả năng đối phó với những bất ổn cao. Thêm vào đó, quy
mơ tài sản có và tài sản nợ của một ngân hàng còn là nhân tố quan trọng nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường cũng như củng cố niềm tin trong
cơng chúng. Chính vì lẽ đó mà hiện nay, khi có sự giao thoa kinh tế, xu hướng sáp
nhập, mua lại các ngân hàng thường diễn ra phổ biến. Các ngân hàng có quy mơ
vốn khách nhau nhưng phải thỏa mãn yêu cầu tối thiểu của chính phủ nước đó.
7


Quy mơ vốn tối thiểu = Quy đinh của chính

phủ
Ngồi quy mơ, độ vững mạnh của một ngân hàng cịn được thể hiện qua các chỉ
tiêu về lợi nhuận. Lợi nhuận vừa phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh vừa là
nguồn bù đắp những tổn thất xảy ra trong q trình hoạt động đồng thời là nguồn
đóng góp vào NSNN. Để đánh giá khách quan hơn và để có thể so sánh được giữa
các NHTM với nhau, người ta thường khơng tính riêng lợi nhuận mà đặt nó trong
mối quan hệ với tổng tài sản và tổng VCSH. Hai chỉ tiêu chính thức được sử dụng
phổ biến là ROA ( tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản) và ROE ( tỷ suất lợi nhuận
trên tổng VCSH).
Bản thân các chỉ tiêu này nói lên hiệu quả hoạt động của tài sản cũng như thu nhập
trên đồng vốn cổ phần mà người chủ sở hữu ngân hàng đóng góp. Chúng hỗ trợ
khá chính xác khi tiến hành so sánh giữa nhiều doanh nghiệp với nhau trong cùng
một lĩnh vực nghành nghề kinh doanh. Thơng qua tính tốn các chỉ tiêu trên, các
nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra định hướng kinh doanh để ngân hàng đạt
mục tiêu tăng trưởng tự thân một cách bền vững.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính
Tình trạng an ninh tài chính của một doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng
thương mại nói riêng được thể hiện trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp,
ngân hàng đó. Các ngân hàng, doanh nghiệp có thể căn cứ vào các con số này để tự
tính các chỉ tiêu cho thấy mức độ an ninh tài chính của mình. Để từ kết quả có
đươc mà đưa ra biện pháp tác động vào các khoản mục nhằm thực hiện duy trì sự
ổn đinh, an toàn và vững mạnh, tránh khủng hoảng ngoài dự kiến. Sự khác nhau
đặc thù về loại hình, lĩnh vực hoạt động, các quy định của Chính phủ cũng như quy
định của ngân hàng trung ương ( hay còn gọi là NHNN) ở mỗi quốc gia dẫn đến sự
không thống nhất hoàn toàn về các hệ thống chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính của
một cơng ty, ngân hàng. Tuy nhiên, để đưa ra nhận định về tình hình an ninh tài
chính của một ngân hàng thương mại, hầu hết các nghiêm cứu đều sử dụng các chỉ
tiêu sau đây:
1.2.1. Quy mơ vốn tự có và các quỹ dự phòng
8



Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc sở
hữu của ngân hàng bao gồm “ giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một
số tài sản nợ khác của các TCTD theo quy định của NHNN”. Tuy chỉ chiếm một tỷ
lệ khơng lớn, thậm chí là rất nhỏ, trong tổng nguồn vốn của NHTM song vốn tự có
giữ một vai trị cực kỳ quan trọng, vừa là điều kiện pháp lý để thành lập ngân hàng,
là cơ sở tạo niềm tin và uy tín trong cơng chúng, vừa là căn cứ để tính tốn các tỷ
lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Như đã đề cập, quy mơ vốn tự có là
một trong hai chỉ tiêu cơ bản thể hiện sự vững mạnh tài chính của một ngân hàng.
Trong phạm vi một quốc gia, bằng phép so sánh số tuyệt đối của chỉ tiêu này giữa
các ngân hàng với nhau, ta có thể dễ dàng biết được mức độ vững mạnh của từng
ngân hàng trong hệ thống ngân hàng. Vốn tự có càng lớn, chứng tỏ ngân hàng càng
có năng lực tài chính cao và ngược lại. Tuy nhiên, sẽ là thiếu chính xác nếu dùng
phương pháp này khi nhận định, đánh giá mức độ an ninh tài chính giữa các ngân
hàng ở các nên kinh tế khác nhau. Vì giữa các quốc gia ln có sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế, về tỷ giá…Do vậy, để so sánh giữa các ngân hàng ở các
quốc gia khác nhau, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Độ sâu
chính =

