Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tư tưởng của v i lênin về đảng là hiện thân của mối liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động ý nghĩa thực tiễn trong công tác xây dựng đảng ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.54 KB, 34 trang )

1
Tư tưởng của V. I. Lênin về Đảng là hiện thân của mối
liên hệ giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động. Ý nghĩa thực tiễn trong
công tác xây dựng Đảng ta hiện nay.

Lênin vị lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Người kế thừa xuất sắc và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác trong thời đại của mình. Từ những tư tưởng cơ
bản của C.Mác - Ph.Ăngghen, Lênin đã phát triển và hoàn
chỉnh học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
một học thuyết thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Học thuyết về đảng kiểu mới là một trong những cống hiến to
lớn của Lênin vào kho tàng lý luận, là kim chỉ nam hành động
cho đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân Nga và các đảng
Cộng sản trên tồn thế giới.
Nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử thế giới cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX chúng ta thấy rằng, đây là thời kỳ đánh
dấu bước ngoặt quan trọng của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Là giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển cao
chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Tính chất phản
động của nó đã bao trùm trên tất cả mọi lĩnh vực, cản trở sự
phát triển của xã hội loài người. Trong khi đó từ năm 1898 1903 là thời kỳ tan rã về tư tưởng và tổ chức trong Đảng Công
nhân xã hội dân chủ Nga. Dựa vào bộ “Tư bản” của C.Mác và
hoạt động thực tiễn cách mạng trong phong trào cơng nhân
đang phát triển. Lênin phân tích một cách sâu sắc chủ nghĩa
tư bản trong giai đoạn mới và chỉ ra rằng, chủ nghĩa đế quốc


2
là đêm trước của cách mạng vô sản; rằng, trên thực tế đã có


“điều kiện khách quan để lật đổ chế độ tư bản đã chín muồi”1,
Tính tất yếu khách quan của cách mạng vô sản đang trở
thành hiện thực. Do đó lịch sử giai đoạn này địi hỏi đảng cách
mạng chân chính của giai cấp cơng nhân phải thực sự là đội
tiên phong, lãnh tụ chính trị đủ khả năng lãnh đạo cuộc đấu
tranh giai cấp bằng đường lối, chiến lược, sách lược mới phù
hợp yêu cầu thực tiễn cách mạng đặt ra.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai
cấp công nhân lớn mạnh không ngừng cả về số lượng và chất
lượng. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
cả về bề rộng, chiều sâu và diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở
nhiều nước châu Âu đã chứng minh rằng: giai cấp công nhân
hồn tồn có khả năng đồn kết xung quanh mình những
người bị áp bức và bóc lột để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa,
xây dựng xã hội mới. Tại thời điểm lịch sử này, với tầm nhìn
chiến lược Lênin đưa ra khẩu hiệu mang tính chất hiệu
triệu:“Vơ sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đồn kết
lại!”. Bằng trí tuệ và uy tín của mình Lênin cùng bạn bè đã
đấu tranh kiên quyết chống lại quan điểm sai lầm của chủ
nghĩa cơ hội trong quốc tế II, đồng thời kế thừa và phát triển
sáng tạo những luận điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về Đảng,
xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân.
Tháng 03 - 1898, Đại hội I của Đảng Công nhân dân
chủ - xã hội Nga được triệu tập, Đại hội chưa đưa ra được
cương lĩnh và điều lệ mà chỉ làm được một việc duy nhất là
1

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1980, tập 26, tr. 119.



