Tải bản đầy đủ (.docx) (233 trang)

Văn hóa và môi trường văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.23 KB, 233 trang )

LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Trong cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia dân
tộc, văn hoá đã, đang và sẽ thâm nhập vào mọi lĩnh vực đời
sống, hoạt động xã hội như là mục tiêu và động lực của sự
phát triển, tiến bộ lịch sử. Trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận mácxít, cần khẳng định rằng khơng thể xây dựng
văn hoá trong sự tách biệt với vấn đề xây dựng con người. Bởi
lẽ, văn hoá là sự phát triển những lực lượng bản chất người
theo tiêu chí chân, thiện, mỹ và hiện thực hố nó thơng qua
hoạt động sống của con người trong tiến trình lịch sử.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thể hiện tầm nhìn cách mạng và khoa học về
chiến lược văn hoá: "Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng
con người Việt Nam phát triển tồn diện về chính trị, tư tưởng,
trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lịng nhân ái, khoan dung, tơn trọng nghĩa tình, lối sống
có văn hố, quan hệ hài hồ trong gia đình, cộng đồng và xã
hội"(1).
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ta đang đòi hỏi
phải gắn phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho quá trình lao động
sáng tạo xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam
ngày càng thấm đậm tinh thần nhân văn cao cả. Hơn nữa,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tạo
ra điều kiện, tiền đề và những động lực quan trọng để hình
thành và phát triển những giá trị văn hoá mới; song, tác động
mặt trái của nó cũng gây khơng ít khó khăn, cản trở đối với


q trình này, thậm chí tạo ra những phản giá trị như: sự chập
chờn về định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, sự so sánh


thiệt - hơn về lợi ích kinh tế, sự xuống cấp về đạo đức, lối sống,
sự tụt hậu về tư tưởng - lý luận và tri thức khoa học, xu hướng
thị trường hóa trong xây dựng đời sống văn hoá và hoạt động
văn hoá ở nhiều địa phương, cơ sở.
Vì vậy, một trong những yêu cầu lý luận đặt ra trước hết
là phải nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề
phương pháp luận trong q trình xây dựng mơi trường văn
hố cơ sở. Điều đó cho phép chúng ta huy động được mọi khả
năng và tiềm năng đặc biệt của văn hoá vào sự nghiệp "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", đồng
thời khắc phục được những tác động tiêu cực từ mặt trái của
cơ chế kinh tế thị trường đến tiến trình xây dựng nền văn hố
và con người Việt Nam hiện nay.
Việc nhận thức và vận dụng những vấn đề phương pháp
luận đó cịn xuất phát từ yêu cầu giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa xu hướng hội nhập, giao lưu quốc tế với việc giữ
gìn, phát huy và phát triển truyền thống bản sắc văn hoá dân
tộc, nhằm tạo ra một hệ thống động lực đặc biệt cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Chỉ có trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn như
vậy thì chúng ta mới có thể gắn việc xây dựng mơi trường văn
hố cơ sở với tồn bộ q trình phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và đào tạo nhân tài cho
đất nước.
Mối quan hệ hữu cơ giữa mở rộng dân chủ, đa dạng hoá
đời sống văn hoá với vấn đề giữ vững vai trò lãnh đạo của


Đảng, kỷ cương pháp luật của Nhà nước và đấu tranh thắng
lợi trên mặt trận tư tưởng - lý luận càng cần phải đặt ra yêu

cầu khách quan nắm vững và vận dụng đúng đắn những vấn
đề phương pháp luận trong q trình xây dựng mơi trường
văn hố cơ sở. Đây là khâu then chốt bảo đảm cho sự nghiệp
đổi mới thắng lợi, không đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa,
đồng thời khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí và làm thất bại
âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch trên
lĩnh vực văn hoá - tư tưởng.
Hiện nay, việc xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh
trong các địa phương, cơ sở đang đặt ra những yêu cầu cơ
bản và cấp bách cả về lý luận và thực tiễn, nhất là vấn đề cơ
chế quản lý văn hố, chính sách văn hố và xây dựng đội ngũ
cán bộ chuyên trách về công tác văn hoá. Nắm vững và vận
dụng đúng đắn những vấn đề phương pháp luận trên cịn là
tiền đề khơng thể thiếu để xây dựng những kế hoạch, chương
trình hành động mang tính khả thi và có hiệu lực thực thi cao
nhằm xây dựng mơi trường văn hố cơ sở một cách đồng bộ,
tồn diện, sâu sắc, khắc phục cách làm mị mẫm, thụ động,
hình thức, hoặc hiện tượng "đánh trống bỏ dùi", "đầu voi đuôi
chuột"... mà trong thực tế chúng ta hay mắc phải.
Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá" đang ngày càng mở rộng và phát triển theo chiều
sâu ở các địa phương, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ
quan nhà nước, các khu dân cư, các đơn vị quân đội... Những
hoạt động văn hoá đa dạng diễn ra trên khắp các vùng miền
đất nước, từ thành thị đến nông thôn và tới cả các vùng sâu,
vùng xa như: "Làng vui chơi, làng ca hát", các cuộc chơi mang