M2 ( Tiền mặt, tiền gửi khơng và
tài có kỳ hạn)

x 100

GDP

Tổng tài sản có ngân hàng
Quy mơ tài

sản có ngân =
hàng
GDP

x
100

Nếu quy mô vốn quá nhỏ sẽ hạn chế khả năng hoạt động cũng như đảm bảo an
toàn trong hoạt động ngân hàng. Theo quy định tại Nghị định 141/2006/NĐ – CP
ban hành ngày 22 tháng 11 năm 2006, mức vốn pháp định đối với các NHTM Nhà
nước kể từ năm 2008 là 3000 tỷ đồng, đối với các NHTM cổ phần là 1000 tỷ đồng.
Đến năm 2010, áp dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 3000 tỷ đồng không kể
đó là NHTM quốc doanh, ngồi quốc doanh, liên doanh hay nước ngoài. Để được
cấp phép hoạt động, ngân hàng buộc phải huy động đủ số vốn theo quy định và
duy trì trong suốt q trình kinh doan. Ngồi ra, mạng lưới chi nhánh và PGD các
9


cấp của một NHTM cũng phải đáp ứng những tiêu chuẩn về huy động vốn nhất
định thì mới được cơng nhận là chi nhánh cấp 1, chi nhánh cấp 2 hay PGD.
Bên cạnh đó, việc trích lập các quỹ dự phòng theo quy định của nhà nước cũng là
một biểu hiện của đảm bảo an ninh tài chính trong ngân hàng. Ngoài dự trữ bắt
buộc và dự trữ dư thừa theo quy định của NHNN, các quỹ dự phòng rủi ro khác
như dự phòng dư nợ quá hạn, dự phòng chênh lệch tỷ giá, quỹ dự phịng tài
chính…Mặc dù việc trích lập dự phịng làm hạn chế nguồn sinh lời của các ngân
hàng nhưng chúng giống như tấm đệm cho phép các NHTM có thể đối phó với rủi
ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình một cách chủ động, an toàn và
hiệu quả. Quy định mới nhất hiện nay của NHNN yêu cầu các TCTD phải đảm bảo
tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định cụ thể. Đối với dự trữ của tiền gửi không kỳ
hạn va tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam dưới 12 tháng tại các NHTM (trừ

ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Agribank) là 3% trên
tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng
thì tỉ lệ này là 1%.
Xét trên phương diện là “người đi vay để cho vay”, các ngân hàng không những
phải đảm bảo an toàn cho các tài sản nợ mà cịn phải thực hiện trích lập dự phịng
cho các tài sản có, nhằm giảm thiểu rủi ro cho hoạt động chủ yếu này. Xuất phát từ
yêu cầu đó, NHNN đã ban hành một loạt các chỉ thị và quy định nhằm mục đích
nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm sốt rủi ro, trong đó có quyết định 493/QĐ –
NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 về phân loại nợ, trích lập dự phịng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các TCTD. Theo quyết định này, các
TCTD nói chung và NHTM nói riêng phải tiến hành phân loại nợ ( có thể theo
phương pháp định lượng hoặc định tính) thành 5 nhóm theo mức độ rủi ro và tiến
hành trích lập dự phịng với tỉ lệ quy định tương ứng, bao gồm cả dự phòng chung
và dự phòng riêng.(Phụ lục 1)
Ngân hàng sẽ hoạt động hiệu quả và an toàn khi đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu
về vốn cũng như tỷ lệ dự trữ theo quy định trong từng thời kỳ để phù hợp với diễn
biến thị trường tài chính tại thời điểm đó. Ngược lại, tình hình an ninh tài chính của
một NHTM sẽ khơng được đánh giá cao nếu ngân hàng đó khơng duy trì tốt tỷ lệ
đã quy định và điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của bản
thân ngân hàng đó cũng như tính an tồn của tồn bộ hệ thống tài chính.

