Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính tại Sở giao dịch I ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.46 KB, 74 trang )

MỤC LỤC
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
WB: Ngân hàng thế giới
NHTM: Ngân hàng thương mại
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á
AFTA: Hiệp hội mậu dịch tự do các nước ASEAN
APEC: Tổ chức diễn đàn kinh tế Thái Bình Dương
WTO: Tổ chức thương mại Thế giới
WP: Nhóm công tác về Việt Nam gia nhập WTO
PNTR: Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam.
NHTW: Ngân hàng Trung ương
VTC: Vốn tự có
TCTĐ: Tổ chức tín dụng
NH: Ngân hàng
ICB: Ngân hàng công thương
ICBV: Ngân hàng công thương Việt Nam
CUB: Ngân hàng Cathay United
VNĐ: Tiền Việt Nam đồng
BIDV: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
NHTMQD: Ngân hàng thương mại quốc doanh.
NHNo&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
SGD: Sở giao dịch
VCB: Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội.
USD: Đô la Mỹ
Habubank: Ngân hàng nhà Hà Nội.
Techcombank: Ngân hàng kỹ thương
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
ACB: NGân hàng thương mại cổ phần Á Châu


ROE: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có bình quân
2
ROA: Tỷ suất sinh lời trên tài sản bình quân
NIM: Tỷ lệ lãi biên
BFSD: Chỉ tiêu sức mạnh tài chính độc lập
AFAS: Hiệp định khung về thương mại dịch vụ
ASEAN: Hiệp hội các nước châu Á Thái Bình Dương
TTCK: Thị trường chứng khoán
HĐQT: Hội đồng quản trị
CSTT: Chính sách tiền tệ
TSC: Tài sản có
CPH: Cổ phần hóa
TCT: Tổng Công ty
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU
1. HỘP:
BOX 1.1: Nhận định của Phó thống đốc ngân hàng nhà nước về an ninh tài chính
trong các ngân hàng thương mại................................................................15
BOX 2.1 Thực trạng dư nợ của một số NHTMQD Việt Nam.................................37
BOX 3.1 Nhận định của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam về ngân hàng
sau khi gia nhập WTO................................................................................55
BOX 3.2 Phân loại nợ trong các ngân hàng thương mại..........................................61
2. BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1 Dư nợ cho vay theo thời gian....................................................................38
Bảng 2.2: Dư nợ cho vay phân theo loại tiền...........................................................39
Bảng 2.3 Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế...........................................40
Bảng 2.4: Tình hình dự trữ bắt buộc .........................................................................43
Bảng 2.5: Tình hình dự trữ thanh toán......................................................................44
3. BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Tỷ trọng tiền gửi tại Sở giao dịch ( theo nguồn huy động)..................36

Biểu đồ 2.2 Tỷ trọng tiền gửi tại Sở giao dịch ( phân theo loại tiền).......................36
Biểu đồ 2.3 Doanh số cho vay của Sở giao dịch.......................................................38
Biểu đồ 2.4 Dư nợ cho vay phân theo thời gian........................................................39
Biểu đồ 2.5 Dư nợ cho vay phân theo thành phần kinh tế.......................................40
Biểu đồ 2.6 Tỷ trọng nợ quá hạn của Sở giao dịch năm 2007.................................41
Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của Sở giao dịch......................................42
4
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của việc chọn đề tài
Ngày 7/11/2006, khi tiếng búa của Tổng giám đốc Tổ chức thương mại thế
giới (WTO) Pascal Lamy vang lên, hàng chục triệu người dân Việt Nam hân hoan
trong niềm vui hội nhập. Gia nhập vào đại gia đình WTO là Việt Nam chúng ta
bước vào cánh cửa của nền kinh tế thế giới với tư cách là một thành viên được đối
xử bình đẳng, công bằng như 149 thành viên khác của tổ chức thương mại lớn nhất
hành tinh này. Thuận lợi rất nhiều nhưng khó khăn cũng không thiếu. Một trong
những khó khăn của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập là việc đảm bảo
an ninh tài chính trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Đảm bảo an ninh tài chính ngày càng trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi
một quốc gia, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá nền kinh tế tài
chính đang diễn ra nhanh, mạnh mẽ như hiện nay. Đối với Việt Nam hiện nay, một
nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN thì việc đảm
bảo an ninh tài chính càng có ý nghĩa quan trọng, là môt trong những điều kiện tiên
quyết để phát triển nền kinh tế với tốc độ cao, ổn định.
Các ngân hàng thương mại hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu
sang cổ phần hoá, nhưng tiềm lực tài chính còn mỏng, trình độ thấp cho nên vẫn
tồn tại nhiều thuận lợi cũng như thách thức, trở ngại đối với việc đảm bảo an ninh
tài chính trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là
một tổ chức tài chính có liên quan tới mọi mặt của nền kinh tế nhưng lại hết sức
nhạy cảm đối với những biến động của thị trường. Nếu không có ngay các biện
pháp củng cố và giữ vững an ninh tài chính cho các hệ thống các ngân hàng thương

mại thì không những hệ thống các ngân hàng hoạt động không hiệu quả mà rủi ro
cao dẫn tới khủng hoảng tài chính tiền tệ, gây ra đổ vỡ dây chuyền, tác động xấu
tới toàn bộ sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
An ninh tài chính, trong đó có an ninh tài đối với các ngân hàng thương mại
không phải là một khái niệm hoàn toàn mới, song chưa được nghiên cứu một cách
5
đầy đủ, có hệ thống và được biết tới rộng rãi và được đánh giá đúng vai trò của nó
ở Việt Nam, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế của Việt nam hiện nay.
Phần lớn số NHTM nước ta đều ở tình trạng an toàn thấp, chưa đáp ứng các
chuẩn mực về an toàn, không chỉ của quốc tế mà ngay cả theo chuẩn mực quy định
của Việt Nam. Với những hạn chế về trình độ tổ chức, chuyên môn nghiệp vụ và
công nghệ, thì nhiều NHTM khó có thể cải thiện mức độ an toàn của mình cũng
như bảo đảm sự vững mạnh trong hoạt động ngân hàng. Ðó là chưa nói tới sự tăng
trưởng và phát triển bền vững.
Xuất phát từ nhu cầu và sự cần thiết trên cộng thêm quá trình tìm hiểu thực tế trong
thời gian thực tập tại Sở giao dịch I Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn Việt Nam, em chọn đề tài : Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính tại Sở giao
dịch I NHNo & PTNT VN để phục vụ cho việc nghiên cứu và thực hiện chuyên đề
tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu
Đưa ra lý luận cơ bản về an ninh tài chính và tầm quan trọng của an ninh tài
chính trong các ngân hàng thương mại
Đánh giá thực trạng việc đảm bảo an ninh tài chính tại Sở giao dịch I NHNo&
PTNT VN, từ đó tìm hiểu các nguyên nhân gây ra những tồn tại trong công tác
này.
Đề xuất hệ thống các giải pháp tài chính nhằm đảm bảo an ninh tài chính tại Sở
giao dịch I khi hội nhập
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về an ninh tài chính tại Sở
giao dịch I, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo an ninh tài chính tại Sở giao