tính trí tuệ trên làn sóng truyền hình, các đợt sinh hoạt văn
hố sơi động nhân những ngày kỷ niệm lớn của đất nước và

của từng địa phương, các hình thức du lịch văn hoá, du lịch
sinh thái... Nhiều phương thức tổ chức đời sống văn hoá
phong phú được thiết lập và đi vào hoạt động như các đội
nghệ thuật quần chúng, làng văn hoá, bản văn hoá, khối phố
văn minh… Có thể nói, chưa bao giờ đời sống văn hố của
nhân dân ta có sự khởi sắc như hiện nay.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc nhận thức và làm rõ cơ sở
khoa học của việc xây dựng, phát triển văn hố cịn rất hạn
chế, nên hiệu quả thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá" ở nhiều địa phương, cơ sở
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn; việc xác định nội
dung của cuộc vận động đó vẫn cịn chung chung, dàn trải;
vai trị của mơi trường văn hố cơ sở trong thúc đẩy, nâng cao
chất lượng đời sống văn hoá chưa được phát huy mạnh mẽ.
Sở dĩ có tình trạng này trước hết là do chúng ta chưa nhận
thức được đầy đủ thực chất, đặc trưng và nhất là các vấn đề
có tính quy luật trong xây dựng mơi trường văn hố cơ sở.
Mơi trường văn hố cơ sở chỉ có thể được xây dựng một
cách hiệu quả khi chúng ta nắm vững và vận dụng đúng đắn
những vấn đề có tính quy luật của sự phát triển mơi trường
văn hố vào tình hình, đặc điểm của mỗi địa phương, cơ sở.
Điều đó khơng những cho phép chủ động tạo ra điều kiện
thuận lợi cho sự tác động khách quan của những quy luật văn
hố nhằm đưa q trình xây dựng mơi trường văn hố cơ sở
vào chiều sâu, mà cịn góp phần tích cực hướng mơi trường


văn hố đó vào việc thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội và xây dựng con người Việt Nam văn minh, hiện đại.
Cuốn sách chuyên khảo này góp phần nghiên cứu những

vấn đề văn hố trên cơ sở lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và hệ thống quan điểm, tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, góp phần quán triệt và đưa các nghị quyết của
Đảng vào đời sống văn hoá - xã hội, đặc biệt là góp phần thực
hiện cuộc vận động "Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hố". So với lần xuất bản thứ nhất (tháng 10 năm 2001),
trong lần xuất bản này, cuốn sách đã được tác giả bổ sung,
chỉnh sửa một số chỗ để phù hợp với đà phát triển của lý luận,
của khoa học công nghệ hiện đại và thực tiễn đời sống xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu biên soạn, biên tập, in ấn
khó tránh khỏi cịn những hạn chế, thiếu sót, rất mong tiếp
tục nhận được sự góp ý từ bạn đọc.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.


Chương I
MƠI TRƯỜNG VĂN HỐ CƠ SỞ VÀ VAI TRỊ CỦA NÓ
TRONG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG
Trên cơ sở phương pháp luận mácxít, nghiên cứu mơi
trường văn hố thực chất là nghiên cứu quan hệ biện chứng
giữa con người với hoàn cảnh, xét theo góc độ văn hố. Trong
đó, con người một mặt là chủ thể thích ứng và cải tạo hoàn
cảnh, mặt khác lại là sản phẩm của hoàn cảnh. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, "con người tạo ra hồn cảnh
đến mức nào thì hồn cảnh cũng tạo ra con người đến mức
ấy"(1). Tuy nhiên, vai trò "chủ thể" cũng như "sản phẩm" nói
trên phải được hiểu một cách rất biện chứng. Tục ngữ Việt
Nam có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", nhưng
người Việt Nam cũng nói: "Gần bùn mà chẳng hơi tanh mùi
bùn".