1
0


1.2.2. Huy động vốn
Với vai trò làm trung gian tài chính, NHTM huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể
khác nhau trong xã hội và sử dụng làm vốn kinh doanh. Đây là những giá trị tiền tệ
thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà khơng có nhu
cầu rút tiền. Trong tổng vốn huy động, tiền gửi chiếm vai trò chủ yếu, đặc biệt là

đối với các NHTM cổ phần. Khách hàng có thể gửi tiền tại các ngân hàng dưới
nhiều hình thức khác nhau như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm,… bằng nội tệ hoặc ngoại tệ và được hưởng lãi. Đứng trên phương diện
ngân hàng, khi huy động vốn bằng tiền gửi nổi lên hai vấn đề chính cần được giải
quyết thỏa đáng: tốc độ tăng của các loại tiền gửi ở các kỳ hạn khác nhau và tốc độ
tăng của các loại tiền gửi bằng nội tê, ngoại tê.
Có thể tính tốc độ tăng tiền gửi theo từng loại tiền cụ thể ( có kỳ hạn, khơng kỳ
hạn, tiền gửi nội tệ, tiền gửi cá nhân, doanh nghiệp…) tùy theo từng mục đích
nghiêm cứu.
Tốc
độ
tăng tiền
=
gửi trong
kỳ (%)

Tiền gửi cuối kỳ - Tiền gửi
đầu kỳ
Tiền gửi đầu kỳ

x 100

Đây chỉ tiêu thể hiện độ ổn định trong hoạt động ngân hàng. Khi xem xét chỉ tiêu
này theo thời gian ta có thể biết được hoạt động huy động tiền gửi biến động như
thế nào. Đặt trong mối liên hệ với nền kinh tế, việc đánh giá mức độ ổn định tài
chính của ngân hàng đó càng trở nên dễ dàng hơn. Chẳng hạn, trong điều kiện lãi
suất biến động kịch tính, một ngân hàng vẫn duy trì tốc độ tăng tiền gửi đều đặn thì
có thể kết luận ngân hàng đó ổn định về huy động tiền gửi và ngược lại. Chỉ tiêu
này cũng có thể cho phép so sánh mức độ ổn định cũng như hiệu quả của chinh
sách lãi suất, hiệu quả của các hoạt động kích cầu gửi tiền ngân hàng trong huy

động tiền gửi giữa các ngân hàng với nhau. Đơn cử tại một thời điểm nhất định,
giữa các ngân hàng cạnh tranh huy động tiền gửi bằng các biện pháp marketing,
các chính sách lãi suất, nếu ngân hàng này có tốc độ tăng tiền gửi lớn hơn ngân
hàng kia có thể kết luận ngân hàng đó đã thực hiện các biện pháp kích cầu gửi tiền
hiểu quả hơn. Đặt trong mối liên hệ với hoạt động cho vay, nếu tốc độ tăng tiền gửi

1
1


chậm hơn tốc độ gia tăng tín dụng, ngân hàng có thể đứng trước rủi ro thiếu hụt
vốn – biểu hiện của mất an ninh tài chính…
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ln có sự chênh lệch về quy mô tiền gửi
ngắn hạn với tiền gửi trung và dài hạn. chênh lệch giữa tốc độ tăng tiền gửi nội tệ
và ngoại tệ. Nếu sự chênh lệch này không quá lớn và ổn định, ngân hàng sẽ đảm
bảo được an ninh tài chính và ngược lại, nếu có sự thay đổi thất thường và khoảng
cách gia tăng các loại tiền gửi quá lớn sẽ đe dọa sự ổn định và an toàn trong hoạt
động ngân hàng.
1.2.3. Sử dụng vốn
Là cầu nối dẫn vốn trong hệ thống tài chính, các NHTM sử dụng nguồn vốn nhàn
rỗi huy động được để cấp tín dụng cho các chủ thể thiếu vốn đầu tư. Cho vay hay
cấp tín dụng là việc để tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc cso hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Hoạt động cấp tín dụng
là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, vốn huy động để cấp tín dụng.
Trong việc sử dụng vốn, cần quan tâm tới các chỉ tiêu như tốc độ tăng các khoản
vay, đơn vị tiền tệ cho vay, chính sách lãi suất, các tỷ lệ về nợ quá hạn, nợ q hạn
khơng có khả năng thu hồi, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ hay trên tổng tài sản.
Chúng phản ánh một cách khách quan mức độ an tồn trong q trình hoạt động
kinh doanh của một NHTM. Chẳng hạn, khi tốc độ gia tăng các khoản vay quá lớn