dịch I NHNo&PTNT VN.
Đề tài tập trung tìm hiểu về an ninh tài chính tại Sở giao dịch I trong những năm
gần đây ( số liệu cụ thể trong 3năm gần đây nhất )
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch
sử. Đề tài đã sử dụng các phương pháp cụ thể như nhau: phương pháp điều tra,
6
phương pháp phan tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp tổng kết kinh nghiệm..
Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, nội dung của chuyên
đề tốt nghiệp bao gồm 3 chương:
Chương 1:Những vấn đề cơ bản về an ninh tài chính đối với các ngân hàng
thương mại.
Chương 2 : Thực trạng an ninh tài chính tại sở giao dịch I NHNo & PTNT
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính tại Sở giao dịch I ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ AN NINH
TÀI CHÍNH TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 An ninh tài chính
1.1.1 Một số khái niệm về an ninh tài chính
Từ trước tới nay, khi nhắc tới an ninh, người ta thường nghĩ ngay đến an ninh
chính trị, quân sự, xã hội và việc đảm bảo an ninh bằng các biện pháp vũ trang,
thiết chế luật pháp cưỡng chế thi hành pháp luật, và vấn đề an ninh cũng gắn chặt
với chủ quyền quốc gia. Gần đây, khái niệm an ninh đã được mở rộng sang các
lĩnh vực kinh tế, tài chính và đặc biệt đã được nâng lên tầm quan trọng trong khu
vực và trên thế giới sau khi chứng kiến một số sự mất ổn định về kinh tế của một

quốc gia không chỉ đe doạ an ninh của quốc gia đó mà còn có thể trở thành ngòi nổ
dẫn tới khủng hoảng toàn diện, đe doạ sự ổn định của khu vực và toàn cầu dưới tác
động của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Vấn đề an ninh tài chính càng ngày càng trở nên quan trọng đối với một quốc
gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá nền kinh tế đang diễn ra
nhanh và mạnh như hiện nay.
An ninh tài chính không phải là một khái niệm hoàn toàn mới nhưng vẫn chưa
được nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống, đặc biệt là an ninh tài chính trong
vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, vấn đề an ninh tài chính gắn bó chặt
chẽ với những điều kiện cụ thể của từng nước, cho nên để đưa ra một định nghĩa
chung chính xác là một vấn đề cần được nghiên cứu cụ thể.
Dù các quan niệm về an ninh ở các nước khác nhau có những sự khác nhau
nhất định song tất cả đều thống nhất ở một điểm, an ninh là chỉ một tình trạng hay
trạng thái không bị nguy hiểm, và bảo đảm an ninh đồng nghĩa với việc không để
rơi vào tình trạng nguy hiểm.
Theo các học giả người Trung Quốc, an ninh quốc gia và khái niệm chính trị
cơ bản nhất, trong đó an ninh kinh tế là hạt nhân của an ninh quốc gia. Người Nga
lại cho rằng an ninh kinh tế là trạng thái mà trong đó một quốc gia có đủ sự tự chủ
8
để hoạch định chính sách phát triển kinh tế của nước mình mà không bị sự can
thiệp của bên ngoài.
Trước đây, khi nói về an ninh kinh tế là chỉ an ninh về tài nguyên, bảo đảm
việc cung cấp tài nguyên có hiệu quả. Ngày nay, an ninh kinh tế quốc gia chỉ đảm
bảo an ninh cung cấp tài nguyên và an ninh thị trường sản phẩm là chưa đủ, quan
trọng là phải tranh thủ giành ưu thế trong lĩnh vực kỹ thuật cao và kỹ thuật mới,
nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu ngành nghề theo hướng thúc đẩy phát triển các
ngành kỹ thuật cao và mới, đẩy nhanh tốc độ sản phẩm hoá tri thức và bảo hộ
quyền sở hữu tri thức.
Gần đây một số nhà kinh tế Việt Nam cho rằng: “An ninh tài chính chính là
sự đảm bảo cho hệ thống tài chính tiền tệ được ổn định lâu dài, có thể ngăn ngừa

một cách hiệu quả những tác động tiêu cực, trong mối đe doạ từ trong nước cũng
như từ nước ngoài trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Dưới ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá tài chính các nước phải
đối mặt với rủi ro tài chính ngày càng lớn và khủng hoảng tài chính đã trở thành
mối đe doạ chủ yếu đến an ninh kinh tế thế giới. Chính vì vậy, tăng cường an ninh
tài chính, hoàn thiện và cải cách thể chế giám sát tài chính, thiết lập cơ chế ứng
phó tiền tệ cần thiết, cơ chế ngăn chặn rủi ro linh hoạt, tăng cường phối hợp và hợp
tác với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực tài chính, đã trở thành nội dung chính của
an ninh kinh tế. Từ đó ta có thể thấy được an ninh tài chính là một khái niệm cơ
bản, là điều kiện thiết yếu để một nền tài chính tồn tại và phát triển, cũng như đảm
bảo an ninh kinh tế và phát triển bền vững. Vậy an ninh tài chính là gì?
An ninh tài chính là một khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài chính ổn
định, an toàn, vững mạnh và không bị khủng hoảng.
Ổn định được hiểu là duy trì được hoạt động bình thường, không có những
biến động đột ngột, thất thường. Tuy nhiên, ổn định không có nghĩa là cố gắng giữ
nguyên mọi thứ như cũ mà là giữ được ổn định trong tiến trình phát triển đi lên,
không ngừng cải tiến và hoàn thiện. Theo giới tài chính quốc tế, ổn định tài chính
là cực kỳ quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và không thể có ổn định tài chính
nếu thiếu hệ thống tài chính mạnh.
9
An toàn được hiểu là trạng thái không bị nguy hiểm từ phía các tác động bên
trong và bên ngoài. Giữ an toàn đồng nghĩa với không tự mình gây hại cho mình
đồng thời ngăn chặn và chồng lại được sự tấn công phá hoại từ bên ngoài. Nếu ổn
định là tiền đề có tính chất nền tảng thì an toàn là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình
vận động của tình trạng tài chính.
Vững mạnh là cơ sở cho sự ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu
không thể giữ được ổn định và an toàn, một trạng thái tài chính yếu không thể giữ
được ổn định và đảm bảo an toàn.
1.1.2 Quan điểm về an ninh tài chính trong hoạt động tín dụng, ngân hàng.
Theo Ngân hàng thế giới (WB): “Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi

chủ yếu ở dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi được phép rút ra với một thông báo
ngắn hạn( tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và các khoản tiết kiệm)”
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
Các ngân hàng gồm nhiều loại như ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu
tư,...Nhiều nước, trong đó có Việt Nam phát triển loại ngân hàng tổng
hợp(universal bank) kết hợp hoạt động của ngân hàng thương mại với ngân hàng
đầu tư, dịch vụ bảo hiểm, cho thuê tài chính...
Như vậy, an ninh tài chính đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng là việc
đảm báo hoạt động của các tổ chức tín dụng được tiến hành một cách ổn định, an
toàn và vững mạnh. Ba nguyên tắc đó được sử dụng cho các hoạt động ngân hàng
cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán (một trong những hoạt động chủ yếu
của cấp tín dụng) của các ngân hàng.
Tình trạng tài chính của một ngân hàng hay hệ thống ngân hàng tại một thời
điểm được mô tả trong bảng cân đối của ngân hàng và những thay đổi trong bảng
cân đối qua mỗi thời điểm phản ánh diễn biến tình trạng tài chính của ngân hàng
qua từng giai đoạn.
10
Bên cạnh những hoạt động phản ánh trong bảng cân đối, nhằm mục tiêu tăng
lợi nhuận trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các ngân hàng đẩy
mạnh hoạt động ngoài bảng cân đối liên quan tới mua bán các công cụ tài chính và
tạo ra thu nhập nhờ các khoản lệ phí và bán những khoản cho vay ,.. các hoạt động
ngoài bảng cân đối làm tăng rủi ro của các ngân hàng và buộc ngân hàng phải tăng
cường quản lý rủi ro của các hoạt động ngoài bảng cân đối.
An ninh tài chính là vấn đề đặt lên hàng đầu cho sự tồn tại và phát triển các
ngân hàng trong kinh tế thị trường. Nó bao trùm lên tất cả các mặt hoạt động và là
chỉ tiêu cuối cùng đánh giá hiệu quả kinh doanh của ngân hàng trong mối quan hệ
với sự tăng trưởng của các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự cần thiết

đảm bảo an ninh tài chính của các ngân hàng không nằm ngoài những yếu tố kinh
tế xuất phát từ bản thân hoạt động của ngân hàng và mối quan hệ biện chứng giữa
hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh tế-xã hội.
Ngân hàng là một ngành nhạy cảm, do có quan hệ giao dịch với nhiều loại
khách hàng ( doanh nghiệp, các nhân);nhiều tổ chức tín dụng, tài chính trung
gian...Hoạt động của ngân hàng gắn liền với mọi hoạt động kinh tế-xã hội không
chỉ ở trong nước mà còn trên phạm vi thế giới. Chính từ bản chất đó, hoạt động của
ngân hàng luôn chứa đựng nhiều rủi ro”tiềm ẩn”, có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Có
nhiều loại rủi ro xảy ra trong hoạt động ngân hàng như: rủi ro rín dụng, rủi ro lãi
suất. rủi ro hối đoái, rủi ro thanh toán,...nhưng tiêu biểu nhất, trầm trọng nhất là rủi
ro tín dụng.
Do đặc thù của hoạt động ngân hàng, các ngân hàng không thể tự mình
chống đỡ rủi ro. Nếu có sự thất thoát dù chỉ ở một ngân hàng và ở một mức độ
nhất định nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và ổn định của cả hệ thống ngân
hàng. Dù rủi ro xảy ra ở một ngân hàng hay rủi ro hệ thống đều gây nên sự xuất
hiện bất ngờ, thất thoát tài sản, hiệu quả kinh doanh giảm sút nhanh chóng, đe dọa
đến tình hình tài chính của ngân hàng.
Tóm lại, an ninh tài chính trong ngân hàng là trạng thái các tài sản( tài sản
nợ- nguồn vốn, tài sản có, tài sản ròng) ổn định, an toàn và vững mạnh. Bảo đảm
an ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTM nói chung và của một ngân
11
hàng nói riêng là việc sử dụng các biện pháp giữ cho các tài sản của ngân hàng đó
luôn luôn ổn định, an toàn, vững mạnh và không khủng hoảng. Thiết lập được
mạng lưới an ninh có khả năng phòng ngừa, ứng phó kịp thời, nhanh nhạy, hiệu
quả đối với các loại hình tội phạm kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng phát
triển với hình thức ngày càng đa dạng, phức tạp, tính chất mức độ vi phạm ngày
càng tinh vi.
1.1.3 Sự cần thiết phải đảm bảo an ninh tài chính trong thời kỳ hội nhập.
1.1.3.1 Tiến trình Việt Nam ra nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế phát triển kinh tế của mỗi quốc gia

trong giai đoạn hiện nay. Cùng với chính sách mở cửa, quá trình hội nhập của nền
kinh tế Việt Nam với kinh tế khu vực và thế giới là một tất yếu khách quan. Trên
thực tế, nước ta đã và đang từng bước tham gia vào quá trình phân công, hợp tác
quốc tế và quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Việt Nam hiện đã mở rộng
mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương, phát triển quan hệ đầu tư với
gần 70 nước và lãnh thổ; bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát
triển Châu Á(ADB). Bên cạnh đó, ngày 28/7/1995 nước ta đã gia nhập Hiệp hội
Mậu dịch tự do các nước ASEAN (AFTA). Tháng 11/1998 , Việt Nam trở thành
thành viên của Tổ chức Diễn đàn kính tế Thái Bình Dương (APEC). APEC với 21
nước thành viên chiếm hơn ½ GNP của thế giới và khoảng 80% khối lượng mậu
dịch với Việt Nam đang là mối quan tâm lớn trong chiến lược phát triển kinh tế
của nước ta cũng như các nước khác trên thế giới. Ngày 10/7/2000 chúng ta đã ký
Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ và hiệp định này đã có hiệu lực vào năm 2001.
Việt Nam chính thức nộp đơn gia nhập WTO tháng 1/1995. Năm 1996, tại
WTO, Nhóm Công tác (WP) về Việt Nam gia nhập WTO được thành lập với sự
tham gia của trên 20 nước (hiện nay con số này là gần 40). Đến tháng 8/2001, ta
chính thức đưa ra Bản chào ban đầu về hàng hóa và dịch vụ (Ininitial Offer) để
bước vào giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành
viên Ban Công tác.
12
Sau gần 11 năm đàm phán, vào cuối năm 2006, Phó Thủ tướng kiêm Bộ
trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ ta tham dự
“Lễ kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO”. Tại Lễ gia nhập
ngày 7/11/2006, Phó Thủ tướng và các thành viên WTO đã chứng kiến việc ký
Nghị định thư gia nhập giữa Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng
Giám đốc WTO Pascal Lamy.
Vào ngày 9/12/2006, quốc hội Mỹ đã thông qua “Quy chế thương mại bình
thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR)”, và vào ngày 20/12/2006 Tổng thống Mỹ
G.Bush ký thông qua dự luật trao quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn cho