Suy cho cùng, hết thảy các dạng vật chất đều tồn tại và
vận động trong một môi trường nhất định. Nhưng môi trường,
với nghĩa mơi trường sinh thái, thì bao gồm "tồn bộ nói
chung những điều kiện tự nhiên, xã hội, trong đó, con người
hay một sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con
người, với sinh vật ấy"([1]). Riêng đối với con người, môi
trường sống không chỉ là môi trường sinh thái, mặc dù tầm
quan trọng của môi trường sinh thái đối với con người lớn tới
mức, nếu vi phạm sự hài hoà, cân đối của mối quan hệ giữa
con người với quá trình chinh phục tự nhiên, thì "cứ mỗi lần ta
đạt được một thắng lợi, là mỗi lần giới tự nhiên trả thù lại
chúng ta"(2). Môi trường sống của con người còn là và chủ


yếu là môi trường xã hội, trước hết là môi trường văn hố.
Lịch sử nhân loại ln chứng minh rằng, sự phát triển của mỗi
quốc gia dân tộc bao giờ cũng gắn liền với sự cải thiện mơi
trường văn hố của con người và cộng đồng trong quốc gia
dân tộc đó.
Điều nhận định trên xuất phát trước hết từ vai trị đặc
biệt của văn hố. Văn hố vừa tác động đến con người và đời
sống cộng đồng như những yếu tố trực tiếp, riêng lẻ, vừa tác
động dưới dạng một hệ thống tổng thể những yếu tố văn hoá
được khái qt trong phạm trù mơi trường văn hố. Với tư
cách yếu tố riêng lẻ, sự tác động của văn hoá thường chỉ nhất
thời và thoả mãn một nhu cầu nào đó, nhưng khi hợp thành
mơi trường văn hố thì có tầm quan trọng đặc biệt đối với con
người và cộng đồng. Đó là sự tác động một cách liên tục, từ
hoạt động sản xuất vật chất, các quan hệ tinh thần đến đời
sống tâm linh.

Như vậy, để tiếp cận quá trình xây dựng mơi trường văn
hố cơ sở dưới góc độ phương pháp luận mácxít, trước hết cần
làm rõ những khía cạnh bản chất, quy luật phát triển của văn
hố và mơi trường văn hố.
1. Văn hố và mơi trường văn hoá
Khái niệm văn hoá đã xuất hiện từ thời cổ đại và khơng
ngừng được hồn thiện cả về nội hàm cùng ngoại diên của nó.
Theo nghĩa Hán - Việt, thuật ngữ "văn hoá" là sự kết hợp hai
từ: "vẻ đẹp" và "giáo hoá", thường được các nhà tư tưởng
phong kiến dùng để chỉ sự thống trị của một triều đại dưới
hình thức đẹp đẽ - "văn trị", tức là sự thống trị dựa trên cơ sở


thuyết phục con người. Còn ở Hy Lạp cổ đại thì có thuật ngữ
"cultus" là gieo trồng, ngồi nghĩa gieo trồng ngồi đồng
ruộng (cultus agree) cịn được dùng với nghĩa gieo trồng tinh
thần (cultus animi - tức là văn hoá) chỉ sự nâng niu, nuôi
dưỡng bản chất, phẩm giá con người theo những cái hay, cái
đẹp, cái tiến bộ, cái văn minh...
Định nghĩa về văn hoá ngày càng trở nên hết sức phức
tạp. Năm 1952, A.L.Kroeber và C.L.Kluckhohn đã trích lục
được khoảng ba trăm định nghĩa văn hoá của các tác giả ở
nhiều nước khác nhau. Đến nay, đã có thêm hàng trăm định
nghĩa cùng cách tiếp cận khác về văn hoá. Nhưng, đại đa số
các tác giả đều quan niệm văn hố gắn với con người, coi đó
khơng những là hệ thống giá trị tinh thần mà còn là hệ thống
giá trị vật chất do con người tạo ra, trở thành bộ phận cơ bản
của đời sống xã hội.
"Từ điển triết học" của Rôdentan đã đưa ra định nghĩa:
"Văn hố - tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con

người tạo ra trong quá trình thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu
biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội.
Theo nghĩa hẹp hơn, người ta vẫn quen nói về văn hoá vật
chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn
hoá tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn học, triết học, đạo
đức, giáo dục, v.v..). Văn hoá là một hiện tượng lịch sử, phát
triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế - xã
hội"([2]).
Hiện nay, Tổ chức văn hoá Liên hiệp quốc (UNESCO)
đang nhìn nhận văn hố với ý nghĩa rộng rãi nhất, như một
phức thể - tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật


chất, trí thức và tình cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một
cộng đồng gia đình, xóm, làng, vùng miền, quốc gia, xã hội.
UNESCO còn đưa ra cách hiểu hẹp hơn: văn hoá là "một tổng
thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử
và sự giao tiếp trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có
đặc thù riêng... Văn hoá bao gồm hệ thống những giá trị để
đánh giá một sự việc, một hiện tượng (đẹp hay xấu, đạo đức
hay vô luân, phải hay trái, đúng hay sai...) theo cộng đồng
ấy"([3]).
Đại Bách khoa thư Xôviết coi văn hố là "trình độ phát
triển nhất định về mặt lịch sử của xã hội và con người biểu
hiện trong các dạng thức tổ chức đời sống và hoạt động của
con người, cũng như trong các giá trị vật chất và tinh thần do
họ sáng tạo ra. Khái niệm văn hố dùng để phân định trình độ
phát triển vật chất và tinh thần của các thời đại lịch sử nhất
định, các hình thái kinh tế - xã hội hay một xã hội, dân tộc, bộ
tộc cụ thể (chẳng hạn văn hoá cổ đại, văn hoá xã hội chủ