do chính sách kích cầu vay vốn của ngân hàng sẽ đẩy ngân hàng đứng trước rủi ro
tín dụng, đối mặt với áp lực thu hồi các khoản nợ q hạn, nợ khó địi và làm giảm
hiệu quả kinh doanh cũng như đe dọa an ninh tài chính của bản thân ngân hàng.
Hoặc khi tỷ lệ các khoản cho vay bằng ngoại tệ hầu như không tăng trong tiền gửi
bằng ngoại tệ tăng mạnh sẽ dẫn tới tình trạng ứ đọng ngoại tệ trong các ngân hàng,
làm xấu đi trạng thái ngoại tệ kéo theo các hệ lụy khác và tạo ra tình trạng an ninh
tài chính khơng đảm bảo trong ngân hàng. Do đó, khi so sánh với các ngân hàng
trong và ngoài hệ thống, tốc độ gia tăng tín dụng ở mức vừa phải, đảm bảo cân đối
các loại tiền tệ cho vay, duy trì tỉ lệ nợ quá hạn ở mức hợp lý sẽ cho thấy sự lành
mạnh tài chính đảm bảo an ninh tài chính của một NHTM đó.

1
2


Để đánh giá sự an tồn trong q trình sử dụng vốn, tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu cơ
bản cho biết chất lượng một khoản vay và đảm bảo của khoản vay đó tại một thời
điểm trong kỳ kế hoạch.

Tỷ lệ nợ quá
=
hạn

Dư nợ quá hạn
x 100

Tổng dư nợ

Như vậy, nếu tỷ lệ này càng cao thì tình hình an ninh tài chính của ngân hàng càng
xấu vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi nhuận. Nhưng

nếu ngân hàng chỉ chú trọng duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà khơng tăng được
thu nhập thì khơng có ý nghĩa và chất lượng sử dụng vốn thấp. Do đó, để đạt mục
tiêu tăng trưởng và duy trì ổn định an ninh tài chính, tỷ lệ nợ quá hạn của một ngân
hàng cần được theo dõi, điều chỉnh phù hợp với thực tế ngân hàng cũng như tình
hình kinh tế xã hội.
1.2.4. Kết quả kinh doanh
Kết quả kinh doanh là một trong những chỉ tiêu cơ bản nói lên hiệu quả hoạt động
trong từng thời kỳ của các doanh nghiệp nói chung và một ngân hàng nói riêng. Từ
đó cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ biểu hiện mức độ an tồn tài chính
của ngân hàng đó. Song, như đã nói, khi xét kết quả kinh doanh để đánh giá các
mặt trong hoạt động của một doanh nghiệp, ngân hàng sẽ thật phiến diện và thiếu
chính xác nếu chỉ xét riêng chỉ tiêu lợi nhuận. Để việc đánh giá tích cực hơn và
khách quan hơn, phải đặt lợi nhuận trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác tùy
mục đích nghiêm cứu, như tổng tài sản, tổng nguồn vốn,..Thơng thường, đế so
sánh giữa kết quả kinh doanh của một NHTM giữa các thời kỳ và so sánh với các
NHTM khác, người ta thường dùng kết quả đạt được trên Báo cáo kết quả kinh
doanh làm căn cứ tính tốn các chỉ tiêu chủ yếu sau:
 Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ROA

1
3


ROA

=

Tổng lợi nhuận kế tốn trước
thuế
x 100

Tổng tài sản bình quân

Tỷ suất này cho biết một trăm đồng tài sản trong một kỳ hoạt động mang lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận cho ngân hàng. Trong điều kiện bình thường, tỷ suất này
càng cao càng tốt vì nó phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngày càng tăng. Tuy
nhiên, tỷ suất này chỉ nên duy trì ở mức độ vừa phải, không nên cao quá. Bởi nếu
chỉ chạy theo lợi nhuận, rất dễ vi phạm các mục tiêu khác như văn hóa, mơi
trường, kinh doanh lành mạnh…
Để tính tốn ROA, lợi nhuận trước thuế có thể là lợi nhuận dành cho chủ sở hữu
cũng có thể là lợi nhuận
trước thuế mà tài sản đó tạo ra trong một kỳ kinh doanh (bao gồm cả lợi nhuận
dành cho người cho vay) tùy theo mục đích nghiêm cứu. Đối với hoạt động ngân
hàng thì dùng tổng lợi nhuận trước thuế vì trong đó bao gồm cả phần mà ngân
hàng được hưởng khi doanh nghiệp chia lợi nhuận.