Việt Nam. Dự luật này được thông qua đã đánh dấu việc bình thường hóa hoàn toàn
quan hệ song phương giữa hai nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế-thương mại.
Trên đây là những bước đi quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc
tế của nước ta. Quá trình hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới sẽ tạo ra cho
chúng ta những thuận lợi, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức, khó khăn đối với
việc phát triển kinh tế, trong đó có vấn đề đảm bảo an ninh tài chính trong các
ngân hàng thương mại
1.1.3.2 Sự cần thiết phải đảm bảo an ninh tài chính trong các ngân hàng thương
mại Việt Nam.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sẽ có tác động tới rất nhiều
lĩnh vực, nhiều yếu tố, trong đó có các nhân tố ảnh hưởng đến an ninh tài chính
trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt là các nhân tố bên ngoài ngân
hàng như trạng thái phát triển kinh tế, sự biến động của thị trường, chính sách pháp
luật của nhà nước...Khi Việt Nam gia nhập WTO, và tới năm 2010 khi mà các
ngân hàng thương mại nước ngoài có thể kinh doanh, phát triển tại Việt Nam thì
thi trường của các ngân hàng thương mại trong nước sẽ bị sụt giảm một cách
nghiêm trọng. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ phải đối mặt với mức độ
cạnh tranh cao hơn trước. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với vốn và kinh
nghiệm non nớt sẽ phải đối mặt với những ngân hàng dày dặn kinh nghiệm, khoa
học kỹ thuật hiện đại, tiềm lực tài chính to lớn và lợi thế cạnh tranh cao.Ngoài ra,
các quy định của Chính phủ sẽ phải thay đổi cho phù hợp với các quy định, thông
13
lệ quốc tế, hay các hiệp ước mà Việt Nam tham gia. Các ngân hàng thương mại
Việt Nam sẽ khó lòng có được sự bảo trợ của nhà nước cũng như của NHTW như
hiện nay...
Những sự thay đổi của các nhân tố bên ngoài này sẽ có tác động với mức độ,
tính chất và khía cạnh khác nhau tới an ninh tài chính trong ngân hàng thương mại.
Đối với Việt Nam, sự biến động về tình hình an ninh tài chính trong ngân hàng
thương mại sẽ tác động tới các khâu còn lại trong hệ thống tài chính quốc gia.
Nghĩa là, tình hình tài chính của ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế-xã hội nói chung, tài chính
quốc gia nói riêng và tới việc đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Xét trong phạm
vi doanh nghiệp, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có tác động đến an ninh tài
chính của ngân hàng thương mại và toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Do vây, việc đảm bảo cho hoạt động tài chính của ngân hàng được an toàn, ổn
định, hiệu quả trong quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là
một tất yếu khách quan
BOX 1.1: Nhận định của Phó thống đốc ngân hàng nhà nước về an ninh tài
chính trong các ngân hàng thương mại
Theo Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước Trần Minh Tuấn, cùng với sức
ép về cạnh tranh, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang đặt ra
cho hệ thống ngân hàng Thương mại Việt Nam những thách thức về việc đảm
bảo an ninh tài chính.
Ông Tuấn cho rằng bảo đảm an ninh tài chính cần được coi là một trong
những giải pháp hàng đầu để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt
động an toàn, ổn định, hiệu quả và bền vững trong điều kiện tiềm lực và kinh
nghiệm còn thiếu và yếu hơn rất nhiều so với hệ thống ngân hàng ở các nước
thành viên WTO khác.
Ông Tuấn nhìn nhận hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang
hoạt động tương đối ổn định, có những đóng góp quan trọng và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của đất nước trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, sự phát triển ngày
càng năng động của nền kinh tế nhiều thành phần trong bối cảnh hội nhập đã và
đang đòi hỏi các ngân hàng này nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng đối
phó với rủi ro
Nguồn:. Thông tấn xã Việt Nam
14
1.2 Nội dung của an ninh tài chính trong hoạt động của ngân hàng
thương mại
Nhiều nhà kinh tế quốc tế cho rằng mâu thuẫn lớn nhất của ngân hàng và hoạt

động ngân hàng là mâu thuẫn giữa mục tiêu lợi nhuận cao và mục tiêu tính thanh
khoản cao. Về bản chất an ninh tài chính ngân hàng chịu tác động và phải giải
quyết được mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tính thanh khoản và lợi nhuận, giữa rủi
ro và lợi nhuận. bài toán đặt ra cho các ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận trong
điều kiện giữ được tính thanh khoản và hạn chế rủi ro.
Trong việc đánh giá an ninh tài chính có các chỉ tiêu định tính và định lượng
và những chỉ tiêu đó phải thoả mãn các yêu cầu sau:
-Tính hệ thống: Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh nào đó trong hoạt động ngân
hàng song đều phải liên kết với nhau, là cơ sở để đánh giá mức độ an ninh tài chính
chung của từng ngân hàng hay hệ thống ngân hàng.
-Tính toàn diện: Các chỉ tiêu phải bao quát được toàn bộ hoạt động cơ bản của
ngân hàng. Sự thiếu chú ý đến một chỉ tiêu liên quan tới một hoạt động cơ bản nào
đó có thể phải trả giá bằng sự phá sản của cả ngân hàng
-Tính điển hình: Hoạt động ngân hàng là rất đa dạng, phức tạp và không ngừng
phát triển nên các chỉ tiêu đánh giá rất nhiều và tăng liên tục. Chính vì vậy, các chỉ
tiêu đánh giá an ninh tài chính phải được lựa chọn tiêu biểu, có tính chất then chốt,
tránh tràn lan.
-Tính khả thi: Các chỉ tiêu phải thực tế, dễ tính toán và theo dõi.
-Tính quốc tế: Do sự phát triển của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá nên các chỉ tiêu
cũng cần được quốc tế hoá, tuân thủ các chuẩn mực chung đã được quốc tế thừa
nhận. Đây cũng là cơ sở để các quốc gia phối hợp với nhau trong việc đảm bảo an
ninh tài chính khu vực và toàn cầu
-Tính đặc thù: Mỗi quốc gia, mỗi khu vực có những đặc thù kinh tế xã hội khác
nhau nên an ninh tài chính cũng có những đặc điểm riêng. Chính vì vậy các chỉ
tiêu đánh giá an ninh tài chính phải phản ánh được những đặc thù này. Tính đặc
thù biểu hiện ở cả số lượng các chỉ tiêu cũng như tính chất của mỗi chỉ tiêu. Tuy
15
nhiên thính đặc thù sẽ giảm dần cùng với việc nâng cao trình độ hội nhập kinh tế
quốc tế.
-Tính phát triển: Như đã khẳng định ở trên, hoạt động ngân hàng luôn luôn phát