3
bầu được Ban Chấp hành Trung ương. Tuy nhiên, ngay sau
Đại hội hầu hết các uỷ viên Trung ương bị chính quyền Nga
Hồng bắt giữ và đưa đi lưu đày ở Xibiari. Đúng lúc này phong
trào công nhân Nga đang phát triển mạnh mẽ địi hỏi cần có
chính Đảng cách mạng lãnh đạo, trong khi đó phần đơng các
tổ chức Mácxít địa phương quen làm theo lối thủ cơng, cục bộ
địa phương khơng có tính chất tồn quốc.
Trải qua, giai đoạn cách mạng gặp khó khăn.
Lênin và những người bạn chiến đấu của ông đã đấu tranh
không mệt mỏi nhằm thống nhất tư tưởng và hành động của
phong trào công nhân Nga. Chính vì vậy, Đại hội lần thứ II của
Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga được triệu tập vào
tháng 7 năm 1903. Tại Đại hội đã nổ ra cuộc đấu tranh rất
quyết liệt về quan điểm giữa phái cách mạng chân chính do
Lênin đứng đầu và phái cơ hội chủ nghĩa do Máctốp đứng đầu.
Với những lý luận sắc bén, chính xác, đầy thuyết phục, Lênin
trình bày toàn bộ hệ thống những quan điểm đầu tiên của
mình về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp cơng
nhân. Những quan điểm đó, sau này được ơng bổ sung trở
thành học thuyết về Đảng Cộng sản.
Hệ thống những nguyên tắc tổ chức cơ bản về xây dựng
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân được Lênin đưa ra
trong đại hội trên cơ sở kết thừa và phát triển những tư tưởng
của C.Mác - Ph.Ăngghen được khái quát như sau:
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân.
- Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công
nhân.



4
- Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp
công nhân.
- Đảng được tổ chức theo chế độ tập trung.
- Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên
phong với giai cấp công
nhân và đông đảo quần chúng lao động
- Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng.
Trong đó nguyên tắc: Đảng là hiện thân của sự liên lạc
giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và đông đảo quần
chúng lao động là một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản
của đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, là mối liên hệ bản
chất, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng kiểu mới, là
sức mạnh, là vấn đề sống còn đối với Đảng cầm quyền, là
điều kiện cơ bản bảo đảm cho cách mạng thắng lợi và là tiêu
chuẩn của một đảng mácxít chân chính.
Trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức cơ bản về
đảng kiểu mới của Lênin. Đảng Bơnsêvích Nga đã ra đời năm
1903, tiếp theo Quốc tế III - Quốc tế cộng sản thành lập năm
1919 theo sáng kiến của Lênin. Quốc tế III đã đóng góp vai trị
to lớn đối với sự ra đời của hàng loạt các Đảng Cộng sản trên
toàn thế giới, từ đó thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai
cấp cơng nhân phát triển mạnh mẽ. Điều đó chứng minh
rằng: những nguyên tắc tổ chức xây dựng đảng cách mạng
chân chính của Lênin đưa ra là hồn tồn đúng đắn, phù hợp
với xu hướng phát triển phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế.



5
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết tìm mọi cách
chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Đặc biệt, là chia rẽ mối liên hệ giữa Đảng
và quần chúng nhân dân. Vì vậy, học tập, nghiên cứu, vận
dụng sáng tạo luận điểm của Lênin về Đảng là hiện thân của
mối liên hệ giữa đội tiên phong của giai cấp cơng nhân với
quần chúng nhân dân, là một địi hỏi tất yếu khách quan
trong công tác xây dựng Đảng. Một vấn đề có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng trong q trình xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, một đảng mà phần đông đảng viên xuất thân từ nông
dân. Đây vừa là vấn đề quyết định sự sống còn của Đảng ta,
đồng thời là yếu tố quan trọng củng cố sự tồn tại và phát triển
của hệ thống chính trị, là điều kiện tất yếu bảo đảm giành
thắng lợi trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản ở nước ta hiện nay.
Trong khi luận giải tính tất yếu khách quan sự ra đời của
Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác - Lênin đồng thời làm rõ mối
quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động. C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định rằng:
Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân; Đảng luôn
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải
quyết các vấn đề. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động. Đảng không chỉ đại biểu cho quyền lợi của giai
cấp cơng nhân mà cịn đại biểu cho quyền lợi của toàn thể
nhân dân lao động. Bởi vì, giai cấp cơng nhân chỉ có thể tự
giải phóng mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp



6
nhân dân lao động khác trong xã hội thoát khỏi áp bức và bóc
lột.
C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ rõ: Đảng Cộng sản thực sự là đội
tiên phong cách mạng của giai cấp cơng nhân thì Đảng phải
được vũ trang bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác ngộ cao,
đồng thời, trong thực tiễn, Đảng là người kiên quyết nhất và
biết lơi cuốn quần chúng hành động.
Khi bàn về vai trị của quần chúng trong lịch sử nhân
loại, trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” Ph.Ăngghen chỉ ra
rằng: quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử. Quần chúng
sáng tạo, đó là động lực thực sự của lịch sử chứ không phải cá
nhân anh hùng và sự “phê phán thuần tuý” sáng tạo ra. Trên
cơ sở quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen về quần chúng và
vai trò của quần chúng. Lênin đã kế thừa, phát triển và vận
dụng sáng tạo trong giai đoạn lịch sử hiện tại xây dựng nên
một trong những nguyên tắc của Đảng kiểu mới.
Thực tiễn Lênin đã xây dựng Đảng Bơnsêvích Nga gắn
bó, liên hệ chặt chẽ, máu thịt với giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Lênin khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định,
lực lượng sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần của
xã hội. Đảng là tổ chức tự nguyện đấu tranh vì sự nghiệp giải
phóng quần chúng khỏi ách áp bức và bóc lột. Quần chúng
cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu
tranh ấy. Đồng thời khơng có sự đồng tình ủng hộ của quần
chúng thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không thể trở
thành hiện thực.



7
Theo Lênin Đảng Cộng sản chỉ tồn tại với tính cách là đội
tiên phong, lãnh tụ chính trị khi gắn bó mật thiết với quần
chúng. Đảng phải liên hệ với quần chúng là tất yếu khách
quan. Bởi vì, Đảng Cộng sản và quần chúng lao động là hai
nhân tố cơ bản của cách mạng vô sản. Đảng là người lãnh đạo
và tổ chức quần chúng, còn quần chúng là lực lượng vật chất
tiến hành cách mạng. Mối liên hệ khăng khít với quần chúng
đã giúp cho Đảng hiểu rõ lợi ích và nắm vững tâm tư, nguyện
vọng của các giai cấp và các tầng lớp xã hội khác nhau, đồng
thời gây dựng được lòng tin và ảnh hưởng lớn tới các giai cấp
và tầng lớp đó.
Quần chúng là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch
sử. Sức mạnh của Đảng là ở mối liên hệ với quần chúng. Do
đó, khi giải quyết mọi nhiệm vụ, Đảng phải dựa vào quần
chúng. Mặt khác, chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
thì năng lực sáng tạo to lớn của nhân dân mới thực sự được
bộc lộ và tác động đúng hướng tiến trình phát triển của xã
hội. Khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì quần chúng
nhân dân khơng thể có phương hướng chính trị đúng đắn để
đấu tranh và phong trào quần chúng cũng chỉ dừng lại ở “chủ
nghĩa công liên” mà thôi. Ngược lại, nếu khơng có sự đồng
tình, ủng hộ của quần chúng thì Đảng khơng thể có sức mạnh,
cách mạng vơ sản khơng thể đi tới thành công được. Sự lãnh
đạo của Đảng kết hợp với tính tích cực và sáng tạo của quần
chúng tạo ra một sức mạnh vô cùng to lớn. Lênin chỉ rõ: “Đội
tiên phong chỉ làm tròn sứ mệnh lịch sử của nó khi nó biết
gắn bó với quần chúng mà nó lãnh đạo và thực sự dẫn dắt tập
thể quần chúng tiến lên. Nếu không liên minh với những