nghĩa, văn hoá Maya...), cũng như để chỉ một lĩnh vực đặc thù
của hoạt động hay đời sống (văn hoá lao động, văn hoá nghệ
thuật, văn hoá đời sống…). Theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ
"văn hoá" chỉ liên quan tới lĩnh vực đời sống tinh thần của con
người"(1).
Ở Việt Nam, từ năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có
một định nghĩa văn hoá hết sức hàm súc tại "Mục đọc sách",
viết xen trong bản thảo "Nhật ký trong tù". Người viết: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ


cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hố. Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự sinh
tồn"(2).
Gần đây, một số học giả Việt Nam cũng đưa ra các quan
niệm khác nhau về văn hoá. Có quan niệm cho rằng tất cả
những gì khơng phải thiên nhiên đều là văn hố, song có quan
niệm lại cho rằng khơng nên nhìn nhận văn hố theo những
góc độ q rộng, "văn hố khơng phải là kỹ thuật, cũng không
phải là bản thân sản xuất... không phải là hoạt động tinh thần
ở tự bản thân nó... khơng phải là hoạt động xã hội, chính trị...
cũng khơng phải là phong tục... Văn hoá là cái dấu ấn của
một thể cộng đồng lên mọi hiện tượng tinh thần, vật chất, mọi
sản phẩm của thể cộng đồng này từ tín ngưỡng, phong tục
cho đến cả sản phẩm công nghiệp, bán ra thị trường"( [4]).

Những định nghĩa khái niệm văn hoá đa dạng nói trên có
thể được khái quát lại ở những phương diện sau:
Thứ nhất, văn hoá tồn tại trong tổng thể những sản
phẩm do con người sáng tạo ra. Tất nhiên, khơng phải bất cứ
cái gì con người tạo ra cũng là văn hoá, mà chỉ trong những
sản phẩm phản ánh, chứa đựng những cái chân, thiện, mỹ.
Hơn nữa, văn hố khơng phải là bản thân sản phẩm, mà chỉ là
"dấu ấn" biểu hiện trình độ sáng tạo, trình độ người trên đó
mà thơi. Do vậy, phạm trù văn hố bao gồm cả lĩnh vực văn
hoá vật chất, lĩnh vực văn hoá tinh thần và lĩnh vực văn hoá
tổ chức xã hội.


Thứ hai, văn hoá tồn tại trong tổng thể các quan hệ
người, không những là quan hệ giữa con người với tự nhiên,
với xã hội (và với người khác) mà cịn là quan hệ giữa con
người với chính bản thân mình (trong đó có cả đời sống tâm
linh). Tuy nhiên, chỉ có các quan hệ nhân văn của con người
mới được bao hàm trong phạm trù văn hoá, và bao giờ quan
hệ nhân văn cũng giữ vai trò chi phối, chế ước, quyết định
quan hệ bản năng. Thành thử, hạt nhân của văn hố chính là
tổng hồ các quan hệ nhân văn chứa đựng bản chất người
trong quá trình phát triển, hồn thiện khơng ngừng. Và dưới
góc độ này, phạm trù văn hoá bao gồm cả văn hoá cá nhân
và văn hoá cộng đồng ở các cấp độ rộng hẹp khác nhau.
Thứ ba, văn hoá biểu hiện ra như những hệ giá trị nhân
văn bao gồm hệ tư tưởng khoa học; sự khơn ngoan, hiểu biết,
mặt bằng dân trí; chuẩn mực, cách thức ứng xử, giao tiếp;
phong tục, tập quán, thói quen sinh sống; hình thái sinh hoạt
vật chất, hình thái sinh hoạt tinh thần... có tính khn mẫu

nhất định. Những hệ giá trị đó được con người sáng tạo và
phát triển trong quá trình quan hệ với tự nhiên, xã hội và
chính mình, đánh dấu trình độ hồn thiện bản chất người
trong lịch sử và chi phối trở lại đời sống cộng đồng. Có thể
nói, các hệ giá trị nhân văn khác nhau ln hình thành nên
các nền văn hố và các mơi trường văn hố mang bản sắc
khác nhau.
Thứ tư, cái đỉnh điểm, cái "thăng hoa" của văn hố là trí
tuệ được kết tinh trong q trình tư duy của con người từ
nhiều phương thức: tư duy khái niệm hình thành nên các
ngành khoa học, tư duy hình tượng hình thành nên các loại