 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE
Lợi nhuận sau thuế
ROE =

Vốn chủ sở hữu bình x 100
quân

1
4


Chỉ tiêu này cho biết có bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế được tạo ra từ việc đầu
tư 100 đồng vốn chủ sở hữu. Nó nói lên hiệu quả hoạt động của đồng vốn mà
người chủ ngân hàng bỏ ra. Vì vậy, hệ số này ln được các nhà đầu tư quan tâm
hàng đầu, nhất là đối với các NHTM cổ phần. Tuy nhiên, nếu tính trong một cơng

ty con trong hệ thống của công ty mẹ hoặc một chi nhánh hay một phòng giao dịch
của một ngân hàng, để tính chỉ tiêu này cần thay vốn chủ sở hữu bình qn bằng số
liệu của vốn do cơng ty mẹ, sở giao dịch của ngân hàng cấp trên cung cấp. Phép
tính này cho kết quả để xem xét hiệu quả hoạt động của công ty con trực thuộc
công ty mẹ hoặc của chi nhánh hay phòng giao dịch trực thuộc một ngân hàng.
Hệ số này càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời cao của đồng vốn mà những người
chủ sở hữu ngân hàng bỏ ra, ngân hàng làm ăn kinh doanh có lãi và là cơ sở đảm
bảo an ninh tài chính của ngân hàng. Ngược lại, ROE thấp chứng tỏ hoạt động kinh
doanh của ngân hàng có vấn đề, ảnh hưởng đến niềm tin của các cổ đơng cũng như
tính thanh khoản, mức độ vững mạnh tài chính của bản thân ngân hàng đó. Tuy
nhiên, ROE thấp chưa hẳn là khơng tốt vì cịn phụ thuộc vào tình hình kinh tế vĩ
mơ, chiến lược hoạt động kinh doanh của các NHTM …Do vậy, để có kết luận
xác đáng, khi đánh giá chỉ tiêu này, cần quan tâm tới các nhân tố ảnh hưởng xung
quanh hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hai chỉ tiêu cơ bản trên không chỉ cho biết tình hình hoạt động kinh doanh của
ngân hàng tốt hay xấu mà còn phản ánh độ vững mạnh tài chính mà ngân hàng đó
thiết lập được. Các doanh nghiệp nói chung và các NHTM nói riêng sử dụng lợi
nhuận thu được hàng kỳ như một khoản để trang trải chi phí, thực hiện chiến lược
kinh doanh. Do vậy, lợi nhuận càng cao ngân hàng càng có tính thanh khoản cao,
đảm bảo đáp ứng khi khách hàng có khả năng rút tiền hay thanh tốn các chi phí có
liên quan trong q trình kinh doanh. Lợi nhuận cao cũng góp phần làm tăng niềm
tin của cơng chúng, bao gồm cả khách hàng lẫn các đối tác, đối với ngân hàng. Để
từ đó, ngân hàng dễ dàng thực hiện các chiến lược kinh doanh một cách có hiệu
quả, hạn chế những sự cố bất thường ngồi dự đốn.
1.2.5. Tỷ lệ an toàn
Các tỷ lệ an toàn và tỷ lệ dự trữ nằm trong số các chỉ tiêu được quan tâm hàng đầu
khi xem xét mức độ an ninh tài chính của một NHTM. Chúng cho biết ngân hàng
1
5



đó có đảm bảo an tồn về thanh khoản, về cho vay và các hoạt động khác hay
không. Để giảm thiểu và kiểm soát rủi ro trong hoạt động của các TCTD. Theo đó,
các TCTD phải thực hiện duy trì các tỷ lệ đảm bảo an toàn bao gồm:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Tỷ lệ vốn tự có so với tài sản Có được điều
chỉnh theo mức độ rủi ro
- Giới hạn tín dụng đối với khách hàng: Mức vốn tối đa trên quy mơ vốn tự
có mà ngân hàng có khả năng cung cấp cho khách hàng vay
- Tỷ lệ về khả năng chi trả : Tài sản Có có thể thanh tốn ngay trên các loại
tài sản Nợ phải thanh toán tại một thời điểm.
- Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài
hạn : Khống chế giới hạn vốn ngắn hạn có thể dùng để cho vay trung và dài
hạn.
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần: Là tỷ lệ phần trăm vốn mà ngân hàng có
thể sử dụng để góp vốn liên doanh, mua cổ phần.
Trong số đó, chỉ tiêu cần được đặc biệt quan tâm, thể hiện tiềm lực tài
chính của ngân hàng đó là Tỷ lệ vốn tự có trên Tài sản Có đã hiệu chỉnh
rủi ro (Capiatal Adequacy Ratio – CAR) hay cịn gọi là Tỷ lệ an tồn vốn
tối thiểu.

