Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Quan điểm về " ý niệm tuyệt đối " của Hegel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (50.26 KB, 5 trang )

Hêgen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do
có mâu thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ
thấp lên cao, trải qua sự phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại
trở về với nó với một sự phong phú hơn (logic học). Do có sự vận
động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối trở thành cái khác nó
(tha hoá), đối lập với nó, tức là giới tự nhiên (triết học về tự nhiên).
Ý niệm tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân mình trong đời
sống có ý thức của cá nhân con người và xã hội loài người và sự
hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới đỉnh cao nhất trong hệ
thống triết học Hêgen (triết học về tinh thần).
Hêgen rất ưa thích và đề cao lối suy lý ba bước. Ông cho rằng mọi
cái có lý tính đều là một suy lý ba bước: một cái chung liên hệ với
cái đơn nhất thông qua cái riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự
suy lý (tư duy) về sự vật với bản thân sự vật, cho rằng sự vật không
phải là một chỉnh thể gồm ba mệnh đề. Và ông rất phản đối suy lý
ba bước theo kiểu "hình thức vô ích" làm cho người ta buồn chán
như ví dụ ông nêu ra: "Tất cả mọi người đều chết, Cai-i là một
người, vậy Cai-i cũng chết”.
Trong hệ thống triết học lập luận theo lối "suy lý ba bước", Hêgen
đã trình bày về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một
cách rất tư biện, nghĩa là không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật
mà trái lại, làm cho sự vật phù hợp với ý niệm… Ông cho rằng
"tồn tại" là tính quy định thứ nhất của ý niệm tuyệt đối. "Tồn tại" ở
đây không phải là thế giới vật chất, cũng không phải là sự phản
ánh của thực tai vào ý thức con người, mà là khái niệm trừu tượng
của tồn tại, tức là "tồn tại thuần tuý". Tồn tại thuần tuý là tồn tại
không có tính quy định nào, không cần một tiền đề nào, không có
bất cứ một nội dung nào, không phải là sản phẩm của bất kỳ một
sự trung gian nào nghĩa là đồng nhất với hư vô thuần tuý. "Tồn tại
thuần tuý và hư vô thuần tuý là cùng một cái" là không có gì.
Không có gì nhưng vẫn là một cái gì (cũng như số 0 vẫn là một cái


gì khi phân biệt với những số khác). Theo Hêgen, tồn tại thuần tuý
chính là cái đang bắt đầu. "Cái đang bắt đầu là chưa tồn tại, nó chỉ
hướng tới sự tồn tại một sự không tồn tại mà cũng đồng thời là sự
tồn tại"(?). Như vậy là khái niệm "tồn tại thuần tuý"đã chứa đựng
mâu thuẫn trong bản thân nó, vì nó bao hàm hai mặt đối lập là tồn
tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư vô. Do có mâu
thuẫn mà nó vận động, và vận động đến mức nào đó thì dẫn đến
sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứ tồn tại khác. "Tồn tại
khác" này có tính quy định, không còn là "tồn tại thuần tuý" hay
"hư vô" nữa, mà đã là một cái gì đó có "chất", có "lượng", được
thống nhất ở trong "độ" (chú ý: chất, lượng, độ ờ đây không phải là
chất, lượng, độ của sự vật mà là các khái niệm chất, lượng).
Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới "độ" thì nhận được một sự quy định
mới, sâu sắc hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm "bản chất". Trong
học thuyết về bản chất, Hêgen đã đưa ra và phân tích nhiều khái
niệm quan trọng như: bản chất, hiện tượng, bề ngoài, hiện thực quy
luật… và nói về mối liên hệ giữa các phạm trù: quy luật và bản
chất, quy luật và hiện tượng, bản chất và hiện tượng, bản chất và
bề ngoài, bề ngoài và hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất
nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực, tự do và tất yếu'
nguyên nhân và kết quả… Hêgen đã trình bày nhiều vấn đề quan
trọng của phép biện chứng, đặc biệt là về mâu thuẫn. Ông coi mâu
thuẫn là phổ biến, là nguồn gốc và cơ sở của vận động, là nguyên
lý của sự phát triển. Ông khẳng định: "Tất cả mọi vật đều có tính
chất mâu thuẫn trong bản thân nó Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất
cả mọi vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực
một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới
vận động, phải có xung lực và hoạt động".
Ý niệm tuyệt đối là phạm trù xuất phát và trung tâm của triết học
Hêgen.