8
người không phải là đảng viên cộng sản trong các lĩnh vực
hoạt động hết sức khác nhau thì khơng thể nói tới một thành
cơng nào trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cả”2.
Theo Lênin, Đảng Cộng sản có vị trí rất quan trọng trong
cách mạng vơ sản. Đảng là đội tiên phong, là người lãnh đạo,
là lãnh tụ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng
chỉ trở thành lãnh tụ chính trị, đội tiên phong khi Đảng gắn bó
mật thiết với giai cấp và quần chúng. Nghĩa là, nó thể hiện
mối quan hệ giữa người lãnh đạo với đối tượng lãnh đạo và
phải luôn luôn duy trì tốt mối quan hệ đó. Nếu cắt đứt mối
quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và quần chúng
nhân dân lao động thì Đảng khơng cịn tồn tại với tư cách là
người lãnh đạo, là đội tiên phong nữa. Người nhấn mạnh: “đối
với Đảng Cộng sản…thì một trong những nguy hiểm lớn nhất
và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”3 và
khẳng định: “Những người lãnh đạo không được tách rời quần
chúng bị lãnh đạo, đội tiên phong khơng được tách rời khỏi
tồn bộ đội quân lao động”4. Nói cách khác, liên hệ chặt chẽ
với quần chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động
của Đảng Cộng sản, là nguồn gốc sức mạnh của Đảng, là một
trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự thành cơng
của tồn bộ sự nghiệp cách mạng.
Xã hội loài người vận động theo các qui luật khách quan
vốn có của nó. Cũng như các quy luật xã hội khác, quy luật
này không phải phát huy tác dụng một cách tự phát mà phải
thông qua hoạt động tự giác của chủ thể của nó đó là Đảng
2

3
4

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 45, tr. 28 -29.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 44, tr. 426.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 44, tr. 608.


9
Cộng sản. Vì vậy, Đảng muốn tồn tại, phát triển, xứng đáng là
đội tiên phong và có đủ lực lượng, đủ sức mạnh hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình thì Đảng phải liên hệ chặt chẽ với giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và phải được sự ủng hộ
của họ. Đó là một trong những điều kiện quan trọng bảo đảm
cho Đảng có sức mạnh và phát triển, là nhân tố cơ bản quyết
định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng; là nguyên tắc bất di
bất dịch trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ
chức tự nguyện, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp,
giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức và bóc lột, nhân dân
cần có đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu
tranh ấy. Ngược lại nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của
nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không trở
thành hiện thực. Lênin khẳng định: “Muốn trở thành một
Đảng dân chủ - xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính
giai cấp…”5.
Người cịn chỉ rõ: Mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng
không phải do số lượng đảng viên nhiều hay ít, mà được quyết
định chủ yếu ở chất lượng đội ngũ đảng viên. Các tổ chức
đảng của chúng ta bao gồm những người chân chính dân chủ

- xã hội . Họ càng mạnh mẽ bao nhiêu, trong nội bộ đảng
càng ít có tình trạng dao động và khơng kiên định mục tiêu, lý
tưởng bao nhiêu, thì ảnh hưởng của đảng đối với những người
trong quần chúng công nhân xung quanh đảng và chịu sự
lãnh đạo của đảng sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt, càng
phong phú, càng hiệu quả bấy nhiêu.
5

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978,tập 8, tr. 293.


10
Sau khi đập tan bộ máy nhà nước Tư sản giành chính
quyền về tay nhân dân, thiết lập nền chuyên chính vơ sản. Sự
lãnh đạo của Đảng ngày càng to lớn về quy mô, phong phú và
phức tạp về nội dung, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời
sống chính trị, xã hội. Chính sự tăng lên khơng ngừng vai trò
lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục mở rộng và
củng cố mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Lênin
chỉ ra rằng: Chúng ta là đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như
toàn bộ giai cấp (và trong thời kỳ nội chiến thì tồn bộ giai
cấp khơng trừ một người nào cả) càng phải hoạt động dưới sự
lãnh đạo của đảng ta, phải triệt để xiết thật chặt hàng ngũ
xung quanh đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành xây dựng xã
hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, thì vấn đề củng cố và tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân càng trở nên cấp
bách và quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì, cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn
diện nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay go nhất, phức tạp

nhất trong lịch sử lồi người. Lênin nói: đó là thời điểm rung
chuyển vũ bão về chính trị và kinh tế, thời điểm đấu tranh giai
cấp cực kỳ sâu sắc. Cuộc cách mạng này đòi hỏi Đảng Cộng
sản phải động viên và phát huy đến mức cao nhất tính tích
cực, tự giác và sáng tạo của quần chúng nhân dân. Khơng như
thế thì khơng thể có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
được.
Xét quá trình phát triển của xã hội lồi người thì sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một
nhiệm vụ hoàn tồn mới mẻ, nó vơ cùng khó khăn, gian khổ