CAR =

Vốn cấp I + Vốn cấp II
Tài sản Có đã điều chỉnh rủi
x 100
ro

Tỷ lệ này thường dùng để bảo vệ người gửi tiền trước rủi ro ngân hàng và tăng tính
ổn định cũng như hiệu quả của hệ thống tài chính một quốc gia cũng như tồn thế
giới. CAR cho phép xác định được khả năng của ngân hàng thanh tốn các khoản

nợ có ky hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
Giống như chuẩn mực Basel mà các hệ thống ngân hàng trên thế giới áp dụng phổ
biến, ở Việt Nam, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đang là 8%. Song việc duy trì tỷ lệ
này cũng còn tùy thuộc vào quy định của từng quốc gia. Ngoài yêu cầu về tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu là như trên, ngân hàng cần phải đảm bảo tổng vốn cấp II không
được vượt quá 100% vốn cấp I.
1
6


Bên cạnh đó, ngân hàng cịn phải khống chế tổng dư nợ cho vay đối với một khách
hàng ở một giới hạn nhất định. Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng bao
gồm tổng dư nợ cho vay của sở giao dịch và các chi nhánh của TCTD đối với
khách hàng. Mục đích của quy định này là hạn chế rủi ro cho ngân hàng, tăng hiệu
quả sử dụng vốn và bảo vệ lợi ích cho người đi vay. Ở Việt Nam hiện nay, tổng dư
nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của TCTD.
Nếu nhu cầu vay vốn của khách hàng vượt quá giới hạn này, ngân hàng có thể áp
dụng hình thức cho vay hợp vốn hoặc trình Thủ tướng Chính Phủ xem xét trong
từng trường hợp cụ thể.
Việc chấp hành và duy trì các tỷ lệ an tồn trên là cơ sở để đánh giá tình hình an
ninh tài chính của ngân hàng có đảm bảo hay khơng và đảm bảo ở mức độ như thế
nào. Các NH rất coi trọng các tỷ lệ này trong hoạch định và quản lý kinh doanh.
Đồng thời, căn cứ vào các chỉ tiêu đó, ban lãnh đạo ngân hàng có thể đưa ra chiến
lược phát triển phù hợp, hạn chế và phân tán rủi ro, kinh doanh hiệu quả và bảo vệ
lợi ích của khách hàng.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh tài chính
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách kinh doanh của ngân hàng
Chính sách kinh doanh của ngân hàng bao gồm các quyết định chiến lược, sách
lược về tất cả các phương diện hoạt động của ngân hàng như chính sách huy động

và sử dụng vốn, thành lập các quỹ dự phịng rủi ro, chính sách đào tạo con người,
đầu tư cơ sở hạ tầng, quan hệ xã hội… Việc đưa ra các chính sách này sẽ có tác
động tích cực hoặc tiêu cực tới tình hình an ninh tài chính của tồn hệ thống ngân
hàng đó, khơng loại trừ cả các chi nhánh và phịng giao dịch. Chẳng hạn, ngân
hàng đưa ra chính sách cho vay với các điều kiện tín dụng cạnh tranh hơn các ngân
hàng khác sẽ kích thích tăng trưởng tín dụng và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng này.
Giả sử tốc độ tăng tiền gửi nhỏ hơn nhiều tốc độ tăng cho vay, ngân hàng sẽ dễ lâm
vào tình trạng thiếu vốn - một biểu hiện của mất an ninh tài chính. Để giải quyết
khó khăn, ngân hàng sẽ phải áp dụng nhiều biện pháp để huy động vốn như nâng
lãi suất tiền gửi, thực hiện marketing…Ảnh hưởng của các chính sách, vì thế, là
quyết định đến tình hình an ninh tài chính của ngân hàng. Mà bản thân cơng tác
hoạch định lại bị chi phối bởi chất lương, kinh nghiệm làm việc của ban lãnh đạo
1
7