triển nên các chỉ tiêu cũng không cố định mà liên tục phát triển đáp ứng các yêu
cầu mới về an ninh tài chính
1.2.1 Ổn định hoạt động ngân hàng
Tiền gửi là bộ phận quan trọng nhất trong tài sản nợ của từng ngân hàng
cũng như toàn bộ hệ thống trong ngân hàng. Trạng thái và động thái tiền gửi là một
trong những biểu hiện rõ rệt nhất cho tình trạng huy động của mỗi ngân hàng nói
riêng và mỗi quốc gia nói chung, Sự ổn định của tiền gửi được biểu hiện ở tốc độ
tăng các khoản cho vay. Cho vay một mặt là hoạt động cơ bản tạo ra lợi nhuận cho
ngân hàng, mặt khác là một trong những yếu tố quyết định đầu tư và tăng trưởng
kinh tế.Nhân tố quyết định đến ổn định tiền gửi là tỷ lệ tiết kiệm, niềm tin của
người gửi và khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng và lợi nhuận thu được từ tiền
gửi. Bên cạnh đó tốc độ tăng tiền gửi còn bị chi phối bởi khả năng lựa chọn của
người gửi tiền và tập quán tiết kiệm trong dân cư. Tốc độ tăng cho vay chủ yếu phụ
thuộc vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
càng cao thì nhu cầu vốn càng lớn, đặc biệt các doanh nghiệp ở những nước đang
phát triển có đặc điểm hoạt động dựa vào nhiều nguồn vốn vay từ ngân hàng. Tốc
độ tăng tiền gửi và cho vay đều đặn, không có đột biến và khoảng cách giữa hai tốc
độ này không quá lớn là đảm bảo cho sự ổn định của hoạt động ngân hàng.
1.2.2 An toàn hoạt động ngân hàng
An toàn tiền gửi là khả năng của ngân hàng luôn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu rút tiền của người gửi mà không rơi vào tình trạng nguy hiểm. Để đảm bảo
trạng thái sẵn sàng chi trả này ngân hàng cần duy trì dự trữ bắt buộc và cả dự trữ
quá mức. Trong trường hợp dự trữ không đủ ngân hàng buộc phải bán các khoản
cho vay của mình. An toàn cho vay thể hiện ở việc các khoàn cho vay đã, đang và
sẽ thường xuyên được hoàn trả đúng thời hạn với lãi suất thực đúng hợp đồng tín
dụng mà công cụ then chốt là quản lý rủi ro, đa dạng hoá và bảo đảm tiền vay. Để
đo lường mức độ an toàn cho vay người ta áp dụng các biện pháp quản lý tài sản
16
có trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro của từng khoản vay, từ đó tổng hợp thành chỉ
số rủi ro cho vay chung của ngân hàng hay cả hệ thống.

Đối với các ngân hàng và doanh nghiệp rủi ro có nghĩa là sự không ổn định
của thu nhập tương lai và tác động của nó tới giá trị doanh nghiệp. Các ngân hàng
cần có đủ vốn để chống lại rủi ro. Mỗi hợp đồng tài chính đều chứa đựng rủi ro tín
dụng, rủi ro về giá và rủi ro vể tính thanh khoản. Rủi ro tín dụng là nguy cơ người
cho không hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Rủi ro về giá là nguy cơ bị lỗ do những thay
đổi không lường được của giá cả, chẳng hạn thay đổi về lãi suất hay tỷ giá hối
đoái. Rủi ro về lãi suất có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động ngân hàng. Nếu
ngân hàng có tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất hơn tài sản có thì lãi suất tăng sẽ làm
giảm lợi nhuận của ngân hàng và ngược lại lãi suất giảm sẽ lại làm tăng lợi nhuận
của ngân hàng đó. Tương tự, nếu ngân hàng có tài sản nợ nhạy cảm với thay đổi tỷ
giá hơn tài sản có thì tỷ giá tăng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng và ngược lại.
Rủi ro về tính thanh khoản là nguy cơ không bán được các tài sản nhanh chóng, trừ
khi chịu chiết khấu lớn. Rủi ro hệ thống là nguy cơ một hay một số khách hàng lớn
không trả được nợ gây nguy hiểm cho toàn bộ hệ thống tài chính. Rủi ro thanh toán
hay rủi ro hệ thống thường liên quan tới các khoản thanh toán liên ngân hàng có
giá trị lớn và việc mất khả năng thanh toán của một ngân hàng thường lây lan ra
toàn bộ hệ thống theo con đường này. Rủi ro đạo đức là một khía cạnh quan trọng
và có liên quan mật thiết đến động cơ hành động. Hậu quả tất yếu của rủi ro cho
vay là nợ quá hạn. Chỉ tiêu nợ quá hạn/tổng cho vay hay nợ quá hạn/vốn ngân hàng
phản ánh rõ nhất tình trạng an toàn cho vay của từng ngân hàng và toàn bộ hệ
thống ngân hàng. Khủng hoảng cho vay hay khủng hoảng nợ xảy ra khi tỷ lệ nợ
quá hạn quá cao, các ngân hàng mất khả năng thanh toán, lâm vào tình trạng phá
sản. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn tối đa là 3-5% tổng dư nợ vốn vay.
Vượt quá giới hạn này, ngân hàng đứng trước nguy cơ khủng hoảng và phá sản. Có
nhiều cách lý giải khác nhau về nguyên nhân khủng hoảng nhưng theo IMF có 3
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khủng hoảng tài chính:Thứ nhất là sự nới lỏng quy
chế tài chính trong nước diễn ra trước khi thực hiện cải cách cơ chế quản lý và
giám sát rủi ro. Thứ hai, đổi mới tài chính tạo ra những công cụ mới và ít được biết
đến làm cho các nhà quản lý không thể nắm bắt kịp thời. Thứ ba, tự do hoá tài
17