11
và phức tạp. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành cơng khi Đảng tổ
chức phát huy được tính sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của
quần chúng. Do vậy, nếu cho rằng, chỉ riêng Đảng Cộng sản
với sức mạnh của mình mới có thể xây dựng được chế độ xã
hội mới, là phạm sai lầm nghiêm trọng. Lênin đã chỉ ra rằng:
những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại
dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng với bàn tay những
người cộng sản thì khơng thể xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của
bản thân quần chúng nhân dân. Tính chất hành chính, máy
móc, quan liêu khơng dung hợp với tinh thần của chủ nghĩa
xã hội và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
phải phê phán tất cả những hành động, biểu hiện quan liêu,
chuyên quyền, độc đoán, cục bộ địa phương làm ảnh hưởng
tới những giá trị chân chính của chủ nghĩa xã hội, làm suy
giảm sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân.
Hồn cảnh của lịch sử có tính chất quyết định đối với các

hình thức cụ thể của mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng và
sự lãnh đạo quần chúng của Đảng. Trong lúc chính quyền cịn
nằm trong tay bọn bóc lột thì Đảng đặt ra nhiệm vụ cơ bản là
tranh thủ giai cấp công nhân và các tầng lớp lao động khác về
phía mình, đồn kết quần chúng xung quanh giai cấp vô sản
để lật đổ ách thống trị của bọn tư bản. Chính mục đích đó,
Đảng hoạt động trong tất cả các tổ chức xã hội kể cả các tổ
chức phản động, nếu trong đó có quần chúng lao động; theo
Lênin những người cộng sản cần thiết và tất yếu phải tham
gia vào nghị viện tư sản. Đảng tham gia các cuộc vận động
chính trị bầu cử vào nghị viện và các tổ chức khác của giai


12
cấp tư sản, làm như vậy Đảng có thể trình bày trước quần
chúng cương lĩnh, mục đích và nhiệm vụ của mình để lơi kéo
quần chúng, vạch trần thực chất tính chất phản động trong
chính sách của giai cấp cầm quyền và tất cả những kẻ ủng hộ
chúng, gây sức cơng phá kẻ thù từ trong lịng kẻ thù, chuẩn bị
mọi mặt cho cách mạng giành chính quyền.
Lênin chỉ ra rằng: khi cách mạng đã bùng nổ và quần
chúng tham gia vào cuộc cách mạng đó, thì làm người cách
mạng khơng khó. Nhưng khi điều kiện cho sự bùng nổ cách
mạng chưa chín muồi và cần phải giải thích cho quần chúng
hiểu rõ sự cần thiết của những hành động cách mạng với mục
đích thoả mãn những lợi ích căn bản của họ thì việc thực hiện
đường lối cách mạng sẽ khó khăn hơn nhiều. Chính điều đó
địi hỏi Đảng Cộng sản phải làm công tác quần chúng một
cách kiên trì, bền bỉ, khéo léo và có hiệu quả.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi,

Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền, Đảng thực hiện
vai trị lãnh đạo của mình thơng qua các cơ quan nhà nước,
các tổ chức cơng đồn, đồn thanh niên và các tổ chức quần
chúng khác của nhân dân lao động. Những tổ chức đó là cầu
nối liền Đảng với đơng đảo quần chúng cơng nhân, nơng dân,
trí thức và các giai tầng khác, khơng có điều đó thì khơng thể
có được chính quyền vơ sản.
Thực tiễn đã chứng minh khi Đảng Bơnsêvích Nga
đã có chính quyền. Đảng Bơnsêvích Nga ln thắt chặt mối
liên hệ với quần chúng. Lênin nhấn mạnh: sức mạnh của
Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ với nhân dân, từ sự đồng tình
và ủng hộ của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Thiếu điều