hình nghệ thuật, tư duy ảo tưởng dẫn đến hiện tượng tín
ngưỡng, tơn giáo... Xã hội càng văn minh thì trí tuệ con người
càng trở thành chìa khố của sự phát triển văn hố, mặc dù
văn hố khơng chỉ bao gồm trí tuệ. Chính vì có trí tuệ mà con
người trở thành động vật văn hoá duy nhất, và cũng do đó mà
các nền văn hố dù hết sức phong phú, đa dạng và mang bản
sắc riêng cũng có thể mở thơng với nhau. Với ý nghĩa này,
văn hố thể hiện cả ở tầng hệ tư tưởng - khoa học, cả ở tầng
tâm lý xã hội và cả ở các biểu tượng nghệ thuật, tâm linh…
Thứ năm, bản chất cốt lõi của văn hoá là sáng tạo và
nhân văn, hay có thể nói văn hố là dấu ấn sáng tạo và nhân
văn theo tiêu chí chân, thiện, mỹ của mỗi cộng đồng người.
Dấu ấn sáng tạo và nhân văn là mặt định tính quan trọng
nhất để nhìn nhận một hiện tượng, một quá trình, một mối
quan hệ, một dạng thức hoạt động... nào đó có mang ý nghĩa
văn hố hay khơng. Con người sáng tạo văn hố khơng những
trong đời sống tinh thần mà cả trong lĩnh vực sản xuất vật

chất, lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội. Song, chỉ có những dấu
ấn sáng tạo mang tính nhân văn, tức là xuất phát từ con
người, phục vụ lợi ích chính đáng của con người và góp phần
giải phóng con người mới được bao hàm trong phạm trù văn
hoá.
Như vậy, chúng ta có thể tiếp cận văn hố dưới nhiều
góc độ khác nhau. Song, dưới góc độ phương pháp luận nhằm
xây dựng mơi trường văn hố cơ sở thì cần tiếp cận văn hoá
như tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao các giá trị mang
tính nhân văn do con người sáng tạo theo tiêu chí chân, thiện,
mỹ trong tiến trình lịch sử và trở thành nhân tố ni dưỡng,


hoàn thiện, phát triển phẩm chất con người cùng đời sống
cộng đồng.
Quan điểm mácxít đó khơng những cho phép khắc phục
góc nhìn hạn hẹp coi văn hố chỉ gồm lĩnh vực đời sống tinh
thần của con người và cộng đồng, hoặc góc nhìn q rộng coi
tất cả những gì khơng phải tự nhiên đều là văn hố, mà cịn
cho phép vạch ra những định hướng cơ bản, sát thực tế để
xây dựng nền văn hoá Việt Nam đúng với bản chất, vai trò xã
hội và quy luật phát triển khách quan của nó. Để hiện thực
hố những vấn đề mang ý nghĩa khái quát ấy, cần tiếp cận rất
nhiều dạng thức tồn tại phong phú, sinh động của văn hoá,
trong đó cần đặc biệt phân định rõ văn hố vật thể với văn
hoá phi vật thể; văn hoá vật chất với văn hoá tinh thần và với
văn hoá tổ chức xã hội. Sự sai lầm trong hoạt động thực tiễn
xây dựng, phát triển văn hoá thường do sự phân định khơng
rõ ràng đối với những tiêu chí này gây nên.
Văn hoá vật thể bao gồm những giá trị văn hoá tồn tại

dưới dạng hữu hình, đánh dấu trình độ, tính chất và bộ mặt
phát triển của một cộng đồng hoặc một quốc gia dân tộc
trong tiến trình lịch sử. Đó là các di tích lịch sử - văn hố,
danh lam thắng cảnh, công cụ sản xuất, hệ thống giao thông,
thuỷ lợi, làng mạc, đơ thị, cơng trình kiến trúc, tác phẩm nghệ
thuật tạo hình... Cịn văn hố phi vật thể thì bao gồm những
giá trị văn hố tồn tại dưới dạng các biểu hiện tượng trưng vơ
hình, được lưu truyền và biến đổi qua thời gian do quá trình
bảo tồn, tái tạo, trùng tu của con người và cộng đồng. Chẳng
hạn như: bí quyết cơng nghệ truyền thống, văn học dân gian,
nghệ thuật biểu diễn, tiếng nói, chữ viết, thuần phong mỹ tục,