chính đối ngoại, huỷ bỏ kiểm soát các luồng vốn trước khi lành mạnh hoá hệ thống
tài chính và chính sách kinh tế vĩ mô.
Để giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức tiêu chuẩn, làm lành mạnh hoá tình
hình tài chính của ngân hàng người ta giảm nợ quá hạn thông qua cơ cấu lại nợ,
giải quyết tài sản đảm bảo đối với những khoản nợ có tài khoản đảm bảo, dùng quỹ
dự phòng rủi ro bù đắp... hoặc tăng cường cho vay. Tuy nhiên, nếu nới lỏng tín
dụng trong khi chưa cải thiện các điều kiện bảo đảm an toàn cho vay thi ngân hàng
se rơi vào vòng luẩn quẩn và tỷ lệ nợ quá hạn lại tiếp tục gia tăng.
Vốn ngân hàng là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo an toàn tiền gửi. Vốn ngân
hàng một mặt đóng vai trò như một đảm bảo về trách nhiệm của ngân hàng đối với
các khoản tiền gửi.Mặt khác, vốn ngân hàng giúp nó không rơi vào tình tràng vỡ
nợ do sự sụt giảm mạnh tạm thời của tài sản có. Vốn ngân hàng còn là cơ sở để
tính hàng loạt những chỉ tiêu giới hạn an toàn cho vay như mức cho vay tối đa đối
với một khách hàng, mức góp vốn cổ phần của ngân hàng, giới hạn tối đa cho vay
cổ đông của ngân hàng... Để đảm bảo chỉ tiêu này cần tăng vốn ngân hàng hoặc
giảm tài sản có đã hiệu chỉnh rủi ro tức là giảm tỷ trọng các khoản cho vay rủi ro
cao, tăng tỷ trọng các khoản cho vay an toàn.
Do các ngân hàng có xu hướng giảm tỷ lệ tài sản có có tính thanh khoản cao
do loại tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp nhất, vì vậy phải bắt buộc ngân hàng duy
trì một lượng tài sản có có tính thanh khoản cao nhất định đêt bảo đảm tỷ lệ trên.
Mặt khác, muốn duy trì tỷ lệ này có thể giảm tài sản nợ phải phanh toán ngay bắng
cách tăng trưởng các tài sản nợ trung và dài hạn, giảm tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn
và các loại tài sản khác có tính thanh khoản cao tức là các loại tài sản có yêu cầu
cao về khả năng chuyển đổi thành tiền mặt. Ngân hàng phải tối đa hoá lợi nhuận
thông qua hiệu quả hoá tài sản nợ chủ yếu thông qua thay đổi cơ cấu thời hạn tiền
gửi dựa trên nguyên tắc chi phí tài sản nợ ngắn hạn luôn thấp hơn chi phí tài sản nợ
dài hạn. Ngân hàng giảm chi phí bằng cách dùng tiền vay ngắn hạn để cho vay
trung và dài hạn và làm được việc này nếu ngân hàng duy trì được uy tín và niềm
tin của người gửi tiền.
1.2.3 Đảm bảo vững mạnh trong hoạt động ngân hàng

18
Vững mạnh của ngân hàng một mặt thể hiện ở quy mô vốn của ngân hàng và
từ đó quy định quy mô tài sản có và tài sản nợ của một ngân hàng hay một hệ
thống ngân hàng. Quy mô của ngân hàng càng lớn thì uy tín càng cao và khả năng
đổ vỡ càng được hạn chế do có tiềm lực tài chính để đối phó với các rủi ro, có điều
kiện đa dạng hoá tín dụng để phân tán rủi ro, có thể thiết lập hệ thống thanh toán
nội bộ rộng lớn để giảm các chi phí hoạt động và nhiều lợi thế khác do quy mô. Xu
thế sát nhập các ngân hàng lớn trên thế giới đang chứng minh điều đó. Quy mô
ngân hàng phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế và chiến lược phát triển hệ thống
ngân hàng của mỗi quốc gia. Nhìn chung, ngân hàng ở các nước đang phát triển có
quy mô nhỏ, chủ yếu hoạt động trong nước, hoạt động quốc tế còn hạn chế.
Nhiều nước đang phát triển chủ trương phát triển mạnh các ngân hàng nhỏ
và vừa phù hợp với quy mô của nền kinh tế, với trình độ quản lý còn hạn chế đồng
thời tránh những đổ vỡ quá lớn, tạo điều kiện cho các khách hàng tiếp cận dễ dàng
hơn. Tuy nhiên, trước xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá, sự xâm nhập của các ngân
hàng khổng lồ nước ngoài đang đe doạ khả năng cạnh tranh thậm chí khả năng tồn
tại của các ngân hàng nhỏ bé nội địa, chính phủ các nước thường quy định mức
vốn tối thiểu của ngân hàng đồng thời khuyến khích các ngân hàng tăng vốn vổ
phần thông qua phát hành cổ phiếu, sáp nhập và hợp nhất các ngân hàng với nhau.
Vững mạnh của ngân hàng ngoài quy mô còn được thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận vừa phản ánh hiệu quả hoạt động ngân hàng vừa là nguông bù đắp
những tổn thất xảy ra trong hoạt động ngân hàng đồng thời là nguồn đóng góp cho
NSNN. Để tăng lợi nhuận cần giảm chi phí và tăng chênh lệch lãi suất cho vay và
lãi suất tiền gửi.
Tóm lại, muốn đảm bảo an ninh tài chính của các ngân hàng cần theo dõi sát
sao các chỉ tiêu phản ánh mức độ an ninh tài chính của từng ngân hàng và toàn bộ
hệ thống ngân hàng, có những biên pháp ứng phó kịp thời đối với những thay đổi
đe doạ làm mất an ninh tài chính nhằm giữ cho trạng thái tài chính của ngân hàng
19
hay cả hệ thống ngân hàng luôn luôn ổn định, an toàn và vững mạnh, ngăn ngừa có