13
kiện đó khơng những khơng thể xây dựng thành cơng chủ
nghĩa xã hội, mà cịn có thế dẫn đến mất chính quyền. Trong
lời Chào mừng những người cộng sản ý, pháp và Đức, Lênin
khẳng định: “Khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân
dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức là đối với
giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện
được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó...phải trải qua một
cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành
được”6 và sự đồng tình ủng hộ ấy “không phải kết thúc khi
giai cấp vô sản đã cướp được chính quyền. Sau khi giành được
chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như trước, có
điều là với hình thức khác mà thơi”7.
Thực tiễn chứng minh rằng: một trong những nguyên
nhân hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu sụp đổ là do các Đảng cầm quyền không thắt chặt mối

quan hệ giữa đảng với quần chúng, không nắm bắt được tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân, không đưa ra được những giải
pháp kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu bức xúc của quần
chúng, không được quần chúng tin u, bảo vệ. Chính vì vậy,
mà các Đảng Cộng sản ở các nước đó để cho kẻ thù giai cấp
lợi dụng tính bột phát của quần chúng, mê hoặc quần chúng,
chống lại sự lãnh đạo của Đảng, phá hoại cách mạng.
Do đó, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng có nhiều
điều kiện mới, công cụ mới rất thuận lợi cho việc tăng cường
mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Đảng cần xây dựng
được cơ chế vận hành của hệ thống chính trị trên nguyên tắc
tập trung dân chủ để giữ vững kỷ cương, phép nước, đồng
6
7

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 39, tr. 251.
V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1978, tập 39, tr. 251.


14
thời phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Động viên quần
chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước, xây dựng đời sống văn minh, hạnh phúc.
Mặt khác, khi đảng cầm quyền, đảng viên có chức, có
quyền trong Đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh
lệnh làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện
có thể rơi vào tình trạng thối hố, biến chất, xa rời quần
chúng không quan tâm đầy đủ tới lợi ích của quần chúng.
Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà đảng cầm quyền
cần chú ý đề phòng, khắc phục. Nếu những ai quên mất

những mối liên hệ khăng khít giữa đội tiên phong và tồn thể
nhân dân thì đó là một tai hoạ thật sự. Quan liêu, xa rời quần
chúng chính là nguy cơ làm cho Đảng dễ phạm sai lầm về
đường lối, vì nó làm cho đường lối của Đảng không phản ánh
đúng đắn và đầy đủ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và quyền
lợi chính đáng của quần chúng. Do đó, Đảng khơng thể xây
dựng được niềm tin, sự tín nhiệm của quần chúng; không
được quần chúng tán thành ủng hộ, không quyết tâm thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và kết quả là đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng chỉ nằm trên giấy mà thôi.
Đồng thời, quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng còn là
nguyên nhân làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên khi có
chức, có quyền thiếu rèn luyện, phai nhạt lý tưởng rất dễ nảy
sinh thói hư, tật xấu, thối hố, biến chất. Điều đó cực kỳ
nguy hiểm, bởi nó trái với bản chất của Đảng, làm tổn hại đến
uy tín và thanh danh của Đảng đối với quần chúng. Vì vậy,
Lênin yêu cầu trong công tác xây dựng Đảng, Đảng phải kiên
quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa quan liêu, xa rời


15
quần chúng. Đồng thời, Lênin kịch liệt phản đối những người
cộng sản “tả khuynh”, coi cơng đồn là một tổ chức phản
động. Họ ln nói đến khái niệm quần chúng, nhưng họ đã
lạm dụng khái niệm đó và khơng hiểu nổi mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng. Họ chủ trương rằng, những người cộng
sản khơng tham gia cơng đồn, điều đó có nghĩa là tách Đảng
với quần chúng. Lênin khẳng định: Chỉ có một mình đội tiên
phong thơi thì khơng thể thắng nổi. Ném độc một mình đội
tiên phong vào một cuộc chiến đấu quyết định, khi mà toàn