nghệ thuật ẩm thực, nguyên tắc y lý và phương pháp chữa
bệnh...
Sự phân định văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể chỉ
là tương đối. Trên thực tế, chúng gắn bó hữu cơ với nhau, lồng
vào nhau. Một cuốn tiểu thuyết là văn hoá vật thể khi được
xem xét dưới góc độ tiến bộ kỹ thuật sản xuất giấy, mực, trình
độ in ấn, đồng thời là văn hố phi vật thể với những nội dung
tư tưởng chứa đựng trong đó. Văn hố vật thể - kết quả q
trình vật thể hoá văn hoá - đã hàm chứa cả những giá trị văn
hố phi vật thể. Cịn văn hố phi vật thể - được coi như thước
đo giá trị của văn hoá, kể cả văn hoá vật thể - cũng khơng thể
tồn tại ở đâu khác ngồi những vật thể mang văn hoá. Cả văn
hoá vật thể và văn hoá phi vật thể đều phản ánh lĩnh vực đời
sống vật chất và lĩnh vực đời sống tinh thần; đều là đối tượng
sử dụng, là phương tiện, công cụ để trực tiếp thoả mãn nhu
cầu vật chất và nhu cầu tinh thần; và đều qua đó bồi bổ vốn
văn hố của mỗi con người, mỗi cộng đồng.

Văn hoá vật chất là tổng thể các giá trị văn hoá nảy sinh
trong quá trình sản xuất vật chất và quá trình tổ chức đời
sống vật chất của xã hội, đánh dấu một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử xã hội trong việc sáng tạo ra "giới tự
nhiên thứ hai". Văn hoá tinh thần là tổng thể các giá trị văn
hoá phản ánh quá trình sáng tạo tinh thần và quá trình tổ
chức đời sống tinh thần của con người và cộng đồng, bao gồm
tất cả những thành tựu của triết học, khoa học, nghệ thuật,
pháp luật, đạo đức, tôn giáo... hợp thành lĩnh vực tinh thần
của từng xã hội nhất định. Cịn văn hố tổ chức xã hội là tổng
thể các giá trị văn hố phản ánh trình độ người trong tổ chức


đời sống cộng đồng, từ thời đại mông muội, dã man đến thời
đại trung cổ, và từ thời đại trung cổ đến thời đại văn minh.
Đây cũng chỉ là sự phân định tương đối, bởi ngay trong
một sản phẩm văn hố có thể đồng thời chứa đựng văn hố
vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá tổ chức xã hội. Thanh
"thượng phương bảo kiếm" vừa đánh dấu trình độ chế tạo
kiếm (văn hoá vật chất), vừa khơi dậy tinh thần thượng võ
(văn hoá tinh thần), vừa đại biểu cho quyền uy của một vị vua
trong chế độ phong kiến (văn hoá tổ chức xã hội). Văn hoá
vật chất, văn hoá tinh thần và văn hoá xã hội đều tồn tại cả ở
hình thái vật thể và phi vật thể. Phương thức sản xuất không
chỉ quy định cách thức sản xuất ra của cải vật chất mà còn
quy định cả cách thức sáng tạo ra những sản phẩm tinh thần
và cách thức tổ chức đời sống xã hội. Đến lượt nó, những sản
phẩm vật chất và tinh thần cũng như cách thức tổ chức đời
sống xã hội do con người sáng tạo ra bao giờ cũng hàm chứa
dấu ấn văn hố, trở thành thước đo trình độ phát triển giá trị

người của một phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử.
Nói đến văn hố là nói đến con người, và quan hệ giữa
văn hoá với con người được khái qt trong phạm trù "mơi
trường văn hố". Về vấn đề này cho đến nay vẫn cịn có nhiều
góc độ nghiên cứu khác nhau, thậm chí có những cách nhìn
nhận trái ngược nhau. Song rõ ràng là, việc nắm vững quan
hệ hữu cơ giữa mơi trường văn hố với sự phát triển con người
và xây dựng đời sống cộng đồng xã hội trở thành một trong
những nội dung cơ bản hàng đầu của lý luận triết học - văn
hoá. Quan niệm khoa học về mơi trường văn hố cần được
tiếp cận từ cả hai khía cạnh: nhìn nhận tồn bộ mơi trường