hiệu quả khủng hoảng tài chính-tiền tệ.
1.3 Các chỉ tiêu đánh giá an ninh tài chính trong ngân hàng
thương mại
1.3.1 Chỉ tiêu về vốn kinh doanh
Vốn là điều kiện tiên quyết trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Đối với các tổ chức tài chính vốn là một
yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong
nước, đồng thời để vươn ra các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Vốn kinh
doanh của các tổ chức tín dụng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng
bao gồm 2 nguồn chủ yếu
Vốn tự có (vốn chủ sở hữu hay vốn của bản thân TCTD) bao gồm các thành
phần: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng
bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị tăng thêm do đánh giá lại tài sản cố định,
vốn Nhà nước cấp để cho vay dài hạn, các loại vốn, quỹ khác (nếu có). Vốn tự có
của một TCT giữ vị trí rất quan trọng, là yếu tố đảm bảo an ninh tài chính trong
hoạt động kinh doanh tiền tệ. theo luật về ngân hàng thì phạm vi hoạt động và quy
mô kinh doanh cảu một TCTD hoàn toàn phụ thuộc vào vốn tự có. Và nó được sử
dụng vào những việc sau đây:
-Mua sắm tài sản cố định, nhà cửa, trang thiết bị
-Bù đắp tổn thất khi không còn nguồn khác bù đắp
-Là căn cứ để giới hạn và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ như:
• Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có
• Cho vay các đối tượng ưu đãi không quá 5% VTC
• Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% VTC
• Huy động vốn tiền gửi không quá 20 lần VTC
• Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần VTC
20
• Tổng số tiền bảo lãnh cho một khác hàng và tổng mức bảo lãnh của một
TCTD không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có theo quy định của thông
đốc ngân hàng nhà nước

Tỷ lệ vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro theo quy định của Uỷ ban thanh
tra ngân hàng quốc tế tối thiểu là 8%
Vốn huy động : đây là nguồn vốn chiếm phần lớn trong tổng số vốn kinh
doanh của một TCTD. Tăng nguồn vốn này với một cơ cấu vốn theo thời hạn phù
hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng :
-Là cơ sở cho việc mở rộng, tăng doanh số cho vay, đầu tư và các hoạt động kinh
doanh khác. Từ đó, mức lợi nhuận thu được và quy mô cảu TCTD ngày càng lớn,
năng lực tài chính càng vững mạnh
-Khi có một cơ cấu vốn theo thới hạn phù hợp sẽ thoả mãn kịp thời nhu cầu vay
vốn của khách hàng, khả năng thanh toán tăng lên, khi khách hàng rút tiền. Đảm
bảo cho TCTD duy trì hoạt động nình thường và ngày càng phát triển
Chính vì vậy, bên cạnh làm tăng vốn tự có, các TCTD cần tăng cường huy động
vốn từ các doanh nghiệp, các nhân, vay vốn của các ngân hàng khác,... để có đủ
mức vốn kinh doanh của mình
Thoả ước Basle 1988 đòi hỏi ngân hàng phải thoả mãn hai điều kiện về vốn:
-Vốn cổ phần tối thiểu bằng 4% tổng tài sản có đã được hiệu chỉnh theo rủi ro
-Vốn ngân hàng( vốn cổ phản và các khoản dự trữ mất tiền cho vay và các công cụ
nợ khác) tối thiểu bằng 8% tổng tài sản có được hiệu chỉnh theo rủi ro.
Trong thực tế, các ngân hàng có xu hướng không muốn duy trì mức vốn ngân hàng
cần thiết do: khoản tài sản đó không sinh lợi và ngân hàng không phải gánh chịu
toàn bộ tổn thất khi nó vỡ nợ. Chính vì vậy phải có các quy định bắt buộc ngân
hàng phải duy trì mức vốn tối thiểu.
Vốn ngân hàng
Tỷ lệ vốn tối thiểu = -------------------------------------------- X 100%
Tài sản có đã hiệu chỉnh rủi ro
Quy mô vốn tối thiểu = Quy định của Chính phủ
1.3.2 Chất lượng tài sản có
21
Tài sản có và tài sản có sinh lời là những nội dung rất quan trọng trong hoạt
động của TCTD, quyết định sự thành bài của nó. Mỗi TCTD đều phải luôn tạo ra tài

sản Có có chất lượng và duy trì chất lượng của nó. Điều này thể hiện trong chính sách
kinh doanh nói chung và chính sách tín dụng nói riêng của TCTD mạnh hay yếu.
Chất lượng tài sản Có là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về
tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý của một TCTD. Hầu hết rủi ro trong
kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản Có. Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất. Tài sản
Có có chất lượng cao hay thấp được biểu hiện dưới các hình thức sau:
Các hình thức đảm bảo tín dụng và vốn tương quan giữa mức cho vay so với
giá trị của tài sản đảm bảo. Tuỳ theo từng loại tài sản mà mức cho vay so với giá
trị tài sản đảm bảo có sự khác nhau. Chẳng hạn đối với tài sản thế chấp là từ
60-80%, tài sản cầm cố tài ngân hàng có thể lên tới 100%
Nợ quá hạn và mức độ nợ quá hàn là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá hoạt
động của một NHTM. Nó phản ánh chất lượng tài sản có rất rõ nét. Nó có ảnh
hưởng đến kết quả kinh doanh của NHTM trong hiện tại và trong tương lai. Nếu
đặt chỉ tiêu này vào một trật tự thời gian thì sẽ thấy được khả năng ổn định kinh
doanh, môi trường quản lý của bản thân NHTM
Tài sản có bằng ngoại tệ được đánh giá theo tình thế ngoại hối. Có tình thế
trường và tình thế đoản. Tình thế ngoại hối của NHTM phải ở trạng thái sao cho
không gây nguy hiểm cho kinh doanh ngoại hối.
Mối tương quan về mặt cơ cấu giữa tài sản Có với tài sản Nợ cho chúng ta
những nhận định đầy đủ và chính xác hơn về chất lượng tài sản Có. Nhìn vào kết
cấu của tài sản một NHTM và đối chiếu với những mức độ tối ưu của các bộ phận
tài sản Có có thể thấy được mặt tích cực của hoạt động kinh doanh.
Quy mô tài sản có của ngân hàng =
Tổng tài sản có ngân hàng
GDP
X 100%
1.3.3 Năng lực quản lý
Yếu tố con người, tổ chức và chính sách luôn luôn có tầm quan trọng đặc
biệt. Tất cả quy tụ lại ở năng lực quản lý của Ban giám đốc điều hành và biều hiện
22