thể giai cấp, khi mà quần chúng đông đảo hoặc chưa có ít ra
là một thái độ trung lập có thiện cảm đối với đội tiên phong,
khiến họ hồn tồn khơng thể ủng hộ kẻ địch được, thì đó
khơng những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa.
Qua đó chúng ta thấy rằng: củng cố và tăng cường
mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản với quần chúng là một địi hỏi
tất yếu của cách mạng vơ sản, của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, là một quy luật khách quan của công tác xây
dựng Đảng. Đây vừa là vấn đề quyết định sự sống còn của
Đảng, vừa là sự bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và phát
triển của hệ thống chính trị, là điều kiện tất yếu trong cuộc
đấu tranh giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Bất kỳ một sự
làm suy yếu nào mối liên hệ giữa Đảng Cộng sản với quần
chúng cũng đều làm yếu sức mạnh của hệ thống chính trị,
làm hạn chế sự phát triển của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản .
Do đó, Lênin khẳng định: Để giữ vững và tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, Đảng phải đi
vào các giai cấp, các tầng lớp với tư cách là người truyền bá


16
tư tưởng, lý luận chủ nghĩa Mác để giác ngộ, tập hợp quần
chúng; tổ chức vận động quần chúng, phát huy vai trò của
quần chúng trong sự nghiệp cách mạng. Đảng phải hết sức
làm cho tinh thần của mình thấm sâu vào các nghiệp đoàn và
làm cho các tổ chức ấy chịu ảnh hưởng của mình.
Đảng Cộng sản phải đại biểu và chăm lo cho lợi ích
của quần chúng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng phải
xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần chúng,

tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của quần chúng trên tát
cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu không xuất phát từ
nguyện vọng, lợi ích của quần chúng thì Đảng khơng có lý do
để tồn tại.
Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Vì vậy, Đảng
phải phát huy được vai trò chủ động sáng tạo, tiếp thu kinh
nghiệm của quần chúng, tập trung trí tuệ của quần chúng làm
lực lượng vật chất hùng hậu xung quanh Đảng. Đồng thời,
Đảng phải có phương pháp, tác phong quần chúng, dựa vào
quần chúng để xây dựng và hoạt động. Thơng qua các tổ chức
đồn thể chính trị - xã hội để lôi kéo, tập hợp quần chúng, làm
như vậy, Đảng sẽ hiểu được, nắm được nhiều quần chúng
hơn, Lênin địi hỏi: người cộng sản nhất thiết phải cơng tác ở
bất cứ nơi nào có quần chúng, kể cả những tổ chức phản động
nhất.
Đảng phải dựa vào quần chúng để hoạt động và
xây dựng Đảng. xây dựng đường lối, chủ trương cho sát với
thực tiễn đời sống của nhân dân. Thơng qua quần chúng để
phê bình cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng phải xây dựng cơ


17
chế, bộ máy của quần chúng để kiểm tra, giám sát cán bộ,
đảng viên, tổ chức đảng. Đồng thời, thông qua quần chúng để
làm công tác phát triển đảng và sàng lọc đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng và đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng, vi phạm dân chủ trong Đảng. Đảng phải đoàn kết và
lãnh đạo quần chúng tiến hành sự nghiệp cách mạng. Mặt
khác, Đảng phải thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững

mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Lênin từng dạy: chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm
mắt trước nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những
nhiệm vụ đó lại nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội
tiên phong và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiên phong
đó; nếu chúng ta quên mất rằng, đội tiên phong ấy có nghĩa
vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đơng đảo
lên trình độ tiên tiến ấy. Đây chính là yêu cầu quan trọng đặt
ra cho Đảng phải đề phòng và khắc phục các khuynh hướng
quan liêu xa rời quần chúng, vượt quá xa trình độ của quần
chúng. Đồng thời, đề phịng khuynh hướng theo đi quần
chúng.
Thực tiễn phong trào cách mạng ở Nga đã chứng minh:
Luận điểm của Lênin về Đảng là hiện thân của mối liên hệ
giữa đội tiên phong với giai cấp công nhân và quần chúng là
một trong những nguyên tắc tổ chức cơ bản, quan trọng của
Đảng Bơnsêvích Nga lúc bấy giờ. Kết hợp chặt chẽ với các
nguyên tắc tổ chức khác, Lênin đã cùng với Đảng Bơnsêvích
xây dựng thành cơng một Đảng kiểu mới,ểtực tiếp lãnh đạo
cách mạng Tháng Mười Nga thành công và tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Lênin đã đánh bại những tư


18
tưởng phản động, những mưu đồ đen tối của bọn cơ hội, xét
lại đang hàng ngày, hàng giờ mưu toan chống phá Đảng,
chống phá cách mạng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sức mạnh to
lớn, vai trị có ý nghĩa quyết định của quần chúng nhân dân
trong lao động sản xuất và trong các cuộc cách mạng xã hội.