sống của con người và cộng đồng dưới góc độ văn hố; và,
nhìn nhận tồn bộ các quan hệ giữa con người với văn hố
trong tư cách hồn cảnh sinh sống, hoạt động của con người.
Trước hết, quan hệ giữa văn hoá và con người biểu hiện
ở việc con người tác động vào tự nhiên một cách có văn hố.
Như mọi sinh vật, con người cũng sống trong những điều kiện
tự nhiên như địa lý, khí hậu, từ lực, trọng lực, ánh sáng... Tuy
nhiên, con người luôn lao động sáng tạo để cải biến những
điều kiện ấy cho phù hợp với mình chứ khơng chỉ thích ứng
một cách đơn thuần. Hơn nữa, thơng qua q trình sáng tạo
mang tính nhân văn mà con người sáng tạo ra chính bản thân
mình với tư cách "động vật văn hoá" duy nhất. Quan hệ giữa
văn hố và con người cịn phải được hiểu như là quan hệ giữa
bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân với những giá trị người
được hình thành và phát triển thơng qua q trình nhập thân
văn hố, tức là thơng qua các quan hệ nhân tính mà con
người tự phát triển, hoàn thiện hệ thống giá trị văn hố như

những tố chất căn bản bên trong của mình.
Sẽ là phiến diện nếu nhận thức văn hoá như là sự phát
triển các quan hệ nhân tính của con người trong sự đối lập
tuyệt đối với bản năng tự nhiên, nằm ngồi giới hạn sự thể
hiện bản tính tự nhiên. Khi nghiên cứu về nhân cách, C.Mác
luôn chỉ ra sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái
xã hội trong con người, rằng cái tự nhiên (bản năng) ở con
người bao giờ cũng là bản năng được ý thức. Chỉ có quan
niệm như thế mới thấy con người được hình thành như một
nhân cách trong tiến trình sinh thể, trong đó những yếu tố di
truyền, sinh lý, tâm lý và xã hội xoắn xuýt với nhau. Việc giải


quyết đúng đắn quan hệ giữa "cái sinh vật" với "cái xã hội"
chính là hướng con người theo đúng quỹ đạo Người. Đây là cơ
sở phương pháp luận để giải quyết quan hệ con người tự
nhiên - con người xã hội - con người giai cấp - con người dân
tộc.
Trong q trình sinh sống và hoạt động, con người khơng
chỉ thiết lập và thực hiện quan hệ với môi trường tự nhiên mà
cịn tạo ra mơi trường xã hội với tư cách là tổng hoà những
quan hệ giữa người và người. Khơng những thế, con người cịn
kết hợp giữa mơi trường tự nhiên với môi trường xã hội để
sáng tạo nên mơi trường văn hố - mơi trường sống đặc biệt
chỉ có ở cộng đồng người. Nếu tiếp cận văn hoá như sự phát
triển những giá trị người theo cái chân, thiện, mỹ trong tiến
trình lịch sử, thì mơi trường sống của con người bao qt tồn
bộ mơi trường xã hội và những gì thuộc mơi trường tự nhiên
nhưng được con người văn hố hố, là mơi trường được "lấp
đầy" bằng những cái văn hố - tức là mơi trường văn hố. Bởi

vì, quan hệ giữa văn hố với con người chủ yếu được biểu
hiện ở tồn bộ q trình con người sáng tạo ra tự nhiên thứ
hai - tự nhiên được "người hoá". C.Mác đã từng nhấn mạnh
rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hồ những quan hệ xã hội"([5]).
Mơi trường văn hố được thiết lập từ tổng thể các quan
hệ giữa con người với văn hố trong tính tồn vẹn và tính lịch
sử. Ở mỗi thời đại nhất định, văn hoá thấm vào tất cả các yếu
tố thuộc phẩm chất, năng lực của từng cá nhân, trong đó trình
độ học vấn, cả tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm, tuy
không đồng nhất với văn hố nhưng là chìa khố để con người


nhận thức, cải tạo thế giới. Hơn nữa, sự phát triển những giá
trị người ở từng cá nhân, đến lượt nó, lại đóng góp cái bản sắc
riêng có vào văn hố cộng đồng, khơng ngừng phấn đấu để
làm giàu thêm văn hoá cộng đồng và làm cho các nền văn
hoá khơng ngừng phát triển theo tiến trình lịch sử.
Quan hệ giữa con người với văn hố cịn thể hiện ở một
quá trình mà các yếu tố khách quan và chủ quan, khách thể
và chủ thể… tác động xoắn xuýt với nhau. Nội dung và hình
thức cụ thể của quá trình ấy biểu hiện trong sự tương tác biện
chứng giữa một bên là hoạt động cải tạo thế giới của con
người với một bên là ảnh hưởng của các điều kiện khách
quan. Vì vậy, sự hình thành và phát triển văn hố trong mỗi
con người vừa phụ thuộc vào các hình thức hoạt động cụ thể
của con người trong tiến trình lịch sử như những tiền đề cơ
bản; vừa phụ thuộc vào quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá
nhân với thế giới bên ngoài cũng như với cộng đồng, tập
đoàn, giai cấp, xã hội...; vừa phụ thuộc sự giáo dục có mục

đích, có tổ chức của các cộng đồng xã hội và sự tự giáo dục
của mỗi cá nhân.
Với ý nghĩa hiện thực của các cách tiếp cận nói trên, có
thể khẳng định rằng, quan hệ giữa con người với văn hố bao
giờ cũng dẫn đến sự hình thành một kiểu môi trường sống của
con người và cộng đồng mà ở đó, mỗi thành viên xác định
được toạ độ văn hố của mình trong khơng gian, thời gian
rộng lớn của nền văn hoá dân tộc và nhân loại, thấy được sự
hữu hạn của bản thân, cảm nhận được hạnh phúc đang có và
phấn đấu hết mình để thực hiện những mục tiêu, lý tưởng cao
đẹp.