chất lượng quản lý bằng hiệu quả trong kinh doanh. Năng lực quản lý được thể
hiện theo các nội dung sau:
- Năng lực đề ra sách lược trong kinh doanh, có sức cạnh tranh và đứng vững
trong thị trường.
-Đưa ra được kế hoạch triển khai các công việc hợp lý, rõ ràng, có hiệu quả.
-Vạch ra được các thủ tục quản lý nghiệp vụ, quy trình thực hiện nghiệp vụ và
bảo đảm sự tuân thủ các thủ tục và quy trình này trong giao dich kinh doanh.
-Tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả, có sự phân định rõ ràng
trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên và chuyên gia, cũng như giứa các
khâu, các bộ phận của guồng máy.
-Có chính sách nhân sự khuyến khích tính tích cực của mọi thành viên trong
công việc
-Năng lực quản lý được đánh giá ngay từ khi thành lập NHTM. Đây là một
trong những tiêu chuẩn được quy thành điều kiện ra đời của một NHTM và được
ghi thành điều luật.
Trong quá trình hoạt động của một NHTM, chất lượng quản lý được thể
hiện ở các tiêu chuẩn :
Hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, biểu hiện ở mức độ và sự tăng trưởng
của kết quả kinh doanh. NHTM giữ vững kết quả kinh doanh trong tình trạng có
những biến động (những cú sốc) ảnh hưởng của thị trường. Năng lực quản lý của
NHTM còn thể hiện ở khả năng hạn chế những tổn thất khi có những biến động bất
khả kháng.
Sự tuân thủ pháp luật, các quy chế về hoạt động ngân hàng, tính lành mạnh
trong kinh doanh.
Độ tín nhiệm của ngân hàng trong môi trường hoạt đông. Sự tín nhiệm của
khách hàng dân cư đối với ngân hàng trong việc gửi tiền, mở tài khoản, thực hiện
giao dịch
1.3.4 Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là một chuẩn mực hoạt động quan trọng của một ngân
hàng thương mại. Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của bất cứ một ngân hàng

23
thương mại nào là phải đảm bảo khả năng thanh toán. Điều này có thể được hiểu là
Ngân hàng thương mại duy trì các khoản dự trữ và tìm kiếm một cách nhanh nhất
các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu chi trả hoặc thực hiện các nghĩa vụ tài chính do
luật định hoặc yêu cầu của khách hàng
Mức độ duy trì hoạt động và phát triển của một ngân hàng thương mại xét
theo khả năng thanh toán được đánh giá bằng 2 chỉ tiêu.
Thường xuyên duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa tài sản Có động so với tổng số
tiền gửi. Tỷ lệ này có thể sử dụng dưới dạng sự tương ứng giữa tài sản Có động và
tài sản Nợ động. Chỉ số này có thể thay đổi và có thể khác nhau ở từng ngân hàng
thương mại cụ thể ở mức từ 15% đến 30% được coi là hợp lý.
Tỷ lệ về khả năng thanh toán
( khả năng chi trả)
=
Tổng tài sản có có thể thnah toán ngay
Tổng tài sản nợ phải thanh toán ngay
Thường xuyên duy trì nguồn tiền mặt và nguồn tiền gửi không kỳ hạn hoặc
có tài sản Có có thể chuyển ngay sang tiền trên thị trường ở mức đủ đáp ứng cho
nhu cầu chi trả trong 3 ngày làm việc tiếp theo.
Tỷ lệ vốn ngắn hạn tối đa
được sử dụng để cho vay
trung và dài hạn

=
Tổng vốn ngắn hạn cho vay trung
và dài hạn
Tổng vốn ngắn hạn

X 100%
1.3.5 Khả năng sinh lời

Khả năng sinh lời hay kết quả tài chính là kết quả cụ thể nhất trong kinh
doanh. Nó là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển
của một ngân hàng. Mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường chỉ có thể tồn tại và
phát triển bằng kinh doanh có lãi.
Một ngân hàng để có lãi trong kinh doanh phải có những điều kiện sau:
-Chi phí kinh doanh hợp lý, tiết kiệm
-Phải tạo được nguồn thu nhập chủ yếu trên cơ sở hoạt động kinh doanh chủ yếu là
ưu thế của ngân hàng
-Các hoạt động kinh doanh phải đem lại lợi nhuận
24
-Phải tránh được những rủi ro lớn nhờ chính sách và biện pháp quản lý rủi ro hợp lý.
-Bảo đảm được tài sản Có sinh lời ở mức trên 70% so với tổng tài sản Có.
Trên đây là 5 chỉ tiêu quan trọng, cốt lõi để đánh giá mức độ đảm bảo an
ninh tài chính của một tổ chức tín dụng trong đó có ngân hàng thương mại. Các nội
dung đó có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Vì vậy các TCTD hay các
ngân hàng thương mại muốn kinh doanh hiệu quả, đảm bảo được an ninh tài chính
phải có những giải pháp hợp lý, đồng thời cho cả 5 nội dung.
An ninh tài chính trong hoạt động của các TCTD-NH được đảm bảo, có vai
trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Bởi lẽ, hoạt động của các
TCTD, các trung gian tài chính là “mạch máu” cảu nền kinh tế quốc dân. Hoạt
động của các TCTD-NH mà yếu kém, an ninh tài chính không đảm bảo làm cho
“mạch máu” bị tắc nghẽn, nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng.
Ngược lại an ninh tài chính luôn luôn được đảm bảo trong mọi điều kiện về kinh
tế, chính trị,... ở trong nước và trên thế giới là nhân tố tác động tích cực đến sự
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Vai trò đó được thể hiện trên các mặt sau:
-Góp phần quan trọng đảm bảo cho nền kinh tế-xã hội ổn định và phát triển vững chắc
-Đảm bảo nền tiền tệ ổn định
-Đảm bảo cho sự phát triển bền vững của hệ thống các TCTD-NH
-Nâng cao uy tín quốc gia trên trường quốc tế.
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới an ninh tài chính của NHTM

Trong quá trình kinh doanh của mình, các TCTD nói chung và các ngân hàng
thương mại nói riêng luôn chịu tác động của các nhân tố khác nhau, và đây cũng
chính là những nhân tố ảnh hưởng tới an ninh của ngân hàng thương mại. Các
nhân tố ảnh hưởng tới an ninh tài chính trong ngân hàng thương mại có thể chia
thành 2 nhóm: các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
1.4.1 Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong bao gồm: các nhân tố về kỹ thuật, nhân tố về năng lực
quản lý của người lãnh đạo, trình độ của nhân viên, nhân tố về chính sách huy
động vốn, thẩm định dự án đầu tư,...
25

×