ngân hàng và các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Do vậy, để duy trì một tình hình tài
chính ổn định, an tồn, vững mạnh cần và khơng bị khủng hoảng thì địi hỏi các
nhà quản lý phải cực kỳ sáng suốt, nhạy bén khi phân tích diễn biến kinh tế trong
và ngồi nước mới có thể đưa ra những chính sách hợp lý, hiệu quả cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
1.3.1.2. Quy mô và mạng lưới hoạt động
Ở Việt Nam hiện nay, có thể đánh giá quy mô một NH thông qua các chỉ tiêu như
VCSH ( Tổng nguồn vốn – Tổng tài sản ), kết quả hoạt động kinh doanh, số lượng
lao động và Thuế nộp cho NSNN hàng kỳ, Ngân hàng có quy mơ càng lớn thì càng
ít gặp rủi ro trong kinh doanh, dễ dàng đối phó với những biến động thất thường
của nền kinh tế do sự đảm bảo về uy tín, niềm tin trong công chúng cũng như sự
vững vàng về năng lực cạnh tranh thơng qua tiềm lực tài chính hùng mạnh. Do đó,
quy mơ ngân hàng là nhân tố quan trọng giúp duy trì sự ổn định, vững mạnh và an
toàn trong hoạt động kinh doanh.

Mạng lưới hoạt động thể hiện qua số lượng sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao
dịch và độ rộng của địa bàn kinh doanh mà ngân hàng đang chi phối. Mạng lưới
càng rộng khắp thì càng có ưu thế và càng thuận lợi hơn để thâm nhập thị trường,
thu hút khách hàng, nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh và hơn thế nữa là phân
tán, bù đắp rủi ro giữa các chi nhánh, phòng giao dịch. Trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay, những NH có mạng lưới chi nhánh, phịng giao dịch
khơng chỉ ở trong nước mà cịn ở nước ngồi ln được đánh giá cao về năng lực
cạnh tranh cũng như độ an tồn tài chính. Ngược lại, nếu ngân hàng có mạng lưới
chi nhánh chưa phát triển rộng khắp thì đó là một bất lợi trong đảm bảo an ninh tài
chính vì khả năng đối phó, phân tán rủi ro kém hơn. Chính vì lẽ đó, “ khơng ngừng
vươn cao, vươn xa” là biện pháp giúp các ngân hàng duy trì an ninh tài chính cho
mình.
1.3.1.3. Nguồn nhân lực
Được xem là “ Nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên”, chất
lượng công nhân viên là nhân tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành cơng của
một ngân hàng nói chung và tình hình an nình tài chính của ngân hàng đó nói
riêng. Mặc dù các phương tiện thiết bị hiện đại ngày càng thay thế dần sức lao
động thủ cơng nhưng vai trị của con người trong lao động là không thể thiếu. Với
1
8


những sự có mặt ở tất cả các khâu trong quá trình vận hành kinh doanh, chất lượng
đội ngũ cán bộ cơng nhân viên càng cao thì hiệu quả hoạt động càng cao, giảm
thiểu được rủi ro, an ninh tài chính càng được đảm bảo và ngược lại. Nhất là trong
điều kiện bùng nổ công nghệ thông tin, công nghệ số hiện đại ngày nay, vai trò của
con người càng được nhấn mạnh hơn. Một sơ hở dù nhỏ cũng có thể là nguyên
nhân gây ra những thiệt hại lớn. Do đó, ở bất kỳ thời điểm nào và bất kỳ bộ phận,
vị trí nhân sự nào cũng cần được tuyển chọn kỹ lưỡng, cần được quan tâm, giám
sát và nâng cao năng lực thường xuyên. Có như vậy, hoạt động ngân hàng mới