Lênin chỉ ra rằng: trong điều kiện có chính quyền, Đảng cầm
quyền có hai nguy cơ là sai lầm về đường lối và xa rời quần
chúng. Do vậy, bất cứ một đảng phái hay giai cấp nào muốn
thực hiện những cuộc cải biến có ý nghĩa cách mạng đều phải
dựa vào quần chúng, thông qua sức mạnh của quần chúng để
xây dựng đường lối, sách lược, phù hợp yêu cầu thực tiễn.
Trải qua hơn 100 năm, lịch sử thế giới có nhiều biến
động sâu sắc. Song luận điểm này đến nay vẫn còn nguyên
giá trị cả về lý luận và thực tiễn đối với phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, đặc biệt có ý nghĩa vơ cùng quan trọng
đối với nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
Vận dụng, sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin về xây dựng Đảng - đội tiên phong của giai cấp công
nhân vào điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã có những bước phát triển mới phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh và kết cấu giai cấp, dân tộc Việt Nam. Quan
hệ giữa Đảng và nhân dân, nhất là quan hệ giữa Đảng cầm
quyền đối với nhân dân là một nội dung đặc sắc trong tư
tưởng của Người về Đảng Cộng sản Việt Nam.


19
Hồ Chí Minh khẳng định: mối liên hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân là vấn đề cơ bản của cơng tác xây dựng
Đảng. Đảng có liên hệ mật thiết với quần chúng thì Đảng mới
có sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù và xây dựng
thành công chế độ xã hội mới. Chính vì vậy, từ khi ra đời cho
đến nay và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, dưới sự

tổ chức và lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ln gắn
bó mật thiết với quần chúng, trung thành lợi ích của giai cấp,
của dân tộc. Đảng ta xác định liên hệ máu thịt với nhân dân là
vấn đề có ý nghĩa quyết định tới sự tồn vong của Đảng.
Trước lúc đi xa Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại bản “Di chúc”
tài sản vơ giá cho dân tộc, Người nhấn mạnh về mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân; “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng,
một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc,
cho nên ngay từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết,
tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác…Đảng ta là một đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”8.
Trung thành, vận dụng sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối liên hệ giữa Đảng
với quần chúng, điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua
Đại hội đai biểu lần thứ X khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt
8

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập. 12, tr. 510.


20
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc...Đảng lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân

tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững qui luật
khác quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra
Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng dắn, phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân...Đảng Cộng sản Việt Nam là
đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào dân để xây
dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự
nghiệp cách mạng.”9
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là vấn đề trung tâm,
xuyên suốt và cốt lõi trong đường lối chính trị của Đảng, là
mối quan hệ khách quan tất yếu, là mối quan hệ máu thịt
trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Do đó Đảng ta phải
khơng ngừng giữ gìn, củng cố, tăng cường và phát huy nó,
nếu khơng thì sẽ dẫn đến những sai lầm khơng thể lường hết
được.
Thực tiễn chứng minh rằng từ khi ra đời đến nay, mối
quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày càng được củng cố,
tăng cường qua các thời kỳ. Mối quan hệ keo sơn đó được thể
hiện rõ hơn, sâu sắc hơn, bền chặt hơn khi cách mạng lâm
vào thời kỳ thoái trào, bị tổn thất nặng nề, nhưng Đảng ta vẫn
một lòng trung thành với mục tiêu lý tưởng của dân tộc, lợi
ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tin tưởng sự
thương yêu dùm bọc của nhân dân, giữ vững sự lãnh đạo cách
9

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, tr 4 - 5 - 6




×