Như vậy, có thể hiểu mơi trường văn hố là tổng hồ các
giá trị văn hố vật chất và văn hoá tinh thần tác động đến
con người và cộng đồng trong một khơng gian và thời gian
xác định. Nói cách khác, mơi trường văn hố bao hàm những
mặt, những bộ phận của mơi trường sống có khả năng tác
động theo những đường dẫn văn hoá đến con người. Các
đường dẫn văn hố chính là hạt nhân cốt lõi của mơi trường
văn hố, mặc dù nói đến đường dẫn văn hố thì khơng chỉ
bao gồm những tương tác văn hố giữa con người với ngoại
cảnh, mà còn là những tương tác văn hoá giữa con người với
đời sống nội tâm của mình. Tuy nhiên, để đi sâu nghiên cứu
thực chất của mơi trường văn hố thì nhất thiết phải tập trung
làm rõ những đường dẫn văn hoá giữa con người và hồn
cảnh.
Phương pháp luận mácxít khẳng định rằng, mọi sự vật,
hiện tượng, quá trình đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến.
Song, bản thân những mối liên hệ này không hình thành một

cách ngẫu nhiên, lộn xộn mà ln tn theo tính quy luật,
đồng thời chỉ xuất hiện rõ nét trong một hệ quy chiếu nhất
định, giữa ít nhất các khách thể thuộc cùng loại nhất định, và
phải gây nên sự ràng buộc, tác động ảnh hưởng lẫn nhau đủ
lớn. Xem xét cả về mặt chiều hướng, cả về tính chất sự ràng
buộc và tác động ảnh hưởng thì có thể phân định thành các
kiểu liên hệ: tiếp nhận hoặc tác động, hội nhập hoặc phân
cực, liên kết hoặc biến đổi, đơn tuyến hoặc đa tuyến... Tổng
hợp sự tác động và hấp dẫn lẫn nhau về mặt văn hoá giữa
một bên là con người, cộng đồng người với một bên là các sự
vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, trong xã hội và


trong đời sống nội tâm mỗi người luôn được coi như những
đường dẫn văn hoá đến với con người và xuất phát từ con
người.
Xét ở góc độ lấy các yếu tố văn hoá làm điểm xuất phát
để thiết lập hệ quy chiếu, thì mỗi sự vật hiện tượng, quá trình
trong tự nhiên hay trong xã hội, thuộc phạm trù vật chất hay
phạm trù tinh thần, đều toả ra quanh nó không phải là một,
mà là vô số mối liên hệ tác động. Tuy nhiên, chỉ có những tác
động về mặt văn hố của sự vật, tức là cái khía cạnh phản
ánh sự phát triển những giá trị người trong đó, và chỉ đối với
con người có văn hố, thì mới hợp thành đường dẫn văn hố.
Một cuốn sách q góp phần nâng cao hiểu biết, khả năng
thẩm mỹ, giáo dục lối sống, nền nếp ứng xử... của người đọc;
nhưng đối với nhà kinh doanh sách, nó toả ra sức hấp dẫn của
một mơi trường kinh tế; cịn đối với những con mối thì đó chỉ
đơn thuần là mơi trường... thức ăn(!) khơng hơn khơng kém.
Những người có nhiệt tâm ln chắt lọc được các giá trị văn

hố dù ở mơi trường cịn đang nghèo chất văn hố; cịn với
những người vơ cảm thì dù sống trong mơi trường chứa đầy
giá trị văn hố, họ cũng dửng dưng, khơng hề rung động.
Xét ở góc độ lấy con người làm điểm xuất phát để xác
lập hệ quy chiếu, thì mỗi con người và cộng đồng đều hình
thành xung quanh mình một "sức hút" văn hoá, thiết lập và
thực hiện các quan hệ văn hố có thể được với tất cả các sự
vật, hiện tượng, q trình trong khơng gian và thời gian tồn
tại, phát triển của mình. Tất nhiên, ngồi quan hệ văn hố,
con người cịn thiết lập và thực hiện các quan hệ khác, nhưng
chỉ có các quan hệ ảnh hưởng đến sự phát triển những giá trị



×