diễn ra lành mạnh, vững vàng và đảm bảo an ninh, không bị khủng hoảng.
1.3.1.4. Các nhân tố khác
Ngoài những nhân tố cơ bản kể trên, bất cứ nhân tố nào ảnh hưởng tới hoạt động
kinh doanh của ngân hàng cũng có thể tác động tới tình hình an ninh tài chính.
Thâm niên hoạt động, uy tín, thương hiệu, lĩnh vực hoạt động, điều kiện cơ sở vật
chất …là những nhân tố thuộc loại này. Một ngân hàng hoạt động lâu năm, uy tín
lớn với thương hiệu mạnh chắc chắn sẽ có cơ sở về cả vật chất lẫn tinh thần để duy
trì một tình hình tài chính an tồn hơn là một ngân hàng cịn non trẻ khiêm tốn về
uy tín cũng như hạn chế về thương hiệu. Hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ổn định,
ít biến động sẽ tránh cho ngân hàng vấp phải những rủi ro, khủng hoảng mà kinh
doanh có lãi. Hoặc khi ngân hàng được trang bị một cách đầy đủ cơ sở vật chất,
hoạt động kiểm tra giám sát, theo dõi tình hình kinh doanh dễ dàng, chặt chẽ và sâu
sát hơn. Từ đó, ngân hàng sẽ có biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro một cách kịp
thời, đảm bảo an ninh tài chính và đối phó với các biến động kinh tế, tài chính.
1.3.2. Nhân tố khách quan
1.3.2.1. Tình hình kinh tế trong và ngồi nước
An ninh tài chính doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng của an ninh tài chính
quốc gia. Trong thế giới của những giao thoa kinh tế quốc tế, an ninh tài chính
quốc gia là một mắt xích của an ninh tài chính tồn cầu. Mối liên hệ khăng khít này
đặt các NH chịu tác động của diễn biến kinh tế tài chính khơng chỉ ở phạm vi một
nước mà cịn trên phạm vi toàn thế giới. Bất kỳ biến động kinh tế nào dù trong hay
ngồi nước cũng có thể ảnh hưởng đến an ninh tài chính của ngân hàng là rất cao.
Ngược lại, một bức tranh kinh tế đầy xáo trộn và diễn biến thất thường sẽ khiến
cho các ngân hàng duy trì hoạt động một cách ổn định, an tồn là rất khó khăn. Do
1
9


đó, có thể nói rằng tình hình kinh tế trong nước cũng như ngoài nước là nhân tố
quan trọng tác động đến việc đảm bảo an ninh tài chính của các donah nghiệp nói

chung và các NH nói riêng. Và các chính sách ngân hàng nhằm thực hiện đảm bảo
an tồn tài chính cần được xem xét trong mối quan hệ khăng khít với bức tranh
kinh tế trong nước và trên thế giới
1.3.2.2. Các chính sách kinh tế vĩ mơ và hành lang pháp lý
Trên giác độ một loại hình daonh nghiệp kinh doanh đặc biệt, hoạt động của các
NH chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các chính sách kinh tế vĩ mô cũng như hành lang
pháp lý trong từng thời kỳ. Một mặt, các NH chịu sự quản lý của các cơ quan chủ
quản như NHNN, Bộ Tài chính…và có nghĩa vụ thi hành các chính sách, các quy
định, luật định…trong khuôn khổ mà câc cơ quan này đề ra. Mặt khác, các NH
hoạt động phụ thuộc vào nhu cầu của các đối tượng khách hàng trong xã hội. Nếu
các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân hoạt động hiệu quả, nhu cầu tín dụng cao và ổn
định sẽ là điều kiện tốt để NH kinh doanh an tồn, có lãi và ngược lại. Do vậy, nếu
các chính sách kinh tế vĩ mơ có hiệu quả, hành lang pháp lý thơng thống thì các
chủ thể kinh tế sẽ phát triển kinh doanh, gia tăng nhu cầu tín dụng lành mạnh và
kéo theo đó là các NH ít gặp rủi ro, biến động.
Tầm quan trọng của các chính sách kinh tế, các quy định của Chính phủ, NH NN
cịn thể hiện ở việc ra các quy định làm căn cứ kinh doanh cho hoạt động kinh
doanh ngân hàng. Trong đánh giá an ninh tài chính của một ngân hàng, nếu các
quy định quá chặt chẽ , đặc biệt là quy định về các tỷ lệ an tồn, thì sẽ đẩy các
ngân hàng đối mặt với những khó khăn về lợi nhuận, chi phí mặc dù có thể việc
chấp hành đó giúp cho ngân hàng đảm bảo an toàn kinh doanh cao. Duy trì một các
tỷ lệ an tồn ở mức q cao là điều các bất cứ doanh nghiệp nào hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận khơng mong muốn, vì nó làm giảm lợi nhuận của bản thân doanh
nghiệp. Một lần nữa, bài tốn tính thanh khoản – an tồn và lợi nhuận lại được đặt
ra. Những tác động của các chính sách kinh tế vĩ mơ ln mang tính hệ thống và
hai mặt. Vấn đề là ở chỗ, khi thực hiện một quy định thì sự đánh đổi giữa được và
mất – cái nào lớn hơn. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, các nhà
xây dựng luật cần có cái nhìn tổng quan, tồn diện, sâu sát với diễn biến kinh tế
từng thời kỳ để có thể xây dựng các công cụ điều tiết kinh tế vĩ mơ hiệu quả, tạo
điều kiện cho các NH duy trì và đảm bảo an ninh tài chính lâu bền.


2
0



×