Một người uyên bác và vĩ đại như Lênin, khi nghiên cứu triết học
Hêgen nhiều lúc cũng phải thốt lên: "thần bí", "cực kỷ khó hiểu và
có lúc đã nói đùa: "Biện pháp làm nhức đầu tốt nhất là đọc triết
học Hêgen". Nghiên cứu triết học Hêgen đương nhiên là phải đụng
đến phạm trù "ý niệm tuyệt đối" đầy bí hiểm. Vì vậy, trong bước
đầu tìm hiểu triết học Hêgen, tôi cung mạnh dạn nêu lên mấy nhận
thức còn thô thiển của mình về ý niệm tuyệt đối của ông:
Ý niệm tuyệt đối là "khái niệm thích hợp", có tính chân lý khách
quan. Theo Hêgen, ý niệm tuyệt đối hay ý niệm trước hết là khái
niệm, song không phải mọi khái niệm đều là ý niệm. Ông phân biệt
ý niệm với khái niệm và cho rằng ý niệm cao hơn khái niệm: "Khái
niệm chưa phải là khái niệm (cái) cao nhất, cái còn cao hơn nứa là
ý niệm". Khái niệm khi phát triển thành khái niệm thích hợp thì trở
thành ý niệm. Như vậy, cái "cao hơn" của ý niệm so với khái niệm
chính là sự "thích hợp", tức là sự phù hợp, sự thống nhất giữa khái
niệm và tính khách quan. Khái niệm phát triển thành khái niệm
thích hợp, trở thành ý niệm, thì chính là chân lý: "Y niệm là chân
lý, vì chân lý là sự phù hợp giữa tính khách quan và khái niệm".
Ý niệm tuyệt đối cũng là hiện thực, hay nói cách khác, hiện thực là
"tồn tại khác" của ý niệm. Hêgen đã khẳng định một cách hết sức
duy tâm: "Thế giới là tồn tại khác của ý niệm ". Mọi hiện thực chỉ
là hiện thực trong chừng mực nó chứa đựng và biểu hiện ý niệm.
Đối tượng, thế giới chủ quan và thế giới khách quan không những
chỉ phải phù hợp nói chung với ý niệm, mà chính bản thân chúng
là sự phù hợp của khái niệm và thực tại, thực tại mà không phù
hợp với khái niệm thì chỉ là hiện tượng, chủ quan, ngẫu nhiên, tuỳ
tiện, nghĩa là không phải chân lý. Toàn bộ hiện thực, dù là cái phổ
biến, cái đơn nhất hay cái đặc thù, đều là những biểu hiện khác
nhau về phạm vi và mức độ của ý niệm tuyệt đối. Toàn bộ hiện
chực cũng là ý niệm, tồn tại đơn nhất chỉ là một mặt nào đó của ý

niệm , ý niệm còn cần đến hiện thực khác như là tồn tại đặc thù.
Ý niệm tuyệt đối là "cái phổ biến", là một hình thức bao hàm và
quy tụ nhiều nội đung phong phú, được thể hiện ở mọi đối tượng,
nhưng mỗi đối tượng lại nhận thức không giống nhau. Hêgen nói
rằng ý niệm tuyệt đối là cái phổ biến, là những chân lý mà cả ông
già và đứa trẻ con đều nói, nhưng đối với ông già, những chân lý
này có ý nghĩa của cả cuộc đời ông, còn đối với đứa trẻ thì chỉ có
nghĩa là một cái gì đó mà ngoài cái đó ra còn có cả một cuộc đời
và tất cả vũ trụ. "Giống như cùng một câu cách ngôn luận lý, nếu
do một thanh niên nói ra, tuy anh ta hiểu nó hoàn toàn đúng đắn,
thì lại không có cùng một tầm rộng như khi câu đó xuất phát từ
miệng một người từng trải việc đời và khi nói câu đó, người này
nói lên toàn bộ sức mạnh của nội dung của nó".
Ý niệm tuyệt đối là quá trình, là phép biện chứng. Theo Hêgen,
phép biện chứng không ở trong lý trí của con người mà ở trong
hiện thực khách quan, tức là ở trong "ý niệm tuyệt đối". Ý niệm,
vời tư cách là quá trình, trải qua ba giai đoạn trong sự phát triển
của nó, ý niệm tuyệt đối chứa đựng mâu thuẫn, chứa đựng cái phủ
định của chính nó, vận động từ nội dung này đến nội dung khác, từ
đơn giản đến phức tạp, do đó, ý niệm tuyệt đối là sự sống vĩnh
viễn. Chính bản thân ý niệm là phép biện chứng, đã luôn luôn tách
rời và phân biệt, cái đồng nhất với cái khác nhau, cái chủ quan với
cái khách quan, cái hữu hạn với cái vô hạn, linh hồn với thân thể
và cũng chỉ vì vậy mà ý niệm là sự sáng tạo vĩnh viên, là sự sống
vĩnh viễn và tinh thần vĩnh viễn.
Ý niệm tuyệt đối là một phạm trù triết học duy tâm của Hêgen, như
Lênin đã nhận xét: "Mọi người đều biết ý niệm của con người là
gì, nhưng ý niệm mà không có con người, hoạt động có trước con
người, ý niệm trừu tượng, ý niệm tuyệt đối, là một điều bia đặt
thần học của nhà duy tâm Hêgen". Tuy nhiên, chính Lênin cũng

thấy cái "hạt nhân hợp lý", "hạt chân lý sâu sắc" trong ý niệm tuyệt
đối của triết học Hêgen, đó là phép biện chứng. Ý niệm tuyệt đối
của Hêgen có vẻ là tuyệt đối duy tâm, nhưng như Lênin đánh giá:
"Hầu như không chứa đựng một chủ nghĩa duy tâm đặc biệt nào
mà chỉ có chủ đề chủ yếu là phương pháp biện chứng và lẽ là sự
trình bày hay nhất về phép biện chứng”.



×